Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Xuất nhập khẩu của thủ đô viêng chăn nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào trong hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.99 KB, 105 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

XNK

Xuất nhập khẩu

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân,

KT-XH

Kinh tế - xã hội

1


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hóa luôn là một nội dung giữ vai trò đặc biệt quan trọng
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thực hiện chính sách mở
cửa với phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa kinh tế đối ngoại, hoạt
động xuất khẩu được coi là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Thực tế đã chứng minh, xuất khẩu là một phương hướng hữu dụng nhất để hội
nhập và tận dụng những cơ hội trong quá trình hội nhập để tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Xuất khẩu phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các
lĩnh vực, là điều kiện để nâng cao cuộc sống nhân dân, giải quyết công ăn
việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Sau gần 40
năm Xây Dựng và phát triển đất nước kể từ ngày giải phóng (1975), nền Kinh
Tế Lào đã có những chuyển biến đáng kể, từng bước thoát khỏi tình trạng


nghèo nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Thủ đô Viêng Chăn của nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào được
mệnh danh "Thành phố của mặt trăng" với những nét cổ kính xen lẫn hiện đại.
Thủ đô nằm trong khu đô thị đặc biệt Viêng Chăn. Ngày trước thủ đô Viêng
Chăn nằm trong tỉnh Viêng Chăn nhưng đến năm 1989 đã tách ra làm đôi:
tỉnh Viêng Chăn và khu đô thị đặc biệt Viêng Chăn. Thủ đô Viêng Chăn nằm
ở phía tây bắc CHDCND Lào, trên một nhánh sông Mekong, chính là biên
giới tự nhiên giữa Lào và Thái Lan. Thành phố không chỉ là biểu tượng về
chính trị, kinh tế, giáo dục mà là còn hiện thân của những giá trị văn hoá
truyền thống rực rỡ của dân tộc Lào. Trong những năm qua hoạt động xuất
nhập khẩu của Thủ đô Viêng Chăn đóng một vai trò quan trọng trong những
thành tưu của nền kinh tế CHDCND Lào. Qua thực tế nước CHDCND Lào đã
2


chứng minh, xuất khẩu nhập hàng hóa của cả nước nói chung và của Thủ đô
nói riêng là một công cụ hữu dụng nhất nhằm hội nhập và tận dụng những cơ
hội trong quá trình hội nhập để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thủ đô
Viêng Chăn cũng đã tận dụng tốt những cơ hội để đẩy mạnh xuất nhập khẩu
hàng hóa như: thực hiện mở cửa nền kinh tế bằng chiến lược hướng mạnh về
xuất nhập khẩu (XK) trên các nguyên tắc: đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ Thương Mại quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hợp
tác bình đẳng và cùng có lợi, phấn đấu vì mục tiêu hoà bình - độc lập - ổn
định, hợp tác và phát triển. Nhờ đó xuất nhập khẩu hàng hóa của Thủ đô
Viêng Chăn trong thời gian qua đã đạt những kết quả quan trọng, kim ngạch
xuất nhập khẩu ngày một tăng.Tuy nhiên, trong những năm qua hoạt động
xuất khẩu hàng hóa chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên
nhiên và con người của Thủ đô, kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ, thị
trường xuất nhập khẩu cũng còn hạn chế… Vì vậy cần phải tìm ra những giải
pháp để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ở Thủ đô Viêng Chăn nước

CHDCND Lào là rất cần thiết.
Từ những lý do nêu trên mà tôi đã lựa chọn đề tài: “Xuất nhập khẩu
của thủ đô Viêng Chăn nước Cộng hòa Dân Chủ Nhân dân Lào trong hội
nhập quốc tế”. Để làm luận văn tốt nghiệp, chuyên ngành kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của CHDCND Lào nói chung và
của Thủ đô Viêng Chăn nói riêng là một trong những chủ đề dành được nhiều
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Lào cũng
như các quốc gia trên thế giới trong những năm gần đây. Nhiều chương trình
nghiên cứu cấp quốc gia, nhiều đề tài khoa học cấp bộ, ngành, cũng như nhiều
luận văn, luận án tiến sĩ kinh tế cả ở Việt Nam và Lào đã đề cập đến các vấn đề
liên quan đến chủ đề này. Có thể nêu lên một số đề tài tiêu biểu sau đây
3


+ Năm 2003, Luận án Tiến sỹ của Chăm Seng Phim Ma Vông với đề
tài “Đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại ở CHDCND Lào” Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, có đưa ra kinh nghiệm của một số nước về đổi mới quản
lý Nhà nước về thương mại và bài học đối với Lào. Tác giả cũng đã đề cập
đến các nhân tố của chính sách thương mại. Tuy nhiên đề tài mà tác giả
nghiên cứu chỉ nhằm đổi mới quản lý Nhà nước về thương mại, mà chưa phân
tích sâu về đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa.
+ Luận án Tiến sỹ Bounna Hanexing Xay, với đề tài “Hoàn thiện
chính sách quan lý của Nhà nước về thương mại của nước CHDCND Lào
đến năm 2020”, Đại học KTQD- 2010, tác giả đề cập đến cơ chế, chính sách,
hệ thống tổ chức bộ máy nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước về thương mại,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý và đảm bảo thực hiện những
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; nêu ra
một số phương hướng, giải pháp để hoàn thiện chính sách quản lý Nhà nước
về thương mại của nước CHDCND Lào đến năm 2020.

+ Luận án TS. Phongtisouk Siphomthaviboun, đề tài “Hoàn thiện
chính sách thương mại quốc tế của CHDCND Lào đến năm 2020”, Đại học
KTQD, tác giả đã phân tích và đề xuất hoàn thiện chính sách thương mại
quốc tế của CHDCND Lào theo một khung phân tích thống nhất. Thông qua
việc phân tích thực tiễn vận dụng chính sách thương mại quốc tế của Lào
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và luận án đề xuất các quan điểm và
một số giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Lào trong thời
gian tới chẳng hạn như tăng cường hoàn thiện chính sách thuế quan, cụ thể
hóa hạn ngạch thuế, hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường theo ngành hàng
và theo công cụ áp dụng ở các thị trường xuất khẩu.
+ Tác giả Phoxay Sitthisonh trong công trình nghiên cứu của mình về
“Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của tỉnh Savannaket nước CHDCND Lào”,
4


năm 2006 cũng đã đề cập tổng quan về xuất khẩu hàng hóa, các nhân tố ảnh
hưởng đến xuất khẩu hàng hóa của tỉnh, đánh giá thực trạng hoạt động xuất
khẩu hàng hóa của tỉnh đến năm 2005. Tuy nhiên đề tài chỉ mới tập trung
nghiên cứu trong phạm vi một tỉnh của nước CHDCND Lào và mới về tình
hình xuất nhập khẩu đối với hàng hóa nói chung.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện, đầy đủ và cập nhật về vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
của Thủ đô Viêng Chăn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này là quan
trọng và cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất
nhập khẩu trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, đánh giá thực trạng
xuất nhập khẩu hàng hóa của Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND Lào trong
thời gian qua, chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên

nhân của những hạn chế. Từ đó, đề xuất các quan điểm và kiến nghị các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu hàng hóa của Thủ đô Viêng
Chăn nước CHDCND Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sắp tới.
3.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu.
+ Phân tích thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Thủ đô
Viêng Chăn CHDCND Lào giai đoạn 2010- 2014, chỉ ra những thành tựu, hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá của Thủ đô Viêng Chăn
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh xuất nhập
khẩu hàng hoá ở Thủ đô Viêng Chăn trong những năm sắp tới.
5


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.1Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa của Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND Lào trong quá trình hội nhập
quốc tế.
4.1.2.Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian nghiên cứu giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 và tầm
nhìn đến năm 2020.
- Phạm vi nghiên cứu luận án tập trung phân tích một số mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Viêng Chăn như cà phê, dệt may, điện lực, khoáng sản…
Luận văn đề xuất những giải pháp dưới giác độ kinh tế chính trị, không đề cập
các giải pháp kỹ thuật nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử dụng một số phương
pháp phổ biến trong nghiên cứu của kinh tế chính trị như:
+ Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa

Mác-Lênin, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê.
+ Ngoài ra, luận văn còn chú ý sử dụng các phương pháp thu thập
thông tin truyền thống, phương pháp chuyên gia để tìm hiểu một số vấn đề
trong quá trình đánh giá thực trạng và dự báo xu hướng phát triển của xuất
khẩu hàng hóa của Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCDN Lào.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Một là, luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về xuất
nhập khẩu hàng hóa trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn đã phân
tích được kinh nghiệm đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa của một số nước
và vùng lãnh thổ có điều kiện tương đồng với Thủ đô Viêng Chăn, qua đó rút

6


ra các bài học kinh nghiệm nhằm tham khảo, vận dụng trong quá trình đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hóa ở Thủ đô Viêng Chăn.
- Thứ hai, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá ở Thủ đô Viêng Chăn giai đoạn từ năm 2010 đến
năm 2014, qua đó chỉ ra được những thành tựu đã đạt được, những tồn tại hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá ở CHDCND Lào những năm vừa qua.
- Thứ ba, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đã tổng kết những đề
xuất các quan điểm, mục tiêu và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển
sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa ở Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2020.
Những giải pháp đề xuất trên là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội
của CHDCND Lào cũng như đối với Thủ đô Viêng Chăn vì vậy nó có tính
khả thi khi vận dụng nhằm đẩy mạnh xuất nhập khẩu trong giai đoạn sắp tới
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu hàng hóa trong
quá trình hội nhập quốc tế.
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Thủ đô
Viêng Chăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2010-2014
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất
nhập khẩu hàng hóa của Thủ đô Viêng Chăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào đến năm 2020.

7


CHƯƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Xuất nhập khẩu hàng hóa
1.1.1. Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hóa
Theo qui định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh XNK
thì hoạt động kinh doanh XNK phải nhằm phục vụ nền kinh tế trong nước
phát triển trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và thế
mạnh sẵn có về lao động, đất đai và các tài nguyên khác của nền kinh tế, giải
quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật
và qui trình công nghệ sản xuất, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất
nước, đáp ứng các yêu cầu cơ bản và cấp bách về sản xuất và đời sống, đồng
thời góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều hoà cung cầu để ổn định
thị truờng trong nước.
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi
nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn

định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. XNK là hoạt động dễ
đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với
một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia
XNK không dễ dàng khống chế được.
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản
xuất kinh doanh đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp
hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường
rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn,đồng tiền
thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới cửa khẩu,
8


cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng
như địa phương.
Hoạt động XNK được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều
khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá XNK, thương nhân
giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức
thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền
sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ
này phải được nghiên cứu đầy đủ,kỹ lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn
nhau,tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục
vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất, tiêu dùng trong nước.
Đối với người tham gia hoạt động XNK trước khi bước vào nghiên
cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu
cầu hàng hoá thị hiếu, tập quán tiêu dùng khả năng mở rộng sản xuất, tiêu
dùng trong nước, xu hướng biến động của nó. Những điều đó trở thành nếp
thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh XNK để nắm bắt được . Mặc
dù XNK đem lại nhiều thuận lợi song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế:
+ Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng XNK. Nếu
không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ kịp thời sẽ gây các

thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hoạt động xấu về kinh tế xã hội
như buôn lậu, trốn thuế, ép cấp, ép giá dễ phát triển.
+ Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế
bằng các biện pháp không lành mạnh như phá haoaị cản trở công việc của
nhau…việc quản lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn
phải chú trọng tới văn hoá và đạo đức xã hội.
1.1.2.Đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu
- Xuất nhập khẩu là hai hoạt động cơ bản cấu thành nên hoạt động
ngoại thương.

9


- Xuất – nhập khẩu là hoạt động buôn bán diễn ra trên phạm vi ngoài
quốc gia.
- Hoạt động xuất – nhập khẩu phức tạp hơn rất nhiều so với kinh doanh
trong nước. Điều này được thể hiện ở chỗ:
+ Thị trường rộng lớn khó kiểm soát
+ Chịu sự ảnh hưởng của nhiều các yếu tố khác nhau như môi trường
kinh tế, chính trị, luật pháp…của các quốc gia khác nhau. Tập quán, pháp
luật: 2 bên mua, bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập quán
kinh doanh khác nhau, do vậy phải tuân thủ luật kinh doanh cũng như tập
quán kinh doanh của từng nước và luật thương mại quốc tế.
+ Thanh toán bằng đồng ngoại tệ, hàng hóa được vận chuyển qua biên
giới quốc gia, phải tuân theo những tập quán buôn bán quốc tế.
+ Xuất – nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hóa, dịch vụ giữa các
quốc gia, nó rất phong phú và đa dạng, thường xuyên bị chi phối bởi các yếu
tố như chính sách, luật pháp, văn hóa, chính trị…của các quốc gia khác nhau
+ Nhà nước quản lý hoạt động xuất – nhập khẩu thông qua các công cụ
chính sách như: chính sách thuế, hạn ngạch, các văn bản pháp luật khác, quy

định các mặt hàng xuất – nhập khẩu…
+ Thời gian lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu:
Thời gian lưu chuyển hàng hóa trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu bao giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hóa trong hoạt
động kinh doanh nội địa do phải thực hiện hai giai đoạn mua hàng và 2 giai
đoạn bán hàng. Đối với hoạt động xuất khẩu là mua ở thị trường trong nước
bán cho thị trường ngoài nước, còn đối với hoạt động nhập khẩu là mua hàng
hóa của nước ngoài và bán cho thị trường nội địa. Do đó để xác định kết quả
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, người ta chỉ xác định khi hàng hóa đã
luân chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện xong 1 thương vụ ngoại
thương, có thể bao gồm cả hoạt động nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu.
10


- Hàng hóa kinh doanh xuất nhập khẩu:
Hàng hóa trong kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm nhiều loại trong
đó xuất khẩu chủ yếu những mặt hàng có thế mạnh trong nước (rau quả tươi,
hàng mây đan, thủ công mỹ nghệ...), còn nhập khẩu chủ yếu những mặt hàng
mà trong nước không có, chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng
được nhu cầu cả về số lượng, chất lượng, thị hiếu (hàng tư liệu sản xuất, hàng
tiêu dùng...). Thời gian giao, nhận hàng và thời điểm thanh toán: Thời điểm
xuất nhập khẩu hàng hóa và thời điểm thanh toán tiền hàng thường không
trùng nhau mà có khoảng cách kéo dài. Phương thức thanh toán: Trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, phương thức thanh toán chủ yếu được sử
dụng là phương thức thanh toán bằng thư tín dụng.
1.1.3.Vai trò của xuất nhập khẩu hàng hóa đối với nền kinh tế quốc
dân
* Đối với nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của TMQT, nhập khẩu tác
động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là

để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản
xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà sản xuất trong nước không sản xuất
được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế,
nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng
xuất khẩu,làm được như vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và
khai thác tiềm năng,thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động , vốn ,
cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kĩ thuật.
Chính vì vậy mà nhập khẩu có vai trò như sau:
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước

11


- Bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo
một sự phát triển cân đối ổn định.khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả
năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định cho
người lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao
chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu
hàng hoá ra thị trường quốc tế đặc biệt là nước nhập khẩu. Có thể thấy rằng
vai trò của nhập khẩu là hết sức quan trọng đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển (trong đó có CHDCND Lào) trong việc cải thiện đời sống kinh tế,
thay đổi một số lĩnh vực ,nhờ có nhập khẩu mà tiếp thu được những kinh
nghiệm quản lí, công nghệ hiện đại …thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh
chóng. Tuy nhiên, nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của xã hội
vừa tạo ra lợi nhuận các doanh nghiệp , chung và riêng phải hoà với nhau. Để
đạt được điều đó thì nhập khẩu phải đạt được yêu cầu sau:

* Tiết kiệm và hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn nhập khẩu: trong
điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường việc kinh doanh mua bán giữa
các nước đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại tệ
tự do. Do vậy, tấtcả các hợp đồng nhập khẩu phải dựa trên vấn đề lợi ích và
hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của quốc gia, cũng như mỗi doanh nghiệp đòi
hỏi các cơ quan quản lí cũng như mỗi doanh nghiệp phải:
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội ,khoa học kĩ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân
. + Giành ngoại tệ cho nhập khẩu vật tư để phụ sản xuất trong nước xét
thấy có lợi hơn nhập khẩu .
+ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp ,với giá
cả có lợi phục vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.

12


* Nhập khẩu thiết bị kĩ thuật tiên tiến hiện đại:
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ ,kể cả
thiết bị theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm vững phương trâm
đón đầu đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại .Nhập phải chọn lọc ,tránh
nhập những công nghệ lạc hậu các nước đang tìm cách thải ra. Nhất thiết
không vì mục tiêu “ tiết kiệm” mà nhập các thiết bị cũ, chưa dùng được bao
lâu ,chưa đủ để sinh lợi đã phải thay thế. Kinh nghiệm của hầu hết các nước
đang phát triển là đừng biến nước mình thành “bãi rác”của các nước tiên tiến.
* Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng nhanh xuất khẩu
Nền sản xuất hiện đại của nhiều nước trên thế giới đầy ắp những kho
tồn trữ hàng hoá dư thừavà những nguyên nhiên vật liệu .Trong hoàn cảnh
đó,việc nhập khẩu dễ hơn là tự sản xuất trong nước.Trong điều kiện ngành
công nghiệp còn non kém của Việt Nam, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn,
phẩm chất tốt hơn. Nhưng nếu chỉ nhập khẩu không chú ý tới sản xuất sẽ

“bóp chết”sản xuất trong nước .Vì vậy, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế
của nước ta trong từng thời kì để bảo hộ và mở mang sản xuất trong nước vừa
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở
rộng thị trường ngoài nước.
2.2. Đối với xuất khẩu.
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để
đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để
tăng thu ngoại tệ, tạo đIều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng.
Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất
khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết
công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. Như vậy xuất khẩu có vai trò hết sức to
lớn thể hiện qua việc:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.

13


Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu
máy móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập
khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Liên doanh đầu tư với nước
ngoài. Vay nợ, viện trợ, tài trợ. Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ. Xuất khẩu
sức lao động Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện
trợ…cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn
quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng
của nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế
hướng ngoại.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển
thuận lợi
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu

vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường
xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo
thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thế giới từ bên ngoài
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên
thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ
chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
+ Xuất khẩu cồn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn
thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của
nhân dân.

14


- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của đất nước. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền
kinh tế gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động
xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc
đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất
khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế… Tóm lại, đẩy mạnh
xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực
hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau
thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Chính vì

vậy hoạt động kinh doanh XNK cũng phải chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
mà các nhân tố này có thể mang tính vĩ mô hoặc mang tính vi mô. Cụ thể hoạt
động kinh doanh XNK chịu ảnh hưởng của những nhân tố sau:
- Nhân tố mang tính toàn cầu.
Đó là nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng
chung trên thế giói là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng
rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, các nhà kinh doanh XNK luôn phải
đối diện với các hạn chế thương mại khác nhau. Phổ biến nhất là thuế quan,
một loại thuế do chính phủ nước ngoài đánh vào những sản phẩm nhập khẩu.
Thuế quan có thể được qui định để làm tăng thu nhập cho quốc gia hay để bảo
hộ cho các doanh nghiệp trong nước. Nhà xuất khẩu cũng có thể đối diện với
một hạn ngạch ( quota ) là việc đề ra những giới hạn về số lượng những hàng
hoá mà nước nhập khẩu phải chấp nhận đối với những loại sản phẩm nào đó.
Mục tiêu của hạn ngạch là để bảo lưu ngoại hối và bảo vệ công nghệ
cũng như công ăn việc làm trong nước . Một sự cấm vận là hình thức cao nhất

15


của hạn ngạch , trong đó việc nhập khẩu các loại sản phẩm trong danh sách
cấm vận bị cấm hoàn toàn. Kinh doanh XNK cũng có thể bị hạn chế do việc
kiểm soát ngoại hối là việc điều tiết lượng ngoại tệ hiện có và tỷ giá hối đoái
so với đồng tiền khác. Các nhà kinh doanh XNK cũng có thể phải đối diện với
một loạt các hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu, những sự quản
lý, điều tiết định hình như phân biệt đối xử với các nhà đấu thầu nước ngoài,
các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử với hàng nước ngoài.
- Chế độ chính sách luật pháp của Nhà nuớc và quốc tế.
Đây là yếu tố mà doanh ngiệp kinh doanh XNK cần nắm rõ và tuân
thủ. Bởi vậy nó thể hiện ý chí thống nhất chung của quốc tế. Hoạt động XNK
được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, nên nó chịu sự tác

động của chính sách chế độ, luật pháp của quốc gia đó, đồng thời tuân theo
những qui định , luật pháp của quốc gia đó và nó phải tuân theo những qui
định , luật pháp quốc tế chung. Nhân tố thuộc môi trường văn hoá. Mỗi nước
đều có những tập tục, qui tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành heo
truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh huỏng to lớn đến tập tính tiêu
dùng của khách hàng nứơc đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm
xuất hiện khá nhiề tập tính tiêu dùng chung cho moị dân tộc, song những yếu
tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững có ảnh hưởng rất mạnh đến thói
quen và tâm lý tiêu dùng. Đặc biệt chúng thể hiện rất rõ trong sự khác biệt
giữa truyền thống phương Đông và phương Tây, giữa các tôn giáo và giữa các
chủng tộc. Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng quyết định
đến hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định sự hấp dẫn của thị trường thông qua
việc phản ánh tiềm lực thị trường và hệ thống cơ sở hạ tầng của một quốc gia.
Trong những năm gần đây, môi trường kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi do xu
hướng nhất thể hoá nền kinh tế có nhiều mức độ khác nhau như khu vực mậu
dịch tự do , khu vực thống nhất thuế quan, khu vực thị trường chung… Những

16


xu hướng này có tác động đến hoạt động xuất khẩu của các quốc gia theo hai
hướng : tạo ra sự ưu tiên cho nhau và kích thích tăng trưỏng của các thành
viên.
- Hệ thống giao thông vận tải , thông tin liên lạc
Việc thực hiện hoạt động XNK không thể tách rời công việc vận
chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin mà các bên có thể cách nhau
tới nửa vòng tráI đất vẫn thông tin được với nhau để thoả thuận tiến hành
hoạt động kịp thời. Việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là
công việc nặng nề tốn nhiều chi phí của hoạt động XNK. Do đó, nếu hệ
thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc của một nước thuận tiện sẽ

giúp cho việc thực hiện hoạt động XNK được tiến hành dễ dàng, nhanh
chóng và ngược lại.
- Hệ thống tài chính ngân hàng:
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh,
can thiệp tới tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế dù lớn hay nhỏ, dù ở
bất kỳ thành phần kinh tế nào. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ không thể thực
hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Dựa trên các
quan hệ, uy tín , nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận lợi mà các
doanh nghiệp tham gia hoạt đông XNK sẽ được đảm bảo về mặt lợi ích.
- Khả năng sản xuất, chế biến của nền kinh tế trong nước.
Kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói
riêng là mua bán hàng hoá chứ không phải để tiêu dùng cho chính mình .
Các doanh nghiệp XNK hoạt động trên thị trường đầu vào nhằm chuẩn bị
đầy đủ các yếu tố đầu vào trong đó quan trọng nhất là hàng hoá. Nguồn hàng
của doanh nghiệp XNK là toàn bộ và cơ cấu hàng hoá thích hợp với nhu cầu
của khách hàng đã và đang có khả năng huy động trong kỳ kế hoạch
- Doanh nghiệp và sức cạnh tranh trên thị trường

17


Doanh nghiệp không thể XNK được hàng hoá nếu doanh nghiệp
không có khả năng thu mua, chế biến và tiếp cận được với khách hàng
nước . Doanh nghiệp phải biết tận dụng thế mạnh để có một chỗ đứng vững
chắc trên thị trường.
1.2. Hội nhập quốc tế
1.2.1. Khái niệm
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội
của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn

ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến
trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện
đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia.
Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để
phát triển.
Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ
tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là
“intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu
trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể
chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp)
nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng
Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau
về khái niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên
bang, cho rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một
quá trình. Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như

18


Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ. Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái
này quan tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập
trước hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu
như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó
hình thành dần các cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch,
có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa
Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách

tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản
phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện
tượng/hành vi các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau
trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi
nước và mục tiêu theo đuổi.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp
cận phù hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng
chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi cho
rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã
hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất
định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành
các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi
ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách)
và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức
quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp
ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc
tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính
kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết

19


là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng
lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể
chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào
quá trình hội nhập quốc tế.
1.2.2. Nội dung của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng

cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ
gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa
phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
- Hội nhập kinh tế quốc tế
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu
vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra
theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được
chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:
- Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho
nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế
về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức
độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định Thương mại ViệtMỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ cụ thể của mô hình
liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.
- Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc cắt
giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể
bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại
hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các

20


nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực
mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Những năm gần đây, phần lớn các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực
điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này còn có
những quy định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với ÚcNiudilân (2009), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP- đang đàm
phán).

- Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại
bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách
thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và
Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.
- Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế
quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách
thuế quan chung đối với ngoài khối, các thành viên còn phải xóa bỏ các hạn
chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao động…) để
tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã
trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu)
trước khi trở thành một liên minh kinh tế.
- Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao
nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với việc thực
hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng
trung ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.
Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với
tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua
các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra
trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh

21


tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên
minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng
hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực
khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên
thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn
cầu hóa
- Hội nhập chính trị

Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu
nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể
hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về
các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực và
đặc biệt là quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế
thông qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập
các mối liên kết quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc
tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như ASEAN, EU) hay
một tổ chức có quy mô toàn cầu (chẳng hạn như Liên Hiệp quốc).
Giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế chính
trị và độ tin cậy hoàn toàn của các thành viên. Về mặt tổ chức quyền lực, các
thành viên chỉ giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các
quyền lực còn lại cho một cơ cấu siêu quốc gia. EU hiện nay là một mô hình
hội nhập chính trị cao.
- Hội nhập an ninh-quốc phòng
Hội nhập về an ninh-quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá
trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh.
Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song
phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia

22


sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt
động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng...
- Hội nhập về văn hóa-xã hội
Hội nhập về văn hóa-xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với
các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các
giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân

tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã hội
khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một
cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví
dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và
thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dụcxã hội với các nước.
Hội nhập văn hóa-xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu
sắc quá trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền
vững hơn cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày
càng gần gũi và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức tư duy
và hành động; tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa các
chính sách xã hội của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người
dân mỗi nước được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại, các
phúc lợi xã hội đa dạng; đặc biệt, hình thành và củng cố tình cảm gắn bó
thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn quốc gia của riêng mình (ý thức
công dân khu vực/toàn cầu)
1.2.3.Thuận lợi và khó khăn của hội nhập quốc tế
1.2.3.1.Thuận lợi
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy
việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc
phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ
nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
23


- Trên cơ sở các hiệp định đã ký kết, các chương trình phát triển kinh
tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội…được phối hợp hài hòa giữa các nước
thành viên. Nhờ đó, từng quốc gia thành viên có cơ hội và điều kiện thuận lợi
để khai thác tối ưu lợi thế của mình, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất
và cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của mỗi nước thành viên không chỉ theo hướng có lợi nhất, mà còn

dẫn tới việc hình thành cơ cấu kinh tế mới có tính chất khu vực. Thúc đẩy
quan hệ thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế khác không chỉ giữa các
nước thành viên, mà còn giữa khối với các quốc gia ngoài khối.
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá
bỏ hàng rào thuế quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ
góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho
người tiêu dùng. Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn
và tạo điều kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư, nâng cao hiệu quả, hạn
chế rủi ro đầu tư.
- Tạo cơ hội, điều kiện và khả năng thuận lợi cho việc xích lại gần nhau
giữa các thành viên không những về trình độ phát triển, mà cả về cơ cấu tổ
chức, hệ thống pháp luật và chính sách, năng lực quản lý và vận hành nền
kinh tế, cho phép các bên có thể điều chỉnh lẫn nhau các chiến lược và kế
hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng
quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước, đồng thời giúp các
nước tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển.
1.2.3.2.Khó khăn
- Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Nguồn tài chính được
phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các
nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Quá trình hội nhập và toàn cầu
hoá càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn và tất yếu rủi ro sẽ lớn hơn.
24


- Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là các
nước đang phát triển phải giảm dần thuế quan và bỏ hàng rào phi thuế quan,
nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá dịch vụ nước ngoài sẽ ồ ạt đổ
vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển đã làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ

của các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của
quá trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn
cầu trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu… Các nước càng
yếu kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp
với các định chế quốc tế, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu… thì
càng chịu tác động nặng nề hơn.
- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Trong quá trình hội nhập một số
quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường
tài chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng
mở rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển thì một
số nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương
mại, thu hút vốn đầu tư tất yếu sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau.
- Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá là xu hướng hình thành thế độc
quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế.
Ngoài ra còn có những mặt tiêu cực khác nữa như sự chênh lệch về
trình độ giữa nước giàu và nước nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các
nền văn học…
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho các
nước những cơ hội thuận lợi lớn đồng thời cũng đứng trước những khó khăn
thách thức nghiêm trọng. Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ
đến đâu điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc
gia. Một chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp thì tác động của
quá trình này sẽ bị hạn chế và ngược lại.
25


×