Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn quận đống đa, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HẢI LÝ

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HẢI LÝ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ luật học này là công trình nghiên cứu của
tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Đỗ Thị Dung. Các số liệu, tài liệu, trích dẫn trình bày
trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.

Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2019
Ngƣời thực hiện

Nguyễn Thị Hải Lý


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Mở Hà
Nội, đã cung cấp những kiến thức và đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành
chương trình sau đại học và nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, tiến sĩ Đỗ Thị Dung - người đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn các đồng nghiệp trong cơ quan nơi tôi công tác, gia đình,
người thân và tất cả bạn bè - những người luôn động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2019
Học viên

Nguyễn Thị Hải Lý


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ASXH

An sinh xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

HĐND

Hội đồng nhân dân

NLĐ

Người lao động

Nxb

Nhà xuất bản

UBND


Ủy ban nhân dân

ILO

International Labour Oganization


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ
HỘI TỰ NGUYỆN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH ......................................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật bảo hiểm xã
hội tự nguyện ............................................................................................................... 8
1.1.1. Bảo hiểm xã hội tự nguyện ................................................................................8
1.1.2. Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện..............................................................13
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện .... 20
1.2.1. Quy định đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ...............................20
1.2.2. Quy định mức phí và phương thức đóng phí BHXH tự nguyện ......................21
1.2.3. Quy định chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................................23
1.2.4. Quy định thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ..................................29
1.2.5. Quy định xử lý vi phạm hành chính về BHXH tự nguyện ...............................31
Két luận Chƣơng 1 .................................................................................................. 33
Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................... 34
2.1. Khái quát về quận Đống Đa và bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, thành phố Hà

Nội ............................................................................................................................. 34
2.1.1. Khái quát về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội .............................................34


2.1.2. Khái quát về bảo hiểm xã hội quận Đống Đa và hoạt động triển khai thực
hiện pháp luật BHXH tự nguyện ............................................................................... 35
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội ...................................................................................................... 39
2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội .......................................................................39
2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại trong thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện tại
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội và nguyên nhân ................................................477
Kết luận Chƣơng 2 .................................................................................................. 51
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................... 52
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo
hiểm xã hội tự nguyện tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ................................... 52
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện .............. 55
3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự
nguyện tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ........................................................... 59
Kết luận Chƣơng 3 .................................................................................................. 65
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 666
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 68


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một trong những nội dung quan trọng của
BHXH nói chung. Đây là loại hình BHXH do NLĐ tự nguyện tham gia đóng phí

vào quỹ BHXH và được hưởng các chế độ theo quy định. Mục đích là nhằm bảo
đảm đời sống cho NLĐ khi gặp rủi ro bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc
chết.
Ở Việt Nam, BHXH tự nguyện mới được triển khai thực hiện từ ngày
01/01/2008 theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2006. Do những vai trò
mang lại và những ưu việt trong việc đáp ứng được nhu cầu của NLĐ ở khu vực phi
chính thức, không tham gia quan hệ lao động nên BHXH tự nguyện được kế thừa và
quy định cụ thể trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014. Các quy định về BHXH tự
nguyện đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để NLĐ tham gia BHXH tự nguyện nhằm
bảo đảm thu nhập khi hết khả năng lao động và chết, bảo đảm an sinh xã hội của đất
nước.
Sau gần 4 năm thực hiện, các quy định của pháp luật về BHXH tự nguyện
trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 đã dần bộc lộ những bất cập. Đó là số người
tham gia BHXH tự nguyện còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu như định hướng
của Đảng, Nhà nước; mức đóng BHXH tự nguyện chưa phù hợp với thực tế thu
nhập của NLĐ; các chế độ và quyền lợi hưởng chưa bảo đảm được nhu cầu đời
sống của NLĐ khi gặp rủi ro khi hết khả năng lao động; điều kiện về thời gian được
hưởng chế độ khi tham gia BHXH tự nguyện dài; các chế độ của BHXH tự nguyện
còn ít, nhiều chế độ cần thiết đối với NLĐ lại chưa được ghi nhận,…Theo BHXH
Việt Nam, đến hết năm 2018, số người tham gia BHXH tự nguyện khoảng 405.000
người, chiếm tỷ lệ thấp so với lực lượng lao động trong xã hội.1

1

[Ngọc Dung, Bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa hấp dẫn, vì sao?
truy cập ngày 25/8/2019]

1



So với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, tỷ lệ NLĐ tham gia BHXH tự
nguyện ở thành phố Hà Nội tương đối cao hơn, đặc biệt ở các quận nội thành, trong
đó có quận Đống Đa. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về BHXH tự nguyện trên
địa bàn quận vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Cụ thể như: Công tác
phát triển, mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện còn chậm, chưa có sự
phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan ban ngành trên địa bàn quận trong thực hiện
BHXH tự nguyện, công tác thu phí, chi trả chế độ BHXH tự nguyện chưa đạt được
mục tiêu đặt ra,… Ngoài ra, mạng lưới đại lý thu BHXH tự nguyện còn ít, chưa
thuận tiện cho NLĐ tham gia. NLĐ muốn tham gia BHXH tự nguyện nhưng không
biết tham gia như thế nào, đóng ở đâu, mức đóng bao nhiêu,…
Để góp phần khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật về
BHXH tự nguyện, đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH tự
nguyện nhằm ngày càng mở rộng diện “bao phủ” BHXH tự nguyện trên địa bàn
quận Đống Đa nói riêng, các địa phương trong cả nước nói chung như mục tiêu đặt
ra trong các nghị quyết của Đảng, em lựa chọn vấn đề: “Pháp luật về bảo hiểm xã
hội tự nguyện từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” để làm đề tài
nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BHXH tự nguyện và pháp luật BHXH tự nguyện đã được các nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và tiếp cận theo nhiều cách với những cấp độ khác
nhau. Cụ thể:
Giáo trình, sách tham khảo: Đó là các Giáo trình luật an sinh xã hội của các
cơ sở đào tạo luật học, như: Giáo trình luật an sinh xã hội của Trường Đại học Luật
Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm 2013; Giáo trình bảo hiểm xã hội của Trường
Đại học Lao động - xã hội, Nxb Lao động - xã hội năm 2011; Giáo trình Luật an
sinh xã hội do PSG.TS Nguyễn Hữu Chí chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2012;
Giáo trình Luật an sinh xã hội của Viện Đại học Mở Hà Nội, Nxb Lao động - xã
hội, Hà Nội năm 2018;… Các sách tham khảo, chuyên khảo như: “Hệ thống An

2



sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Đinh Công Tuấn,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008; “Pháp luật an sinh xã hội - những vấn đề lý
luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp năm 2010 của tác giả Nguyễn Hiền Phương; “Bình
luận một số nội dung của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014” do TS Nguyễn Hiền
Phương chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2016. Trong các giáo trình và sách
chuyên khảo này đã có nội dung đề cập đến pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Bài tạp chí: Có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập đến
BHXH tự nguyện. Đó là bài viết: “Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện của một
số nước trên thế giới” của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đăng trong Thông tin Khoa
học bảo hiểm xã hội, số 3/2014; “Giảm mức bảo hiểm xã hội tự nguyện: tín hiệu tốt
cho người nghèo” của tác giả Nguyễn Hạnh, Báo Công thương online; “Phân tích
thực trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động tự do” của
Nguyễn Thị Thúy, Báo Công thương online, “Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện”
của Nguyễn Xuân Thu, đăng trên Tạp chí Luật học, số 9 năm 2006;…
Luận án, luận văn: Luận án: “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và
hoàn thiện khung pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hiền
Phương, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2009.
Các luận văn của các cơ sở đào tạo luật, như: luận văn “ Pháp luật về bảo
hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Phạm Thị Quỳnh
Trang, Học viện Khoa học xã hội, năm 2014; Luận văn “Pháp luật về bảo hiểm xã
hội tự nguyện - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Dương Thảo Phương, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2014; Luận văn “Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm xã
hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phan Võ Thị Hạnh Thủy, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2015; Luận văn “Pháp luật BHXH tự nguyện và thực tiễn thi
hành tại thành phố Hải Phòng” của tác giả Hoàng Mỹ Linh, Trường Đại học Luật
Hà Nội, năm 2018.
Báo cáo: Các báo cáo, gồm báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, báo cáo
trong các hội thảo của Bộ Lao động, thương binh và xã hội, của các cơ quan có


3


thẩm quyền. Đó là: Báo cáo tình hình thực hiện chính sách BHXH tự nguyện của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam năm 2010. Báo cáo tổng kết ngành BHXH năm 2011của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam năm 2012; Báo cáo tổng kết thực hiện Luật BHXH của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam năm 2013; Báo cáo tổng kết công tác của Bảo hiểm xã hội
các tỉnh, thành phố, các quận, huyện.
Nhìn chung các công trình nói trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về
BHXH tự nguyện, thực trạng pháp luật BHXH tự nguyện và từ đó đưa ra một số
kiến nghị hoàn thiện những bất cập trong quy định của pháp luật BHXH tự nguyện.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các quy định của Luật BHXH năm
2006. Bên cạnh đó cũng có một số luận văn nghiên cứu về quy định BHXH tự
nguyện trong Luật BHXH năm 2014. Song, cho đến nay, chưa có công trình nào
nghiên cứu về thực tiễn thực hiện BHXH tự nguyện tại quận Đống Đa, thành phố
Hà Nội.
Vì thế, tuy đề tài luận văn không mới, nhưng việc nghiên cứu đối tượng mới,
đó là quy định của pháp luật BHXH tự nguyện theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
và thực tiễn thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện trên địa bàn quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội, là đề tài không trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về pháp
luật BHXH tự nguyện, phân tích thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về
BHXH tự nguyện, thực tiễn thực hiện pháp luật này tại quận Đống Đa, thành phố
Hà Nội. Từ những điểm bất cập trong quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật về BHXH tự nguyện tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, luận văn đưa
ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về BHXH tự nguyện và một
số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện tại quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về BHXH tự nguyện và pháp luật BHXH
tự nguyện.

4


- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về BHXXH tự nguyện.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về BHXH
tự nguyện tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
- Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về BHXH tự nguyện
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện tại quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành của Việt Nam về BHXH tự nguyện theo quy định của Luật bảo hiểm
xã hội năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cùng với đó, luận văn
nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện trên cơ sở các tài
liệu, số liệu trong những năm gần đây của bảo hiểm xã hội quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề: đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện; Phí đóng và phương thức đóng BHXH tự nguyện; Các chế độ
BHXH tự nguyện; Thủ tục thực hiện BHXH tự nguyện và thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại về BHXH tự nguyện, nhằm phù hợp với thực tiễn thực hiện pháp luật
BHXH tự nguyện tại Quận Đống Đa.
Luận văn không nghiên cứu các nội dung sau:
- Khiếu nại, tố cáo về BHXH tự nguyện, quản lý sự nghiệp về BHXH tự
nguyện, vì đây là những vấn đề chung bao gồm của cả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp, chứ pháp luật không quy định riêng cho BHXH tự nguyện.

- Bảo hiểm hưu trí bổ sung, vì mặc dù đây cũng là loại hình bảo hiểm mang
tính tự nguyện, song do những đặc điểm riêng mà bảo hiểm hưu trí bổ sung được áp
dụng như một hình thức bổ sung cho BHXH bắt buộc. Vì thế, luận văn cũng không
nghiên cứu nội dung này.

5


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
của học thuyết Mác - Lênin bao gồm phép biện chứng duy vật và phương pháp luận
duy vật lịch sử; dựa trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng và nhà nước về
chính sách BHXH ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
lịch sử, phân tích, chứng minh, so sánh, so sánh luật học, nghiên cứu thực tiễn, tổng
hợp, dự báo khoa học.
Tùy từng nội dung mà các phương pháp nghiên cứu này được sử dụng linh
hoạt, kết hợp hoặc riêng rẽ với nhau.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn đã làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về về BHXH
tự nguyện và pháp luật về BHXH tự nguyện; Phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật hiện hành về BHXH tự nguyện và thực tiễn thực hiện tại quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội. Luận văn đã đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy
định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH tự nguyện tại
BHXH quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần cung cấp kiến thức cho những người
đang làm công tác thực tiễn về BHXH nói chung, BHXH tự nguyện nói riêng, cho
người tham gia BHXH tự nguyện, đặc biệt là cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống
Đa, thành phố Hà Nội. Qua đó, giúp họ thực thi pháp luật BHXH tự nguyện đúng,
đảm bảo quyền lợi. Bên cạnh đó, luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho

sinh viên, học viên, các nhà nghiên cứu quan tâm đến pháp luật BHXH tự nguyện
nói riêng, pháp luật BHXH nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu 3 chương:

6


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

7


Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP
LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật bảo hiểm
xã hội tự nguyện
1.1.1. Bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện
Khi BHXH mới ra đời, các quốc gia chỉ quy định về BHXH bắt buộc, áp
dụng đối với một số đối tượng nhất định có tham gia quan hệ lao động. Tuy nhiên,
xã hội càng phát triển, tuổi thọ của NLĐ càng cao, nhu cầu về bảo hiểm thu nhập

của NLĐ càng cấp thiết.2 Hiện nay, trên thế giới, có hai mô hình BHXH tự nguyện.
Đó là mô hình BHXH tự nguyện áp dụng như một hình thức bảo hiểm bổ sung cho
BHXH bắt buộc và mô hình BHXH tự nguyện áp dụng cho NLĐ tự nguyện tham
gia. Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng chính sách BHXH tự nguyện vẫn là
chính sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Nhà
nước quy định mức đóng góp để hình thành quỹ BHXH tự nguyện đủ lớn để chi trả
cho người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng các chế độ mà người tham gia
BHXH được hưởng.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là
loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ chức, bảo trợ của
Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu bảo hiểm”.3
Dưới góc độ pháp lý, BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước tổ
chức và quản lý mà NLĐ tự nguyện tham gia, được lựa chọn tham gia, được lựa
chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của bản thân nhằm đảm
2
3

[33, tr.85].
[30, tr.49-55].

8


bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của NLĐ và gia đình khi họ hết khả năng lao động
hoặc chết, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Ở Việt Nam, khái niệm BHXH tự nguyện lần đầu tiên được quy định tại Luật
bảo hiểm xã hội năm 2006. Cụ thể: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo
hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội”. 4 Kế
thừa quy định này, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, tại khoản 3 Điều 3 đưa ra định

nghĩa: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà
người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập
của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người
tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất”.5
Có thể thấy, định nghĩa về BHXH tự nguyện theo pháp luật Việt Nam năm
2014 đã có sự bổ sung so với Luật bảo hiểm xã hội 2006. Theo đó, định nghĩa này đã
nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong BHXH tự nguyện, đồng thời định nghĩa cũng
đưa ra 2 chế độ mà người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng đó là chế độ hưu trí
và chế độ tử tuất. Như vậy, so với trước, định nghĩa về bảo hiểm xã hội tự nguyện
theo Luật bảo hiểm xã hội 2014 cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Với quy định này, NLĐ dễ
hiểu hơn về BHXH tự nguyện và dễ hình dung về các nghĩa vụ và quyền lợi khi
tham gia BHXH tự nguyện. Tuy nhiên việc quy định các chế độ BHXH tự nguyện
trong khái niệm này phần nào làm hạn chế việc mở rộng chế độ BHXH tự nguyện
trong tương lai.
Từ những nghiên cứu trên, luận văn đưa ra cách hiểu về BHXH tự nguyện
như sau: BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà
người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập
của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế
độ BHXH.

4
5

[1, Điều 3].
[2, Điều 3].

9


BHXH tự nguyện có các đặc điểm sau đây:

- Thứ nhất, bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ sở tự nguyện
của người tham gia.
Khác với BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà NLĐ và người sử dụng lao
động phải bắt buộc tham gia theo quy định của pháp luật. BHXH tự nguyện thực
hiện hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện của NLĐ tham gia, họ được quyền tự quyết
định có tham gia BHXH tự nguyện hay không. Người tham gia được lựa chọn mức
đóng bao nhiêu, đóng bằng phương thức nào phù hợp với điều kiện kinh tế và nhu
cầu của bản thân.
Đối tượng của BHXH tự nguyện thường là những NLĐ có thu nhập thấp và
không ổn định nên họ cần được tạo điều kiện phù hợp với nhu cầu để thuận lợi hơn
cho họ khi tham gia BHXH tự nguyện. Điều đó tạo điều kiện cho mọi NLĐ trong xã
hội, dù giữa họ có sự chênh lệch về mức thu nhập. Tuy nhiên, sự tự nguyện của
NLĐ phải trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây là điểm khác với bảo hiểm thương
mại, Nhà nước chỉ ban hành những nội dung cơ bản nhất còn các chính sách, chiến
lược cụ thể là do các công ty bảo hiểm thực hiện. Đối với BHXH tự nguyện, Nhà
nước quy định bằng văn bản pháp luật rất cụ thể và chặt chẽ các nội dung về đối
tượng tham gia, giới hạn mức phí đóng và phương thức đóng phí, thủ tục thực hiện
đóng phí và chi trả quyền lợi.
- Thứ hai, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu là NLĐ
không tham gia quan hệ lao động và có thu nhập ổn định.6
Nếu như BHXH bắt buộc chỉ áp dụng đối với NLĐ có tham gia quan hệ lao
động, thì BHXH tự nguyện chủ yếu áp dụng với NLĐ không tham gia quan hệ lao
động. Bởi xất phát từ thực tế, nếu NLĐ đi làm, bán sức lao động cho NSDLĐ thì
NLĐ được NSDLĐ có trách nhiệm bảo đảm đời sống cho NLĐ khi hết khả năng
lao động và khi chết. Còn những NLĐ tự tạo việc làm, hoặc có tham gia quan hệ lao
6

[Hoàng Mỹ Linh, Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn thi hành tại thành phố Hải Phòng,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2018, tr.10].


10


động nhưng đã được NSDLĐ trả tiền BHXH vào tiền lương hàng tháng phải tự tích
lũy để bảo đảm cho mình khi già và chết. Vì khi này, hết khả năng lao động, thu
nhập của họ sẽ bị giảm sút hoặc không còn làm việc để có thu nhập, vì thế họ sẽ khó
được bảo đảm đời sống, trong khi nhu cầu về ăn uống, sinh hoạt, khám chữa bệnh
nhiều khi tăng lên. Bởi vậy, khi tham gia BHXH tự nguyện, họ sẽ có khoản trợ cấp
đáp ứng nhu cầu của đời sống. Khi chết, BHXH tự nguyện sẽ trợ cấp tiền mai táng
và trợ cấp một lần cho thân nhân của họ.
Ngoài ra, khi còn đi làm, có thu nhập, họ cũng phải có trách nhiệm đối với
bản thân mình, bằng cách tham gia đóng phí vào quỹ BHXH do nhà nước tổ chức.
Để bảo đảm ổn định cho quỹ này hoạt động lâu dài và có nguồn chi đảm bảo, nhà
nước quy định mức phí đóng phù hợp. Theo đó, NLĐ phải có thu nhập ổn định.
- Thứ ba, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được lựa chọn
mức phí và phương thức đóng phí vào quỹ BHXH.
Trên cơ sở thu nhập ổn định mà pháp luật quy định, NLĐ tự lựa chọn mức
tiền phù hợp với thu nhập của mình để phí vào quỹ BHXH. Mức phí này được thay
đổi nếu mức thu nhập của NLĐ thay đổi và được NLĐ lựa chọn.
Điểm đặc biệt của BHXH tự nguyện nữa là NLĐ được lựa chọn phương thức
đóng phí chứ không mang tính ấn định như BHXH bắt buộc. Theo đó, NLĐ tùy vào
thời điểm ổn định nguồn thu nhập của mình mà lựa chọn thời điểm đóng phí. Có thể
theo phương thức đóng hàng tháng, nhiều tháng hoặc nhiều năm đóng phí một lần.
Việc linh hoạt trong lựa chọn mức phí đóng và phương thức đóng phí cho NLĐ
tham gia BHXH tự nguyện chính là nhằm tạo điều kiện cho NLĐ được tham gia
BHXH, được hưởng các quyền lợi về BHXH.
- Thứ tư, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có thể được nhà
nước hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội.
Nếu như BHXH bắt buộc hoàn toàn do NLĐ và NSDLĐ đóng phí BHXH thì
ở BHXH tự nguyện, khi NLĐ tham gia thì sẽ được nhà nước hỗ trợ thêm tiền đóng.

Việc hỗ trợ này nhằm mục đích bảo đảm cho nguồn đóng BHXH tự nguyện được
11


tăng lên, theo đó bảo đảm được các chế độ cho NLĐ tham gia. Mức hỗ trợ tùy thuộc
vào quy định của pháp luật từng thời kỳ, đồng thời tùy thuộc vào mức đóng của
NLĐ. Đối với những người có mức phí đóng thấp sẽ được hỗ trợ nhiều hơn so với
trường hợp ngược lại. Đặc điểm này vừa thể hiện điểm riêng của BHXH tự nguyện,
đồng thời vừa thể hiện chính sách nhân văn của Đảng và nhà nước trong việc phát
triển BHXH tự nguyện.
1.1.1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Thứ nhất, bảo hiểm xã hội tự nguyện góp phần ổn định đời sống của người
tham gia BHXH.
Những người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, chết... Do đối tượng tham
gia BHXH tự nguyện là những NLĐ tự do, hầu như không có quan hệ lao động với
người sử dụng lao động, thu nhập thường không ổn định như: nông dân, người kinh
doanh, buôn bán tự do,… Việc tham gia BHXH tự nguyện còn giúp NLĐ có ý thức
trong việc tiết kiệm đầu tư những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần
thiết chỉ dùng khi già yếu, mất sức lao động, góp phần ổn định cuộc sống cho bản
thân và gia đình. Nhờ có sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà
người tham gia BHXH tự nguyện được bảo đảm đời sống ổn định và lâu dài.
Thứ hai, BHXH tự nguyện góp phần thực hiện công bằng xã hội.
BHXH tự nguyện góp phần tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng
đồng xã hội, cùng truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa những NLĐ trong xã hội và
góp phần thực hiện công bằng xã hội, phân phối lại thu nhập xã hội trên cơ sở sự
tương trợ để thiết lập hệ thống an sinh xã hội bền vững. Bởi sự phân phối trong
BHXH tự nguyện là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại
giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những
người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh,

may mắn có việc làm ổn định cho những người tuổi già, hết khả năng lao động. Ở
các nước phát triển và đang phát triển, trong điều kiện kinh tế thị trường, khi sự bất

12


bình đẳng về thu nhập tăng cao. Chính phủ các nước đều đưa ra các chính sách để
giảm dần khoảng cách giàu, nghèo. Trong đó, chính sách BHXH tự nguyện là một
trong những chính sách tạo sự bình đẳng cho NLĐ, góp phần làm giảm bớt khoảng
cách giữa người giàu và người nghèo.7
Thứ ba, BHXH tự nguyện góp phần bảo đảm ASXH của đất nước.
Trong xã hội luôn có một bộ phận những người có thu nhập thấp, không ổn
định, nên nếu nhà nước không có chính sách để bảo hiểm thu nhập cho họ khi về
già hoặc khi gặp rủi ro thì tương lai những người này tạo gánh nặng cho nhà nước
thông qua các chế độ trợ cấp xã hội mà nhà nước phải thực hiện. Nhưng nếu nhà
nước tổ chức thực hiện tốt việc đóng phí vào quỹ tài chính tập trung để bảo hiểm
thu nhập cho những NLĐ này thì nguồn quỹ do họ đóng góp sẽ tạo cơ chế chia sẻ,
nhằm giảm bớt những rủi ro, góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an
toàn cho sản xuất và đời sống xã hội và tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Về
cơ bản, nguồn kinh phí để thực hiện chính sách BHXH tự nguyện do NLĐ tham gia
đóng góp, Nhà nước hỗ trợ để đảm bảo cho quỹ BHXH không bị phá sản đã giảm
bớt được “gánh nặng” cho Ngân sách Nhà nước, nhưng Nhà nước vẫn thực hiện
được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài và bền vững, góp phần đảm bảo sự ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.1.2. Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
Xuất phát từ những nhu cầu của cuộc sống là đảm bảo thu nhập khi NLĐ hết
khả năng lao động hoặc chết mà BHXH tự nguyện xuất hiện bên cạnh BHXH bắt
buộc như một nhu cầu khách quan. Hiện nay, BHXH tự nguyện được thực hiện

rộng rãi trên thế giới. Ở mỗi quốc gia khác nhau, có trình độ phát triển dân trí khác
nhau thì chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện cũng có những điểm khác nhau.
Dù trình độ dân trí có khác nhau nhưng loại hình BHXH tự nguyện là loại hình
7

[19, tr. 84].

13


được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của người tham gia, bằng cách đóng
góp một phần thu nhập của mình để được hưởng chế độ BHXH nhằm giảm bớt
những khó khăn khi NLĐ hết khả năng lao động bị giảm hoặc mất thu nhập. Bảo
hiểm xã hội tự nguyện là một chính sách xã hội của quốc gia nhưng đồng thời cũng
là công cụ của Nhà nước nhằm tham gia vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân
một cách hợp lý giữa các tầng lớp xã hội, giúp thực hiện xây dựng chế độ an sinh xã
hội lâu dài và bền vững, góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Ở Việt Nam, pháp luật BHXH ra đời từ khi thành lập nước năm 1945, tuy
nhiên các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện tại Việt Nam mới được cụ thể tại
Luật BHXH 2006 và được sửa đổi, hoàn thiện hơn trong Luật BHXH 2014. Theo đó,
pháp luật BHXH tự nguyện điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động
BHXH trong đó bao gồm các quy định về đối tượng tham gia, mức đóng phí, mức
hưởng bảo hiểm cho đến quy định về thủ tục thực hiện BHXH tự nguyện, mức phí và
phương thức đóng phí BHXH tự nguyện và các vấn đề khác có liên quan.
Từ đó, có thể hiểu pháp luật BHXH tự nguyện là hệ thống những quy định
do Nhà nước ban hành, quy định về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, mức phí
và phương thức đóng phí, các chế độ BHXH tự nguyện, thủ tục hưởng quyền lợi,
quản lý của nhà nước và vấn đề khác về BHXH tự nguyện.
1.1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện

Thứ nhất, mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở thu
nhập của người lao động.
Nguyên tắc này dựa trên cơ sở đối tượng của BHXH tự nguyện là thu nhập
của NLĐ. Nếu thu nhập này bị biến động mà suy giảm hoặc mất do suy giảm thu
nhập thì NLĐ được thay đổi mức phí đóng. Mức thu nhập được bảo hiểm là mức
thu nhập do NLĐ lựa chọn trên cơ sở thu nhập thực tế của mình và trong khung quy
định của pháp luật.

14


Khác với BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện hoàn toàn do NLĐ đóng. Quy
định này xuất phát từ việc do NLĐ không tham gia quan hệ lao động hoặc có tham
gia nhưng đã được người sử dụng lao động trả tiền BHXH vào tiền lương hằng
tháng. Ví dụ lao động giúp việc gia đình, lao động làm việc theo hợp đồng lao động
có thời hạn dưới 1 tháng,…
Thứ hai, mức hưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở thời
gian đóng và mức đóng bảo hiểm xã hội.
Thời gian đóng BHXH tự nguyện là khoảng thời gian được tính từ khi NLĐ
bắt đầu đóng BHXH tự nguyện cho đến khi dừng đóng. Trường hợp NLĐ đóng
BHXH tự nguyện không liên tục thì thời gian đóng BHXH tự nguyện để hưởng chế
độ là tổng thời gian đã đóng BHXH. Khi NLĐ có thời gian đóng BHXH tự nguyện
lâu hơn thì sẽ được hưởng quyền lợi nhiều hơn so với trường hợp ngược lại. Ngoài
ra, mức hưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện còn tính trên cơ sở mức phí đóng vào quỹ
BHXH. Theo đó, NLĐ có mức thu nhập cao hơn, thì khi nghỉ hưu họ sẽ hưởng mức
trợ cấp cao hơn trường hợp ngược lại.
Sở dĩ pháp luật BHXH tự nguyện chú trọng nguyên tắc này, bởi xuất phát từ
sự công bằng xã hội giữa đóng góp và hưởng thụ BHXH tự nguyện. Đồng thời bảo
đảm khả năng chi trả của quỹ BHXH. Bởi nếu NLĐ đóng góp trong thời gian ngắn
và mức phí đóng thấp sẽ ảnh hưởng đến sự an toàn về tài chính của quỹ, đồng thời

không bảo đảm công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ vì thế sẽ dẫn đến vỡ quỹ.
Thứ ba, bảo đảm sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
Trên thực tế, tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động mà
NLĐ có thể có thời gian tham gia BHXH bắt buộc vừa có thời gian tham gia BHXH
tự nguyện. Pháp luật Việt Nam đã quy định khá chi tiết về việc chuyển đổi giữa hai
loại hình bảo hiểm này và NLĐ trong cùng một thời điểm chỉ có thể tham gia đóng
BHXH bắt buộc hoặc BHXH tự nguyện. Nguyên tắc này nhằm để đảm bảo quyền
lợi của NLĐ, khi quan hệ lao động luôn luôn có sự thay đổi không ngừng trong điều
kiện kinh tế có nhiều biến chuyển.

15


Dưới tác động của nền kinh tế thị trường mà quan hệ lao động nói riêng và
các quan hệ kinh tế khác nói chung luôn có sự thay đổi không ngừng. Đồng thời,
yêu cầu càng cao về trình độ lao động kỹ thuật có thể làm NLĐ ở khu vực phi chính
thức chuyển sang khu vực chính thức và ngược lại. Người lao động có quyền tham
gia BHXH tự nguyện khi không tham gia quan hệ lao động hoặc có tham gia quan
hệ lao động nhưng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định
của pháp luật. Nếu NLĐ vừa có thời gian tham gia BHXH bắt buộc vừa có thời gian
tham gia BHXH tự nguyện thì được hưởng chế độ hưu trí và tử tuất trên cơ sở thời
gian đóng phí vào quỹ BHXH ở cả hai loại hình.
1.1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Tùy vào điều kiện kinh tế, xã hội của mình mà các quốc gia quy định khác
nhau về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Song điểm chung đều bao gồm các nội dung cơ
bản như sau:
- Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là người đóng góp phí BHXH để bảo
hiểm cho mình để được BHXH. Đối tượng đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện chỉ
là NLĐ. Người sử dụng lao động không đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện, đây là

điểm khác biệt so với BHXH bắt buộc.
Ở một số nước trên thế giới, bên tham gia BHXH tự nguyện có thể là người
sử dụng lao động, NLĐ và có thể có sự tham gia của Nhà nước. Chẳng hạn ở Nhật
Bản, chế độ hưu trí toàn dân đã được hình thành vào năm 1961. Trong tổng số
69,89 triệu NLĐ được chia thành 3 nhóm tham gia BHXH tự nguyện: Nhóm 1 là
lao động cá thể, nông dân, người không có việc làm, sinh viên,... ; Nhóm 2 là lao
động trong khu vực tư nhân và Nhà nước tham gia chế độ hưu trí cho NLĐ; Nhóm
3, là những người ăn theo như vợ hoặc chồng sống dựa vào thu nhập của NLĐ.8 Ở
Đức, những người tham gia BHXH tự nguyện bên cạnh BHXH bắt buộc là những
người thực hiện lao động một cách độc lập và có thể đề nghị được tham gia chế độ
8

[22, tr.5-8].

16


BHXH tuổi già với điều kiện đã làm việc không ít hơn 5 năm.9 Trong trường hợp
này họ cũng hưởng chế độ như người làm công ăn lương.
Bên tham gia BHXH tự nguyện là những người không thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc, đó là những người đóng phí vào quỹ BHXH tự nguyện do Nhà
nước quản lý để hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
- Mức phí và phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
Phí đóng BHXH tự nguyện do NLĐ tham gia BHXH tự nguyện đóng, sự hỗ
trợ của Nhà nước và các nguồn khác vào quỹ BHXH. Quỹ BHXH bảo đảm nguồn
tài chính cho mọi sự hoạt động của hệ thống này. Tuy nhiên, ở mỗi nước quy định
tỷ lệ đóng góp khác nhau. Ở một số quốc gia, chẳng hạn, ở Ba Lan, quỹ BHXH tự
nguyện hình thành từ đóng góp của chủ trang trại và nông dân. Tuy nhiên, quỹ
BHXH tự nguyện cũng chủ yếu do Nhà nước tài trợ (phần đóng góp của người tham
gia BHXH tự nguyện chỉ đảm bảo được 10% chi trả các chế độ và các hoạt động). Do

vậy, việc đóng góp này chủ yếu mang tính “trách nhiệm” của người muốn tham gia
BHXH tự nguyện.10 Ở Phần Lan, mức đóng BHXH tự nguyện cho nông dân khá cao
và tỷ lệ ngày càng tăng (trên 20% thu nhập cá nhân) tuy nhiên 4/5 trong số này là do
Nhà nước hỗ trợ. Quỹ BHXH tự nguyện tại Pháp được hình thành trên cơ sở đóng
góp của người tham gia bảo hiểm và được Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết.11 Quá trình
diễn ra các hoạt động thu - chi bằng tiền từ quỹ BHXH được tiến hành trên cơ sở luật
lệ của Nhà nước
Phương thức đóng BHXH tự nguyện được quy định khác linh hoạt khác nhau
giữa các đối tượng NLĐ. Theo đó, có quốc gia quy định định kỳ 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng hoặc hàng năm. Mục đích là để tạo điều kiện cho NLĐ thuộc các lĩnh vực

9

[Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2007), Pháp luật một số nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.23].
10
[Viện khoa học lao động và xã hội (2011), “Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội của Trung Quốc - Nhận
xét và kiến nghị của Đoàn công tác tại Trung Quốc”,
truy cập ngày 12/8/2018].
11
[16, tr.16].

17


ngành nghề khác nhau hoặc lĩnh vực công việc có thu nhập khác nhau đều có thể
tham gia BHXH tự nguyện.
Việc hình thành, xây dựng và phát triển quỹ BHXH tự nguyện cần phải dựa
vào những nguyên tắc chung của BHXH. Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật không
tách riêng quỹ BHXH tự nguyện như một số quốc gia, mà gộp chung trong quỹ hưu

trí và tử tuất của BHXH bắt buộc, được tổ chức BHXH quản lý tập trung, thống
nhất, minh bạch và tuân thủ các quy định của pháp luật về tài chính, kế toán và
thống kê. Nguồn quỹ BHXH được hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước.
- Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện
Chế độ BHXH tự nguyện là những quyền lợi mà người tham gia nhận được
khi tham gia BHXH tự nguyện phụ thuộc vào mức đóng và thời gian đóng của
người tham gia. Theo quy định của ILO trong Công ước số 102 năm 1952, để đảm
bảo mức tối thiểu, thì trong quy định BHXH các nước thành viên cần lựa chọn ít
nhất là ba trong chín chế độ. Trong đó, phải có ít nhất một trong các chế độ: bảo
hiểm thất nghiệp, hưu trí, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật và tiền tuất.
Như vậy, ILO không quy định rõ BHXH tự nguyện phải áp dụng chế độ nào. Bởi
vậy, các chế độ BHXH tự nguyện được áp dụng linh hoạt tùy theo điều kiện của
từng quốc gia.
Để xây dựng hệ thống các chế độ BHXH tự nguyện phù hợp, ngoài việc kế
thừa những tri thức về BHXH của thế giới, phải căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Bởi lẽ, trong kết cấu của
một chế độ của BHXH tự nguyện, bao giờ cũng xác định rõ đối tượng tham gia và
đối tượng được hưởng, mức đóng góp, các điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian
hưởng,… Những vấn đề này phụ thuộc vào đường lối, chủ trương và điều kiện kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Pháp áp dụng các chế độ sau: Bảo hiểm hưu trí;
Bảo hiểm ốm đau, sinh đẻ, thương tật; Bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp; Bảo hiểm thất

18


×