Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thành phố phủ lý , tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.55 KB, 91 trang )

LÊ THỊ PHƯƠNG ANH
2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

LÊ THỊ PHƯƠNG ANH

2017 -

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
LÊ THỊ PHƯƠNG ANH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU
HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu, trích dẫn và ví dụ sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm
hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Trường Đại học mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2019

Người cam đoan

Lê Thị Phương Anh


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn này, bên cạnh sự cố gắng,
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên của các thầy cô
giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Với tấm lòng chân thành, kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin được gửi lời
cảm ơn đặc biệt đến Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Hoài Thu – người đã hết lòng giúp
đỡ, tận tình hướng dân, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp tôi hoàn thành việc
nghiên cứu đề tài Luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô Khoa Đào tạo sau đại học Trường Đại học mở
Hà Nội đã trang bị cho tôi những kiến thức nền tảng trong suốt hai năm đào tạo.

Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia định, bạn bè, đồng
nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn này.

Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2019
Tác giả

Lê Thị Phương Anh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................... 3
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ SỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ........................................................................................................... 16
1.1. Khái quát chung về quỹ bảo hiểm xã hội ........................................................ 16
1.1.1. Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội .................................................................... 16
1.1.2. Đặc trưng của quỹ bảo hiểm xã hội ............................................................... 17
1.2. Điều chỉnh pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ................................................. 19
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ................................................ 19
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội .............................................. 19
1.2.3. Nội dung pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội .................................................. 22
1.3. Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ở một số quốc gia trên thế giới và gợi mở
cho Việt Nam ............................................................................................................. 27
1.3.1. Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ở một số quốc gia trên thế giới ............... 27
1.3.2. Những gợi mở cho Việt Nam ........................................................................ 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 34

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM ........................... 35
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về quỹ bảo hiểm xã hội ........ 35
2.1.1. Về nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội ................................................... 35
2.1.2. Về sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội ................................................................... 40
2.1.3. Tổ chức và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ...................................................... 45
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội tại thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam .............................................................................................................. 62


2.2.1. Sơ lược về Bảo hiểm xã hội thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam và các yếu tố
ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về quỹ Bảo hiểm xã hội .......................... 62
2.2.2. Những kết quả đạt được ................................................................................ 63
2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế .................................... 65
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................................................ 70
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ PHỦ
LÝ, TỈNH HÀ NAM......................................................................................................................... 71
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam .............. 71
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
.................................................................................................................................... 72
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
từ thực tiễn Bảo hiểm xã hội thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam............................ 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................................................ 83
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 86


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHTN


Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BNN

Bệnh nghề nghiệp

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

TNLĐ

Tai nạn lao động



DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu

Tên bảng, sơ đồ

Trang

Bảng 2.1.

Tỷ lệ trích đóng các khoản bảo hiểm mới nhất áp dụng
từ ngày 01/01/2018

31


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách lớn, là bộ phận quan
trọng trong hệ thống chính sách xã hội, đã được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện
ngay từ những ngày đầu thành lập. Chính sách bảo hiểm xã hội Việt Nam đã trải qua một
chặng đường dài xây dựng và phát triển kể từ Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 ban
hành Điều lệ tạm thời các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà
nước, đã phát huy được vai trò tích cực đối với xã hội, bình ổn đời sống người lao động,
khẳng định được vai trò quan trọng của mình. Có thể nói chính sách bảo hiểm xã hội luôn
mang tính cấp thiết, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề an sinh
xã hội.
Trong đó, quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà
nước, được Nhà nước bảo hộ và bù thiếu. Quỹ này được quản lý theo cơ chế cân bằng thu

chi do đó quỹ BHXH không đơn thuần ở trạng thái tĩnh mà luôn có sự biến động theo
chiều hướng tăng lên hoặc thâm hụt. Quỹ BHXH có nhiệm vụ đảm bảo về tài chính để
chi trả các chế độ BHXH cho người lao động (NLĐ) khi họ rơi vào những hoàn cảnh rủi
ro nhất định, đảm bảo sự ổn định cho đời sống người lao động và thân nhân của họ. Do
vậy, quỹ BHXH là một bộ phận quan trọng của hệ thống BHXH.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn của quá trình già hóa
dân số nhanh chóng, tăng nguy cơ bội chi quỹ bảo hiểm xã hội. Cụ thể, tuổi thọ trung
bình của Việt Nam đã tăng từ 68,6 tuổi năm 1999 lên tới 73,2 tuổi năm 2014, và dự báo
sẽ lên 78 tuổi vào năm 2030. Tính đến hết năm 2017, cả nước có 11 triệu người cao tuổi,
chiếm khoảng 11,95% dân số, trong đó có khoảng gần 2 triệu người từ 80 tuổi trở lên.
Cũng theo Liên Hợp Quốc, từ năm 2014, Việt Nam đã chính thức bước vào quá trình già
hóa dân số, dự báo nước ta sẽ mất không tới 20 năm để tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng
từ 7% lên 14% tổng dân số, thậm chí đến năm 2038 nhóm cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm
đến 20% tổng dân số. Điều này sẽ đặt ra những thách thức lớn cho việc đảm bảo hạ tầng


an sinh xã hội để đáp ứng đủ nhu cầu của một xã hội già hóa dân số nhanh chóng, trong
khi còn nhiều người đang sống ở mức nghèo, cận nghèo...
Pháp luật đã có những quy định về quỹ bảo hiểm xã hội nhằm bảo toàn và phát
triển quỹ cũng như chi trả quỹ đúng mục đích. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua việc
thực hiện quỹ BHXH trên địa bàn tỉnh Hà Nam còn bộc lộ những hạn chế như tăng
trưởng nguồn thu thấp, tình hình nợ đọng BHXH còn cao, nguy cơ bội chi quỹ bảo hiểm
xã hội …. Những tồn tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân từ
phía các quy định của pháp luật, từ sự vi phạm của người tham gia BHXH và xuất phát từ
cả phía đơn vị thực hiện BHXH , gây ra những ảnh hưởng tiêu cực về quyền lợi đối với
NLĐ. Để khắc phục những hạn chế, mở rộng và tăng trưởng nguồn thu BHXH, phát triển
bền vững quỹ BHXH trên địa bàn tỉnh Hà Nam rất cần có những giải pháp cụ thể. Với lý
do đó, tôi chọn đề tài “Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm gần đây, vấn đề quỹ BHXH đã và đang được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu về BHXH với những cách tiếp cận
khác nhau như:
- Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề về bảo toàn, phát triển quỹ bảo hiểm xã
hội / Nguyễn Hữu Chí / Nhà nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2006.
- Nguyễn Thị Kim Phụng (2006), Hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,
Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hiền Phương (2009), Pháp luật về an sinh xã hội – Lý luận và thực
tiễn, Nxb Tư Pháp
- Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật về an sinh xã hội – kinh
nghiệm một số nước đối với Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
- Tống Thị Phương Dung (2016), Quỹ bảo hiểm xã hội theo Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2014, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội.


- Phạm Thị Định (2013), “An sinh xã hội và xu hướng phát triển trên thế giới”, Tạp
chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 01, Tháng 10/2013, tr.20
- Trần Thị Hằng (2017), Pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội
- Sách “Quyền an sinh xã hội và bảo đảm thực hiện trong pháp luật Việt Nam”
(2014) của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu.
- Phạm Thành Công (2014), Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực
hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà
Nội
- Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố
Hà Nội: luận văn thạc sĩ luật học/ Cao Gia Huy; PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm hướng dẫn.
- Hà Nội, 2016.
- Pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam/ Trần Thị
Hằng/ Luận văn thạc sĩ Luật học; PGS.TS Lê Thị Hoài Thu hướng dẫn – Hà Nội, 2017.

- Bài viết “An toàn quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam” của tác giả Ths. Nguyễn Thị
Lê Thu.
- Pháp luật về nguồn hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam/
Khuất Huyền Trang/ Luận văn thạc sĩ Luật học; TS. Phạm Thị Thúy Nga hướng dẫn – Hà
Nội, 2018.
Và nhiều công trình nghiên cứu khác của các tác giả. Các công trình đều đã đề cập
đến nhiều khía cạnh nhau của quỹ BHXH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quỹ bảo hiểm xã hội
tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong điều kiện hiện nay, luận văn đề xuất phương
hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ
BHXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về quỹ bảo hiểm xã
hội.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật quỹ bảo hiểm trên
địa bàn thành phố Phủ Lý hiện nay.
- Phương hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ thực tiễn
thực hiện tại thành phố Phủ Lý.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức, hoạt động và cơ chế thu chi của quỹ dưới

góc độ khoa học pháp lý. Theo đó, tác giả đi sâu tiếp cận các vấn đề pháp lý gồm:
(i) Những vấn đề lý luận về quỹ BHXH
(ii) Pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội
(iii) Thực tiễn thi hành quy định pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn thành phố
Phủ Lý
(iiii) Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quỹ BHXH.
Luận văn không nghiên cứu về quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, tác giả sử dụng các
phương pháp thống kê, phân tích, khái quát hóa và tổng hợp tài liệu, ý kiến các chuyên
gia trong lĩnh vực BHXH... Bên cạnh đó, tác giả cũng tiếp thu, kế thừa chọn lọc kết quả


nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu liên quan. Từ đó làm cơ sở cho các đề xuất,
kiến nghị, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn thành phố
Phủ Lý.
6. Đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn sau đây:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quỹ bảo
hiểm xã hội.
- Phân tích quy định pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ BHXH
tại BHXH thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế.
- Đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ BHXH tại
BHXH thành phố Phủ Lý, góp phần phát triển bền vững quỹ BHXH của thành phố cũng
như góp phần đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội bền
vững trên địa bàn.
- Thực trạng quỹ BHXH hiện đang là vấn đề mang tính thời sự cao. Việc tìm hiểu
nghiên cứu về pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa

bàn thành phố Phủ Lý để hoàn thiện hơn quy định pháp luật, khắc phục những hạn chế
tồn tại và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội tại thành phố Phủ
Lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện tại
thành phố Phủ Lý.


Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý.



Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BẢO HIỂM
XÃ HỘI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát chung về quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội
Được nhìn nhận là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia,
bảo hiểm xã hội được xây dựng trên cơ sở các khái niệm cấu thành cụ thể, trong đó có
các nội dung về quỹ bảo hiểm xã hội. Do đó, trong luận văn này, các vấn đề về quỹ bảo
hiểm xã hội được xem xét tiếp cận trong phạm vi nghiên cứu về bảo hiểm xã hội nói
chung.
Khi nói đến quỹ bảo hiểm xã hội, người ta sẽ liên hệ tới các vấn đề khác của bảo
hiểm xã hội để có thể xác định rõ vai trò của nội dung này. Dưới góc độ là hình thức một
quỹ mang yếu tố tiền tệ, việc phân tích quỹ bảo hiểm xã hội cũng phải được nhìn nhận
dựa trên các nguyên tắc hình thành, duy trì và hoạt động của một loại quỹ nói riêng. Như

vậy, việc đưa ra một khái niệm thống nhất về quỹ bảo hiểm xã hội là rất khó khăn.
Nghiên cứu lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội dưới góc độ pháp lý có thể nhận thấy đã có
nhiều tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau, tuy nhiên phần lớn cách thức tiếp cận
khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội dưới góc độ trực tiếp chỉ đưa ra nhiệm vụ hay chức năng
của nội dung này.
Về khái niệm, hiện nay chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể về quỹ bảo hiểm
xã hội. Tuy nhiên, Tập thể các tác giả của Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra các
nhận xét và nhìn nhận nội dung khái niệm Quỹ bảo hiểm xã hội hiểu theo các nghĩa: (i)
Theo nghĩa rộng, quỹ bảo hiểm xã hội là tập hợp những phương tiện nhằm thỏa mãn
những nhu cầu phát sinh về bảo hiểm xã hội trên cơ sở sự đóng góp của những người
tham gia bảo hiểm xã hội. Cụ thể là các khoản dự trữ về tài chính và các phương tiện, cơ
sở vật chất phục vụ cho quỹ bảo hiểm xã hội. (ii) Theo nghĩa hẹp, quỹ bảo hiểm xã hội là
tập hợp những đóng góp bằng tiền của người tham gia bảo hiểm xã hội hình thành một


quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho người được bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi bị
giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.[36,
tr.120]. Quỹ bảo hiểm xã hội ra đời và hình thành không nhằm mục đích sinh lợi nhuận
mà mang tính chất tương trợ cộng đồng, tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa các nhóm lao
động hướng tới đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp
khó khăn, giúp cho người sử dụng lao động tránh được thiệt hại lớn về kinh tế khi có rủi
ro xảy ra đối với người lao động mà họ thuê mướn. Trong một góc nhìn khác, có ý kiến
cho rằng: “Dưới góc độ pháp lý, pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội là tổng hợp những
quy định của nhà nước về đóng góp, sử dụng và chỉ trả quỹ bảo hiểm xã hội cho người
lao động và gia đình họ khi người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động”. Định
nghĩa này thực chất chỉ đưa ra quan niệm về các nội dung được điều chỉnh với pháp luật,
theo đó lại thiếu đi yếu tố quan trọng của một khái niệm trong tổng thể nói chung như
nguyên tắc hình thành khái niệm, tính chất quỹ, mục đích việc quy định điều chỉnh nội
dung này.
Do đó, từ những nhận định trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về quỹ bảo

hiểm xã hội như sau: Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà
nước, có tính chất phi lợi nhuận, được hình thành từ đóng góp của người lao động trên
cơ sở tự nguyện hoặc bắt buộc của người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ của Nhà
nước, được sử dụng để chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH theo quy định của pháp
luật.
1.1.2. Đặc trưng của quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH có một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập ngoài ngân sách nhà nước, nhưng sự
an toàn về tài chính của quỹ được Nhà nước đảm bảo. Quỹ BHXH có nguồn thu và
nhiệm vụ chi riêng, không do ngân sách nhà nước đảm bảo. Tuy nhiên, sự an toàn về tài
chính của quỹ được Nhà nước đảm bảo. Điều này xuất phát từ tính chất quan trọng của
quỹ đối với cuộc sống của người lao động. Sự an toàn của quỹ ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi, cuộc sống của người lao động khi gặp phải những hoàn cảnh khó khăn dẫn
đến suy giảm hoặc mất khả năng lao động. Mỗi người lao động luôn cần đến sự chi trả


của quỹ BHXH trong suốt cuộc đời. Trường hợp không rơi vào những hoàn cảnh ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì người lao động hướng đến quyền lợi được
chi trả lương hưu lúc về già.
Do đó, yêu cầu đặt ra đối với quỹ BHXH là phải được bảo toàn về giá trị và hạn
chế tối đa các rủi ro về tài chính, trong đó đặc biệt là giữ được giá trị (sức mua) của các
khoản trợ cấp. Một chế độ bảo hiểm với mức trợ cấp không thích ứng kịp thời với sự
thay đổi về giá trị đồng tiền thì không đạt được mục đích đặt ra, nhất là trong điều kiện
nền kinh tế phải đối mặt với nguy cơ lạm phát gia tăng. Do đặc thù về đối tượng đảm
bảo, bản chất, ý nghĩa của hoạt động bảo hiểm xã hội mà Nhà nước phải có trách nhiệm
đảm bảo an toàn về tài chính cho quỹ.
Hai là, về bản chất quỹ BHXH vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội. Về
mặt kinh tế, quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được tạo lập để phân phối lại thu
nhập cho người lao động, bảo đảm bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi có
sự kiện bảo hiểm xuất hiện, về mặt xã hội, do có sự "san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao

động chỉ phải đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng
xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra. Như vậy, quỹ
BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”, điều này thể hiện sự
tương thân, tương ái lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
Ba là, quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH vừa mang tính chất bồi hoàn vừa
mang tính chất không bồi hoàn: Tính chất bồi hoàn của quỹ thể hiện ở chỗ người lao
động là đối tượng tham gia và đóng góp để hình thành quỹ BHXH, đồng thời, họ cũng là
đối tượng được BHXH chi trả các chế độ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Tính không bồi
hoàn thể hiện ở chỗ, cùng tham gia đóng góp BHXH nhưng có người được hưởng, có
người không được hưởng (người sử dụng lao động phải đóng góp vào quỹ BHXH nhung
không được hưởng bất cứ khoản hỗ trợ nào); có người hưởng ít, có người hưởng nhiều
(tùy thuộc vào sự kiện bảo hiểm xảy ra).
Bốn là, quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, tồn tại trong thời gian dài, luôn vận
động và có sổ dư tạm thời nhàn rỗi lớn: Quỹ BHXH được tạo lập chủ yếu từ sự đóng
góp, tham gia của người lao động và người sử dụng lao động và có tính chất phân phối


lại lao động giữa những người tham gia BHXH. Khoảng thời gian kể từ khi đóng BHXH
đến khi hưởng các chế độ BHXH thường tương đối dài. Mặt khác, vì số người tham gia
BHXH đông nên quỹ BHXH có nguồn lực tài chính mạnh, cùng với tính chất “đóng tiền
trước hưởng sau” nên quỹ luôn có nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng nhất
của bảo hiểm xã hội nói riêng và hệ thống an sinh xã hội nói chung. Cũng như các nhánh
khác của hệ thống an sinh xã hội, nguồn tài chính của quỹ BHXH chủ yếu thông qua sự
đóng góp, xuất phát căn bản từ cơ chế tái phân phối thu nhập và tiêu dùng của quỹ
BHXH, nghĩa là cơ chế tái phân phối tài chính và chi tiêu giữa cá nhân, gia đình hoặc
giữa các cá nhân, các gia đình ở những thời điểm khác nhau, nhằm hoàn thành các
nhiệm vụ xã hội. Để có căn cứ xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật riêng về quỹ

bảo hiểm xã hội, mặc dù còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi
quốc gia có quy định riêng về các vấn đề khác nhau, nhưng nhìn chung, pháp luật về quỹ
bảo hiểm xã hội cũng như tổ chức thực hiện quỹ và quản lý quỹ cũng đều phải quy định
một số nội dung nhất định nhằm đảm bảo các đặc điểm và bản chất của loại quỹ này. Cụ
thể, để đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội, cần có các quy
định về nguyên tắc pháp luật của quỹ BHXH; nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội; sử
dụng quỹ bảo hiểm xã hội; đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội; tổ chức và quản lý quỹ bảo hiểm
xã hội.
Nói cách khác, pháp luật về quỹ BHXH là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động của quỹ BHXH, các vấn đề đó bao gồm các
quy định về: nguyên tắc pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội; nguồn hình thành quỹ bảo
hiểm xã hội; sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội; đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội; tổ chức và quản
lý quỹ bảo hiểm xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
Thứ nhất: Quỹ bảo hiểm xã hội phải được quản lý thống nhất, dân chủ, công
khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ


thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất
nghiệp. Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội,
chứa đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp lý. Để đảm bảo thực
hiện hài hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà bảo hiểm xã hội đặt ra thì
một trong những vấn đề cần được chú ý là việc quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội.
Xuất phát từ ý nghĩa xã hội của bảo hiểm xã hội cho nên việc quản lý, sử dụng quỹ bảo
hiểm xã hội phải bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch và trên cơ sở của cơ chế
ba bên. Chính vì vậy, ở nước ta việc tổ chức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội,
tổ chức thu, chi, quản lý quỹ được giao cho cơ quan Bảo hiểm xã hội thực hiện một cách
thống nhất trong phạm vi cả nước trên cơ sở pháp luật, dưới sự chỉ đạo, giám sát chặt
chẽ của Nhà nước mà cụ thể là Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội. Trong đó, Hội đồng
quản lý bảo hiểm xã hội là cơ quan bao gồm đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã

hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam …. Ngoài ra, theo quy định
của pháp luật thì hằng năm Chính phủ có trách nhiệm thực hiện công tác báo cáo Quốc
hội về quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội qua đó thể hiện tính chất dân chủ, công
khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.
Thứ hai: Quỹ BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu, chi của
quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm quyền lợi
cho người tham gia BHXH. Tổ chức quản lý điều hành quỹ BHXH phải được tổ chức
độc lập thống nhất trong phạm vi cả nước trên cơ sở pháp luật của Nhà nước đã ban
hành và chịu sự kiểm tra, giám sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH
đối với các bên tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì mới
có điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ, tăng cường công tác
quản lý quỹ, quản lý sử dụng vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị trường có lợi nhất, giảm chi
phí quản lý hành chính, nghiệp vụ hoạt động BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao
động, Nhà nước cần phải luật pháp hoá việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo
điều kiện tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và
phát triển vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường. Việc quản lý điều


hành tăng trưởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn được vốn, không làm vốn bị tổn
thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi. Việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải đảm
bảo các yêu cầu sau: Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản
cao; phải có lãi; phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế độ
BHXH phát sinh. Vì thế, các hình thức đầu tư phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải chặt
chẽ theo những nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi,
quỹ BHXH không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi
cho người lao động trên thực tế.
Thứ ba: Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ đóng
góp của họ. Trong nền kinh tế thị trường, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế
đều bình đẳng hưởng chế độ BHXH. Song người lao động muốn được hưởng quyền lợi

về BHXH thì họ phải có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo các phương thức thích hợp (bắt
buộc hay tự nguyện, ít chế độ hay nhiều chế độ BHXH...) thường xuyên đều đặn trong
những tháng, năm còn tuổi lao động. Quyền lợi được hưởng phải phù hợp với mức đóng
góp và thời gian đóng góp BHXH của từng người lao động theo quy định của pháp luật.
Thứ tư: Hoạt động quỹ BHXH không mang tính chất kinh doanh mà mang tính
chất của quỹ tương hỗ bảo hiểm. Mục đích hoạt động của quỹ BHXH trước hết nhằm
bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi gặp rủi ro BHXH, sau nữa bảo đảm an toàn cho
xã hội và nền kinh tế. Hoạt động BHXH chủ yếu dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số
ít” mang tính chất cộng đồng, tính chất xã hội giữa những người lao động. Các khoản
đóng góp vào quỹ BHXH phụ thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ BHXH,
nếu quỹ không đủ bù đắp thì phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp mức chi trợ cấp
BHXH để bảo đảm quỹ luôn luôn cân đối giữa thu và chi. Nguyên tắc cơ bản quản lý
quỹ BHXH là phải cân đối thu với chi, chính vì vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ BHXH
phải tổ chức công tác kế toán, kiểm tra sử dụng một cách chặt chẽ, đúng pháp luật, sử
dụng tiền nhàn rỗi đầu tư sinh lợi có hiệu quả, quỹ được bảo toàn và phát triển để có
điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người lao động hoặc giảm được sự tài trợ của Nhà
nước.
Thứ năm: Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ BHXH phải trên


cơ sở thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất
nước. Phải tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, hoàn thiện cách chính sách, cơ chế quản
quỹ dựa phù hợp với thực trạng kinh tế và các chính sách khác có liên quan như chính
sách lao động và việc làm, chính sách thu nhập, tiền lương, tiền công, chăm sóc y tế, kế
hoạch hoá gia đình và các chính sách kinh tế - xã hội khác. Bởi vì, bất kỳ một chính sách
cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước đều phải phù hợp với điều kiện và trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với mức độ phát triển của từng loại lao
động. Do đó, việc thay đổi, hoàn thiện cơ chế hình thành và sử dụng quỹ BHXH phải
tuận thủ thực hiện nguyên tắc này, có như vậy quỹ BHXH mới tồn tại và phát triển vững
chắc, phù hợp với sự phát triển của các thành phần kinh tế của đất nước. Nếu việc thay

đổi, hoàn thiện cơ chế hình thành và sử dụng điều chỉnh một cách tùy tiện không dựa
trên thực trạng phát triển kinh tế - xã hội sẽ dân đến những hậu quả tiêu cực, đi ngược lại
với mục đích của bảo hiểm xã hội.
1.2.3. Nội dung pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
Tùy vào đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội riêng của mỗi nước mà pháp luật có
các quy định khác nhau. Nhưng nhìn chung, pháp luật các nước đều quy định nội dung
hoạt động của quỹ BHXH gồm: nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội; sử dụng quỹ bảo
hiểm xã hội; tổ chức và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.
1.2.3.1. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Là một yếu tố thành phần trong nội dung an sinh xã hội của một quốc gia, vì vậy
quỹ bảo hiểm xã hội cũng mang đầy đủ đặc điểm của của hệ thống an sinh xã hội. Theo
đó, theo như Ball và Robert M cho rằng: Nguồn tài chính của hệ thống an sinh xã hội,
với nhánh quan trọng nhất là bảo hiểm xã hội, chủ yếu được hình thành thông qua sự
đóng góp. Nếu nhìn bề ngoài, chế độ bảo hiểm xã hội được tổ chức bởi chính phủ như là
một dạng bảo hiểm phi lợi nhuận. Những người có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH
và quỹ đó được sử dụng để chi trả chế độ cho người thụ hưởng trong trường hợp rủi ro.
Do đó, quỹ BHXH được xây dựng vừa là quỹ chi trả, vừa là quỹ tiết kiệm. Phương thức
đóng góp này đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế và xã hội và
góp phần phát triển toàn hệ thống bảo hiểm xã hội.[37,tr.2]. Có thể thấy, nhiều nhà


nghiên cứu cho rằng, thực tế thì chế độ bảo hiểm xã hội không thể áp dụng một nguyên
tắc tài chỉnh cho toàn bộ hệ thống bảo hiểm xã hội (ví dụ như bảo hiểm xã hội tự nguyên
đối với lao động tự do áp dụng cơ chế tài chính hai bên là người lao động và sự hỗ trợ
một phần của Nhà nước khác với cơ chế tài chính ba bên của một số nội dung bảo hiểm
xã hội khác) [38,tr.3]. Tuy nhiên, mặc dù khó có thể thiết lập được một học thuyết tài
chính chung cho hệ thống an sinh xã hội, nhưng cũng có một số nguyên tắc được xác lập
dựa trên thực tiễn triển khai chế độ và dần dần cũng đã trở thành một mô hình chung
được nhiều nước áp dụng [38,tr.9]. Hiện nay, phổ biến trên thế giới đang chịu ảnh hưởng
và áp dụng phương thức đóng góp theo cơ chế tài chính ba bên (hay còn biết đến là cơ

chế hưởng theo mức đóng PAYG). Theo đó, các quốc gia áp dụng mô hình theo cơ chế
này xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội dựa trên cơ chế đóng góp tạo nguồn giống nhau,
mặc dù có thể khác về hình thức và tỷ lệ đóng góp theo từng khu vực và ngành nghề
[19,tr.61]. Như vậy, người sử dụng lao động đóng góp một phần quỹ bảo hiểm xã hội
cho người lao động nhằm tránh những thiệt hại lớn khi có những sự cố xảy ra như đình
trệ sản xuất, đào tạo lại lao động hay khi có rủi ro xảy ra với người lao động; bên cạnh
đó còn giảm bớt đi sự căng thẳng trong mối quan hệ vốn chứa đựng đầy những mâu
thuẫn, tranh chấp giữa người sử dụng lao động và người lao động. Người lao động đóng
góp một phần vào quỹ bảo hiểm xã hội nhằm một phân gánh chịu trực tiêp rủi ro của
chính mình, bên cạnh đó còn có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi của họ một
cách chặt chẽ. Nhà nước tham gia hỗ trợ một phần vào quỹ bảo hiểm xã hội trên cương
vị của người quản lý xã hội về mọi mặt với mục đích phát triển kinh tế ổn định xã hội.
Do mối quan hệ giữa chủ - thợ có chứa nhiều mâu thuẫn mà hai bên không thể tự giải
quyết được. Nhà nước buộc phải tham gia nhằm hài hòa mọi mâu thuẫn của hai bên
thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật. Một số quốc gia trên thế giới, Nhà nước
chỉ hỗ trợ quỹ BHXH, ví dụ như Cộng hòa Liên bang Đức, trường hợp không đủ chi thì
Ngân sách nhà nước sẽ cấp bù; ở Nhật Bản, Chính phủ hỗ trợ để chi trả các khoản trợ
cấp hưu trí, thất nghiệp và chi phí quản lý. Ở Thái Lan, Nhà nước là một chủ thể tham
gia đóng góp vào quỹ BHXH (Nhà nước đóng góp 3% tính trên tổng quỹ tiền lương là
10%) [22,tr.18]. Bên cạnh đó, quỹ BHXH còn được hình thành từ tiền sinh lời của hoạt
động đầu tư quỹ. về lý thuyết, quỹ BHXH là một quỹ tài chính, do đó, quỹ BHXH có thể


sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư cho tất cả các lĩnh vực, tất cả các thị thường có
thể mang lại lợi nhuận. Quỹ BHXH có thể đầu tư vào các lĩnh vực như: mua trái phiếu
Chính phủ; cho Ngân sách Nhà nước vay; cho vay và gửi tiền tại các ngân hàng để
hưởng lãi; đầu tư vào thị trường chứng khoán;... Để phát huy hiệu quả, giảm rủi ro trong
đầu tư, cách tối ưu nhất là đầu tư vào nhiều loại tài sản với các mức độ khác nhau.
1.2.3.2. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Theo nghĩa hẹp, sử dụng quỹ BHXH là việc nghiên cứu các nội dung pháp lý

chung đảm bảo các nguyên tắc trong việc chi quỹ BHXH so với các mục tiêu đặt ra đối
với sự hình thành và hoạt động của quỹ, trong đó quan tâm nhiều đến sự khác biệt trong
việc chi trả chế độ và đối tượng khác nhau. Theo nghĩa rộng, việc sử dụng quỹ bảo hiểm
xã hội ngoài tìm hiểu các nội dung đảm bảo các yêu cầu mục đích của quỹ (chi trả các
khoản trợ cấp cho các chế độ BHXH, khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất) mà còn
tính đến các yêu cầu để đảm bảo hoạt động của bộ máy quản lý quỹ BHXH (như tiền
lưong cho những người làm công tác BHXH, đầu tư cơ sở vật chất cần thiết, chi cho các
hoạt động như tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội...). Trong
phạm vi luận văn này, nội dung chủ yếu được phân tích dưới góc độ tìm hiểu các nội
dung và nguyên lý của hoạt động sử dụng quỹ BHXH trong việc trợ cấp về cơ bản, việc
sử dụng quỹ BHXH mặc dù chịu ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo chung phương thức hợp lý và công bằng đối với
người thụ hưởng và để tránh cho người thụ hưởng có thu thập thấp gặp khó khăn. Theo
Tại Điều 26 Khuyến nghị số 67 của ILO nhấn mạnh tính quan trọng của bảo hiểm xã hội
và tạo lập nguyên tắc sử dụng của Quỹ BHXH như sau: Chi phí cho các khoản trợ cấp,
bao gồm cả chi phí cho việc quản lý, được phân chia cho các đối tượng thụ hưởng, người
sử dụng lao động và người đóng thuế theo phương thức hợp lý và công bằng đối vói
người thụ hưởng và để tránh cho người thụ hưởng có thu nhập thấp có thể gặp khó khăn.
Thông thường, hiện nay quỹ BHXH được sử dụng trên cơ sở bản chất quá trình phân
phối lại thu nhập. Quỹ được hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia vào
BHXH, theo đó quỹ sẽ được dùng để phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh
nhu cầu bảo hiểm xã hội như ốm đau, sinh con, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết


tuối lao động, chết... Việc sử dụng quỹ để đảm bảo đúng mục đích của quỹ phụ thuộc
vào cách thức phân loại và sắp xếp các nội dung của hệ thống an sinh xã hội nói chung
và bảo hiểm xã hội nói riêng của từng nước. Theo đó, quỹ BHXH có thể được sử dụng
căn cứ vào hình thức của bảo hiểm xã hội được phân loại như được sử dụng dựa trên cơ
sở đối tượng, mức đóng từ đó có thể tính toán mức hưởng (thông thường có hai hình
thức của bảo hiểm xã hội tương ứng vói cách này đó là bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự

nguyện), tuy nhiên khái niệm bắt buộc hay tự nguyện chỉ nói đến hình thức hình thành
quỹ, còn sử dụng quỹ thì không có hai khái niệm trên. Quỹ BHXH còn được sử dụng
dựa vào cách phân loại các trường hợp rủi ro được bảo hiểm xã hội, từ đó làm căn cứ để
tính toán việc sử dụng quỹ như bảo hiểm xã hội trong trường hợp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội trong trường hợp tuổi già, trường hợp bị mất việc làm...
Ngoài ra, dựa vào tính chất ngắn hạn hay dài hạn trong trường hợp chi trả trợ cấp mà
người ta xác định là cơ sở đế xây dựng nội dung sử dụng quỹ BHXH.
1.2.3.3. Tổ chức và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
Có thể nói, việc quy định bộ máy quản lý quỹ bảo hiểm xã hội dựa trên mô hình
từng quốc gia áp dụng trong việc xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội của nước đó bao
gồm các yếu tố như nguyên tắc căn bản rút ra từ hệ thống an sinh xã hội, phạm vi áp
dụng bảo hiểm xã hội, các chế độ trợ cấp, bản chất của quỹ, các thành phần đóng góp,
bản chất quỹ từ việc xác định sự khác biệt của nguồn tài chính chi trả chế độ... Tuy
nhiên, một trong yếu tố quan trọng nhất để xây dựng hệ thống quản lý quỹ BHXH đó là
cơ chế tài chính của quỹ, trong đó có thể xác định được các đặc điểm riêng của cơ chế và
bộ máy quản lý nhờ đánh giá sự tác động của Nhà nước. Quản lý BHXH cho thấy
phương thức quản lý BHXH và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý BHXH (bao
gồm quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH). Do điều kiện
kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH của các nước
được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ chức BHXH chung cho tất cả
các nước. Có một số nước giao cho một bộ nào đó đảm nhận cả chức năng quản lý Nhà
nước về BHXH và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ BHXH. Đa số các nước hoạt động sự
nghiệp BHXH (quản lý quỹ, quản lý đối tượng, thực hiện thu - chi BHXH) được giao


×