Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.31 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THÀNH CÔNG

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HIỀN PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp lý
thuyết, xem xét các báo cáo tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn
khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Hiền Phương. Bản Luận văn thạc sĩ này
chưa từng được công bố.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Học viên


Phạm Thành Công


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn
Hiền Phương đã hướng dẫn tận tình chu đáo, động viên em trong suốt quá trình
viết luận văn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn các thầy cô khoa Pháp luật kinh tế nói chung
và tổ bộ môn Luật Lao động nói riêng đã trang bị cho em những kiến thức nền
tảng cũng như ý tưởng thực hiện đề tài luận văn của mình.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn bố mẹ và bạn bè đã luôn ở bên ủng
hộ, chia sẻ cũng như giúp đõe em suốt thời gian vừa qua.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Học viên

Phạm Thành Công


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI. 5
1.1. Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội ........................................................................ 5
1.2. Đặc điểm của quỹ bảo hiểm xã hội ..................................................................10
1.3. Vai trò của quỹ bảo hiểm xã hội ......................................................................12
1.4. Nội dung pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội .....................................................15
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................ 19
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam ..............19
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố

Hà Nội ...................................................................................................................34
2.3. Một số nhận xét về tình hình thực hiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội trên
địa bàn thành phố Hà Nội .......................................................................................45
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO
HIỂM XÃ HỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................................................................... 51
3.1. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam..51
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam .......53
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ bảo
hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................65
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 71


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BLLĐ

Bộ luật Lao động

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BLHS


Bộ luật Hình sự

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

NLĐ

Người lao động

NSNN

Ngân sách Nhà nước

UBND

Ủy ban nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân

TNLĐ, BNN

Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp


TCCSPCTP

Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ

STT

TÊN BẢNG, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ

TRANG

Sơ đồ 2.1

Sơ đồ bộ máy tổ chức Bảo hiểm xã hội TP. Hà Nội

37

Bảng 2.1

Bảng kết quả thực hiện pháp luật thu quỹ BHXH ở BHXH

39

TP. Hà Nội
Bảng 2.2

Bảng kết quả thực hiện pháp luật chi quỹ BHXH ở BHXH
TP. Hà Nội


43


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách được thực hiện từ rất lâu đời trên thế
giới và đã đem lại lợi ích không nhỏ cho người lao động. Ở nước ta, có thể nói bảo
hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với
người lao động được ban hành ngày từ những ngày đầu thành lập nước và không
ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước
nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Từ đó
thể hiện được tính chất tương trợ cộng đồng giúp giảm bớt khó khăn cho người lao
động, điều này đặc biệt ý nghĩa trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường như hiện nay. Thông qua việc thực hiện tốt chính sách bảo hiểm
xã hội sẽ là động lực to lớn nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Quỹ bảo hiểm xã hội đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống bảo hiểm
xã hội, là nguồn lực vật chất không thể thiếu đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện
tốt chính sách bảo hiểm xã hội hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia
quan hệ xã hội. Cho đến nay, có thể khẳng định nhờ việc tạo lập và sử dụng quỹ
bảo hiểm xã hội mà rất nhiều người lao động vượt qua được hoàn cảnh khó khăn
khi phải đối mặt với những sự kiện như thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, hết tuổi
lao động.
Mặc dù thể hiện ý nghĩa là vậy, tuy nhiên thực tế hiện nay đang đặt ra một
vấn đề hết sức cấp thiết, đó là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa thu và chi bảo
hiểm xã hội, điều này dẫn đến nguy cơ “vỡ quỹ” BHXH trong tương lai. Theo dự
báo của các chuyên gia, thì quỹ bảo hiểm hưu trí có thể bị mất cân đối vào năm

2029. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm bởi không phù hợp với bản chất và mục tiêu
của bảo hiểm dài hạn, nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động khi về già
và như vậy, mục tiêu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là khó khả thi,
dẫn đến hệ lụy vỡ quỹ. Có thể nói vấn đề quỹ bảo hiểm xã hội là vô cùng quan
trọng bởi nó quyết định sự ổn định, bền vững của cả hệ thống báo hiểm xã hội. Vấn
đề về quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay ở nước ta đang thu hút sự quan tâm của rất
nhiều người dân đặc biệt là tầng lớp người lao động, bởi quỹ bảo hiểm xã hội là
tiền đóng góp của người lao động để đảm bảo an sinh khi lâm vào những hoàn cảnh


2

khó khăn như sinh đẻ, tai nạn lao động hay về hưu. Vậy nên sự an toàn của quỹ sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của họ.
Trong bối cảnh đó, với việc lựa chọn đề tài: “Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã
hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội”, tác giả luận văn muốn
góp phần hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội cũng
như giải pháp nhằm khắc phục tình trạng nguy cấp hiện nay của quỹ bảo hiểm xã
hội Việt Nam nói chung và quỹ bảo hiểm xã hội Hà Nội nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực trạng quỹ bảo hiểm xã hội hiện đang là vấn đề mang tính thời sự cao,
không chỉ nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các nhà hoạch định chính
sách mà còn được phần lớn tầng lớp lao động trong xã hội quan tâm. Chính phủ
Việt Nam cũng đã có những động thái như đề nghị Tổ chức lao động quốc tế (ILO)
tiến hành báo cáo đánh giá và dự báo tài chính quỹ hưu trí. Thông qua báo cáo và
những số liệu thống kê, vấn đề cải cách các chế độ bảo hiểm xã hội ảnh hưởng đến
quỹ bảo hiểm xã hội là vấn đề hết sức cần thiết.
Đến nay, theo nghiên cứu của tác giả thì mới chỉ có các công trình nghiên
cứu về quỹ bảo hiểm xã hội dưới góc độ kinh tế như: Sách “Giải pháp tài chính
nhằm đảm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt nam” (2008) của

tác giả Nguyễn Thị Hồng Thảo, Trường Đại học Kinh tế, 95 trang; Khóa luận tốt
nghiệp “Các quy định về quỹ bảo hiểm xã hội theo pháp luật hiện hành” của
Nguyễn Thị Ngọc Yến (2006); bài viết “Đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội của một số
nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Trọng Thân
trên tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán số 3(104); bài viết “đầu tư quỹ bảo hiểm
xã hội: hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng và an toàn quỹ” của tác giả Lê Phan
Nam trên tạp chí Thông tin tài chính số 1+2… Tuy nhiên, việc nghiên cứu về quỹ
bảo hiểm xã hội dưới góc độ pháp lý đến nay vẫn chỉ dừng lại ở những báo cáo, dự
báo liên quan đến quỹ bảo hiểm xã hội hay các bài nghiên cứu, khóa luận tốt
nghiệp mà chưa có một công trình nghiên cứu, đề tài khoa học nào phân tích đầy
đủ, sâu sắc và cụ thể những vấn đề về quỹ bảo hiểm xã hội. Vì vậy, tác giả mong
muốn đóng góp công sức và kiến thức để hoàn thành đề tài nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện các vấn đề liên quan đến pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội ở nước


3

ta hiện nay và việc tổ chức, thực hiện quỹ bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Quỹ bảo hiểm xã hội là đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau.
Luận văn không tập trung nghiên cứu tổ chức, hoạt động và cơ chế thu chi của quỹ
này dưới góc độ kinh tế mà chỉ nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý. Theo đó,
Luận văn chỉ đi sâu tiếp cận các vấn đề pháp lý liên quan bao gồm: (i) Những vấn
đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội và pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội; (ii) Những
quy định cụ thể của pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực thi quy định
pháp luật tại Thành phố Hà Nội.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn
về quỹ bảo hiểm xã hội, pháp luật điều chỉnh về quỹ bảo hiểm xã hội và các quy

định về các chế độ bảo hiểm xã hội ảnh hưởng đến thu, chi quỹ bảo hiểm xã hội,
đồng thời tìm hiểu rõ hơn tình hình tổ chức và hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội ở
một địa phương nhất định mà cụ thể là thành phố Hà Nội. Qua đó tìm ra giải pháp
hoàn thiện pháp luật Việt Nam điều chỉnh về quỹ bảo hiểm xã hội và các chế độ
bảo hiểm xã hội từ đó hướng tới giải quyết vấn đề mất cân đối thu chi của quỹ bảo
hiểm xã hội Việt Nam nói chung và quỹ bảo hiểm xã hội Hà Nội nói riêng.
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu được những vấn đề cơ bản về quỹ bảo hiểm xã hội và pháp luật
điều chỉnh về quỹ bảo hiểm xã hội, chế độ thu chi của quỹ bảo hiểm xã hội;
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật điều chỉnh liên quan
đến quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tại cơ
quan bảo hiểm xã hội Thành phố Hà Nội. Trong đó, tập trung làm rõ những nguyên
nhân, hạn chế trong các chế độ bảo hiểm xã hội ảnh hưởng đến sự mất cân đối thu
chi của quỹ bảo hiểm xã hội;
- Đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về quỹ
bảo hiểm xã hội, pháp luật về chính sách bảo hiểm xã hội ảnh hưởng đến thu chi
quỹ bảo hiểm xã hội để giải quyết tình hình mất cân đối thu chi quỹ bảo hiểm xã
hội hiện nay, đảm bảo sự phát triển ổn định bền vững của bảo hiểm xã hội.


4

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn này được thực hiện trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế. Trong
quá trình thực hiện luận văn, tác giả có sự kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh,
tổng hợp, thống kê, khái quát hóa để giải quyết nội dung khoa học của đề tài.
Đặc biệt, luận văn rất chú trọng phương pháp phân tích nhằm nghiên cứu sâu

hơn, kĩ hơn từng vấn đề. Trên cơ sở kết quả phân tích, tác giả liên kết, thống nhất lại
tất cả các bộ phận, các yếu tố trong mối liên hệ tổng hợp, từ đó rút ra những điểm
còn tồn tại của hệ thống pháp luật hiện hành điều chỉnh về quỹ bảo hiểm xã hội.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và phân tích sâu sắc những vấn đề lý luận về Quỹ bảo hiểm
xã hội và pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến Quỹ bảo hiểm xã hội như:
bản chất pháp lý của quỹ bảo hiểm xã hội, vai trò, nguyên tắc hình thành và quản lý
quỹ bảo hiểm xã hội;
- Đánh giá đúng đắn, đầy đủ thực trạng pháp luật điều chỉnh về quỹ bảo
hiểm xã hội và các vấn đề liên quan đến thu chi quỹ bảo hiểm xã hội. Chỉ ra những
điểm phù hợp, chưa phù hợp, thiếu sót của pháp luật hiện hành gây ra những tồn
tại, hạn chế của Quỹ bảo hiểm xã hội trong điều kiện nền kinh tế xã hội nước ta
hiện nay. Đồng thời đánh giá tình hình thực thi pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
trên một địa bàn nhất định.
- Đề xuất những phương án, giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được trình bày như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về quỹ bảo hiểm xã hội
Chương II: Pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
và nâng cao hiệu quả thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội.


5

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. KHÁI NIỆM QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1.1. Định nghĩa quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ bảo hiểm xã hội ra đời gắn liền với sự phát triển các chính sách về bảo
hiểm xã hội và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội. Việc ra đời
Quỹ bảo hiểm xã hội trên cơ sở những đóng góp mang tính bắt buộc theo quy định
của Nhà nước chính là cơ sở quan trọng đảm bảo sự chắc chắn, ổn định và bền
vững hơn cho chính sách bảo hiểm xã hội. Do vậy, Quỹ bảo hiểm xã hội chính là
nguồn lực vật chất không thể thiếu giúp đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện tốt
các chính sách bảo hiểm xã hội.
Nhìn lại lịch sử hình thành, có thể thấy sự ra đời của quỹ bảo hiểm xã hội là
quá trình hình thành lâu dài, là kết quả của việc tổ chức một quỹ tiền tệ đảm bảo tài
chính cho những trường hợp rủi ro trên cơ sở tương trợ cộng đồng. Trong quá trình
phát triển của xã hội loài người, khi chưa có quỹ bảo hiểm xã hội cũng như các
chính sách về bảo hiểm xã hội thì sự tương trợ mang tính cộng đồng chủ yếu chỉ
mang tính tự phát. Do đó, mỗi người đều phải tự xoay sở mỗi khi gặp phải sự kiện
rủi ro như ốm đau, sinh đẻ, già yếu khiến họ giảm hay mất đi khả năng lao động.
Chỉ khi xã hội loài người phát triển ở một mức độ nhất định thì hình thức tương trợ
cộng đồng dần mang tính tổ chức và hình thành một cách tự giác hơn. Ở một số
nước đặc biệt là các nước Châu Âu, những quỹ tương trợ đã được hình thành và sau
này dần được áp dụng nhân rộng và phát triển thành chính sách bảo hiểm xã hội ở
mỗi quốc gia hiện nay. Quỹ bảo hiểm xã hội cũng từ đó hình thành để đảm bảo cơ
sở vật chất cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở từng quốc gia.
Có thể nói sự hình thành quỹ bảo hiểm xã hội xuất phát từ nhu cầu thực tế
của cả người lao động và người sử dụng lao động. Đối với người lao động, họ luôn
ý thức được rằng những rủi ro luôn có thể xảy ra với họ bất cứ khi nào, cho nên có
nhu cầu trích một phần trong số tiền lương để tích góp sử dụng mỗi khi cần thiết.
Còn đối với giới chủ, việc chịu trách nhiệm một phần trước những rủi ro của người
lao động cũng được xem là nhu cầu thiết yếu đảm bảo sự tin tưởng, yên tâm cho
người lao động trong quá trình làm việc. Do đó, nhu cầu thành lập một quỹ chung



6

theo đó giới chủ và người lao động chỉ phải trích ra một khoản tiền từ thu nhập
hàng tháng trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người lao động làm thuê đã
hình thành. Mối quan hệ tương trợ này về sau được sự can thiệp của Nhà nước để
giúp cho việc trợ cấp được thực hiện một cách thống nhất, theo đó số tiền mà các
bên đóng góp hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này
được quản lý chặt chẽ bởi nhà nước và thậm chí có thể được hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo khả năng chi trả của quỹ cho người lao động
khi gặp những biến cố bất lợi.
Như vậy, sự ra đời của quỹ bảo hiểm xã hội trên cơ sở sự đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động và có sự bảo trợ của nhà nước là phù hợp
với nhu cầu tự nhiên của toàn xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội hình thành trong quá
trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung được tích lũy dần từ sự đóng góp của
người sử dụng lao động và người lao động, đồng thời có sự bảo trợ của nhà nước.
Xét dưới góc độ kinh tế, hiện nay quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung
nằm ngoài ngân sách Nhà nước để chi trả cho người được hưởng bảo hiểm xã hội
và gia đình họ khi họ rơi vào những hoàn cảnh rủi ro nhất định.
Về khái niệm, hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào quy định cụ thể về quỹ
bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay được hiểu theo nghĩa: (i)
Theo nghĩa rộng, quỹ bảo hiểm xã hội là tập hợp những phương tiện nhằm thỏa
mãn những nhu cầu phát sinh về bảo hiểm xã hội trên cơ sở sự đóng góp của những
người tham gia bảo hiểm xã hội. Cụ thể là các khoản dự trữ về tài chính và các
phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho quỹ bảo hiểm xã hội. (ii) Theo nghĩa hẹp,
quỹ bảo hiểm xã hội là tập hợp những đóng góp bằng tiền của người tham gia bảo
hiểm xã hội, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho người được bảo
hiểm xã hội và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng
lao động hoặc mất việc làm. Dưới góc độ pháp lý, pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
là tổng hợp những quy định của nhà nước về đóng góp, sử dụng và chi trả quỹ bảo
hiểm xã hội cho người lao động và trong một số trường hợp là thành viên của gia

đình họ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
Có thể thấy, dù là được hiểu theo nghĩa nào thì quỹ bảo hiểm xã hội cũng nổi
bật lên hai điểm:


7

Thứ nhất, nguồn tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội hình thành từ nguồn
đóng góp của người tham gia bảo hiểm xã hội và có sự bảo trợ của Nhà nước. Theo
đó, những người tham gia bảo hiểm xã hội sẽ hàng tháng sẽ trích một phần thu
nhập để tạo lập và duy trì sự tồn tại của quỹ. Việc đóng góp này tùy vào từng hình
thức bảo hiểm mà được quy định là có bắt buộc hay không. Tất nhiên, không phải
lúc nào nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội cũng được quy định giống nhau mà
có thể thay đổi theo những thời kỳ nhất định tùy thuộc vào chính sách pháp luật của
mỗi quốc gia. Riêng ở Việt Nam, trong một thời gian dài, người được hưởng bảo
hiểm xã hội không phải đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ BHXH chỉ hình
thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, điều này dẫn đến chính sách
BHXH trở thành gánh nặng đối với Ngân sách Nhà nước. Việc quy định nguồn
hình thành quỹ như hiện nay chỉ được thực hiện từ sau khi đất nước thay đổi chính
sách về tổ chức quỹ BHXH theo nguyên tắc có đóng có hưởng, là cơ sở để quỹ
BHXH trở thành quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước.
Thứ hai, quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ phi lợi nhuận mang tính chất tương trợ
cộng đồng, nhằm thỏa mãn nhu cầu phát sinh về bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã
hội ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho
người lao động và gia đình họ, là sự chia sẻ hậu quả của những rủi ro xã hội. Sự
chia sẻ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập
trung. Thông qua việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và tổ
chức quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng, người lao động hàng tháng chỉ phải đóng góp
một phần thu nhập của mình cho quỹ nhưng được hỗ trợ một khoản đủ để chi trả
những nhu cầu của cuộc sống khi không may lâm vào những hoàn cảnh làm giảm

hay mất thu nhập. Ở đây, quỹ bảo hiểm xã hội thực hiện việc thu chi dựa trên
nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”.
1.1.2. Bản chất của quỹ bảo hiểm xã hội
Như đã nói ở trên, quỹ BHXH là quỹ ra đời và hình thành không vì mục đích
lợi nhuận mà hoạt động mang tính chất tương trợ cộng đồng, tạo ra sự san sẻ, tương
trợ giữa người lao động. Trong nền kinh tế hàng hóa, trách nhiệm tham gia đóng
góp BHXH được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên
cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích
giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho


8

người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi
có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà minh thuê mướn. Đồng thời, góp phần
giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía
người lao động, đóng góp một phần vào quỹ BHXH vừa thể hiện sự tự gánh chịu
trực tiếp rủi ro cho chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi
một cách chặt chẽ [43, tr.99].
Mục đích của việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đó là sự đền bù hậu
quả của những “rủi ro xã hội”, hay nói cách khác là nhằm đảm bảo an toàn kinh tế
cho người lao động và gia đình họ khi phát sinh nhu cầu BHXH xã hội như ốm đau,
sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết… Sự đền bù này chỉ có
thể được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Theo đó người lao động và
người sử dụng lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình
vào quỹ BHXH, nhưng quỹ sẽ có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải cho những
rủi ro xảy ra đối với người lao động. Do đó, việc tổ chức và sử dụng quỹ BHXH
thực chất cũng là quá trình phân phối lại thu nhập, xét trên phạm vi toàn xã hội, quỹ
BHXH có thể được xem là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho

những thành viên.
Giống như Bảo hiểm xã hội, quỹ Bảo hiểm xã hội cũng mang bản chất kinh
tế và bản chất xã hội. Bản chất kinh tế thể hiện ở chỗ việc thu chi quỹ bảo hiểm xã
hội nhằm thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn của xã
hội. Nhờ sự tổ chức phân phối thu nhập, chi trả kịp thời của quỹ bảo hiểm xã hội
mà người lao động và gia đình họ được đảm bảo, hỗ trợ phần nào trước những bất
trắc, rủi ro xã hội. Trong đó, việc phân phối thu nhập cũng phải dựa trên những
nguyên tắc nhất định để đảm bảo an toàn kinh tế cho quỹ BHXH, hay nói cách
khác là đảm bảo cân đối thu – chi quỹ BHXH. Theo đó, việc quyết định mức đóng
góp của từng đối tượng tham gia BHXH cần phải được cân nhắc, tính toán một
cách khoa học căn cứ vào các yếu tố nhất định để vừa đảm bảo được nhu cầu sống
tối thiểu của người lao động trong từng thời kỳ nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc
cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Tính kinh tế cũng được thể
hiện ở việc sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội sao cho hợp lý, hiệu quả nhất, đặc biệt đối


9

với hoạt động đầu tư để tăng giá trị cho quỹ được quy định một cách chặt chẽ, yêu
cầu tuân thủ những nguyên tắc nhất định.
Về bản chất kinh tế xét trong mối tương quan với Ngân sách Nhà nước thì có
thể thấy điểm giống nhau là đều là sự phân phối lại thu nhập tức là đều là quá trình
tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thực hiện
các mục tiêu nhất định. Tuy nhiên, việc tổ chức sử dụng nguồn tài chính này lại có
sự khác biệt nhất định. Cụ thể, quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước chủ yếu
là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả. Số tiền mà Ngân sách Nhà nước
thu được từ nguồn đóng góp của các cá nhân, tổ chức trong nước sẽ thuộc sở hữu
của Nhà nước và được sử dụng vào các mục đích quốc gia như: chi phát triển kinh
tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, chi cho hoạt động bộ máy nhà nước...
Trong khi đó, phân phối tổ chức sử dụng quỹ BHXH lại có tính chất hoàn trả đối

với đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội. Cụ thể, số tiền được đóng góp để tạo lập quỹ
BHXH sẽ được sử dụng cho việc chi trả, hỗ trợ cho người lao động khi họ gặp phải
sự kiện rủi ro dẫn đến suy giảm hay mất thu nhập.
Bản chất xã hội thể hiện ở chỗ cách thức hỗ trợ của quỹ bảo hiểm xã hội dựa
trên nguyên tắc lấy số đông bù cho số ít, dựa trên sự san sẻ rủi ro của toàn xã hội.
Tức là mỗi người lao động chỉ phải đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của
mình để tạo lập quỹ nhưng vì nhiều người cùng đóng góp cho nên tạo nên quỹ có
giá trị lớn đảm bảo chi trả lượng vật chất đủ để hỗ trợ số ít người lao động lâm vào
hoàn cảnh khó khăn ảnh hưởng đến thu nhập. Có thể nói, bảo hiểm xã hội là nhu
cầu khách quan, đa dạng của đông đảo tầng lớp lao động trong xã hội. Mỗi người
lao động đều hiểu rằng những sự kiện rủi ro hoàn toàn có thể xảy đến với mình bất
cứ lúc nào, nên việc đóng góp một phần vào quỹ để được hỗ trợ khi giảm hay mất
khả năng lao động là điều cần thiết. Trong trường hợp họ may mắn không gặp phải
những sự kiện rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… thì số tiền
họ đóng góp sẽ dùng để hỗ trợ cho những người kém may mắn hơn. Đây chính là
mục đích thể hiện bản chất xã hội của quỹ BHXH đó là sự san sẻ rủi ro của toàn xã
hội. Cùng với đó, việc tổ chức thu-chi quỹ bảo hiểm xã hội, đã tạo ra sự đoàn kết,
tương trợ và gắn kết lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Sự gắn kết lợi
ích này không chỉ giữa những người lao động cùng tham gia với nhau mà còn thể
hiện giữa những người lao động và giới chủ. Bởi việc đáp ứng nhu cầu bảo hiểm xã


10

hội cho người lao động khi gặp phải rủi ro sẽ phần nào giải quyết được những bất
đồng lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động khi xảy ra sự kiện rủi
ro. Từ đó tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa giới chủ và người làm công.
Bản chất kinh tế và xã hội của quỹ không tách rời mà đan xen lẫn nhau. Bởi
việc đảm bảo thu nhập, lợi ích kinh tế cho người lao động khi gặp phải các sự kiện
rủi ro chính là thực hiện chức năng, mục đích xã hội của Quỹ bảo hiểm xã hội. Và

quỹ bảo hiểm xã hội muốn thực hiện được vai trò san sẻ rủi ro xã hội thì phải cân
nhắc các yếu tố về kinh tế, việc giải quyết các nhu cầu bảo hiểm xã hội chỉ có thể
thực hiện một cách bền vững và lâu dài nếu đảm bảo được an ninh tài chính cho
quỹ BHXH.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Thứ nhất, sự an toàn tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội được nhà nước bảo đảm.
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ an toàn về tài chính. Điều này xuất phát từ tính
chất quan trọng của quỹ đối với cuộc sống của người lao động. Sự an toàn của quỹ
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, cuộc sống của người lao động khi gặp phải
những hoàn cảnh khó khăn dẫn đến suy giảm hay mất khả năng lao động. Mỗi
người lao động trong cuộc đời của mình luôn cần đến sự chi trả của quỹ bảo hiểm
xã hội. Trường hợp không rơi vào những hoàn cảnh ốm đau, sinh nở, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp thì mọi người lao động đều hướng đến quyền
được chi trả lương hưu lúc về già khi bị mất khả năng lao động. Sự an toàn của quỹ
bảo hiểm xã hội được đặt ra cũng xuất phát từ tính chất quan trọng của quỹ trong
hệ thống bảo hiểm xã hội. Bởi quỹ BHXH là nguồn lực vật chất không thể thiếu
giúp đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội. Để
đối phó với những rủi ro mang tính ngẫu nhiên làm giảm hoặc mất khả năng lao
động thì cần có một lượng tiền dự trữ đủ lớn được hình thành và sử dụng trong một
thời gian nhất định trên cơ sở tính toán những xác suất nảy sinh và mức độ nhu cầu
bảo hiểm xã hội trong phạm vi quỹ phục vụ. Nếu quỹ bị mất cân đối, mất khả năng
chi trả thì hiệu quả cũng như ý nghĩa của chính sách bảo hiểm xã hội chắc chắn sẽ
không đạt được.
Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là quỹ bảo hiểm xã hội phải được bảo toàn về giá
trị và không có rủi ro về tài chính. Do đặc thù về đối tượng đảm bảo, bản chất, ý
nghĩa của hoạt động bảo hiểm xã hội mà Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo sự


11


an toàn về tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội. Khoản 2 Điều 6 Luật Bảo hiểm xã
hội đã quy định rõ: “Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội và
các biện pháp cần thiết để bảo toàn, tăng trưởng quỹ. Quỹ bảo hiểm xã hội được
Nhà nước bảo hộ, không bị phá sản”.
Thứ hai, quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiêu dùng, hình thành không nhằm mục
đích kinh doanh kiếm lời. Quỹ bảo hiểm xã hội mang đặc trưng là quỹ tiêu dùng là
bởi những nhu cầu bảo hiểm xã hội sẽ chỉ được thỏa mãn thông qua tiêu dùng của
cá nhân những người được bảo hiểm xã hội. Bởi vậy, có thể nói rằng quỹ bảo hiểm
xã hội là một bộ phận cấu thành của hệ thống phân phối theo thu nhập quốc dân,
làm nhiệm vụ phân phối lại thu nhập cho người lao động. Do đó, quỹ bảo hiểm xã
hội là quỹ tích lũy đồng thời là quỹ tiêu dùng trên cơ sở tuân theo quy luật công
bằng, ở mức độ nhất định theo nguyên tắc tương đương, đồng thời phải tham gia
điều chỉnh cần thiết giữa các nhu cầu và lợi ích [41, tr.114].
Thứ ba, quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không
hoàn trả, mang tính tương trợ cộng đồng cao. Tính chất hoàn trả của Quỹ thể hiện ở
chỗ, người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời họ cũng là
đối tượng được nhận trợ cấp, mức trợ cấp của mỗi người là khác nhau tùy thuộc vào
những biến cố hay rủi ro mà họ gặp phải. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cũng
tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội nhưng có người không được hưởng (người sử
dụng lao động phải đóng góp nhiều vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng họ không được
nhận bất kỳ khoản hỗ trợ bảo hiểm nào), có người hưởng ít nhưng có người lại được
hưởng rất nhiều. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ
quỹ bảo hiểm xã hội lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều
này thể hiển rõ nét tính chất xã hội của quỹ bảo hiểm xã hội.
Quỹ mang tính cộng đồng cao là bởi được hình thành từ sự đóng góp của
người sử dụng lao động, của người lao động và được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ,
hoạt động của quỹ không phải mục đích kiếm lời. Quỹ ra đời, tồn tại và phát triển
gắn liền với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình
họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động.
Thứ tư, quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiền tệ tập trung lớn tồn tại trong thời

gian dài, luôn vận động và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn. Quỹ BHXH được tạo lập
từ sự đóng góp, tham gia của đông đảo người tham gia và có tính chất phân phối


12

chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội
qua các thế hệ, vì vậy nguồn lực tài chính của quỹ BHXH là rất lớn trong khoảng
thời gian dài. Việc quỹ bảo hiểm xã hội có số dư lớn sẽ giúp việc chi trả được thực
hiện một cách kịp thời, đảm bảo giải quyết nhanh chóng nhu cầu bảo hiểm xã hội
cho người tham gia. Ngoài ra, số người tham gia càng đông thì tần suất xảy ra rủi
ro càng lớn, vậy nên quỹ BHXH cũng thường xuyên phải chi trả chế độ cho người
tham gia BHXH, điều này làm cho Quỹ luôn trong trạng thái vận động và biến đổi.
1.3. VAI TRÒ CỦA QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
* Đối với nền kinh tế:
Quỹ bảo hiểm xã hội có một vai trò hết sức quan trọng đối với mọi người lao
động ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Quỹ bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện
được chức năng đảm bảo thay thế hoặc bù đắp sự thiếu hụt thu nhập của người lao
động và gia đình họ. Đây là chức năng cơ bản thể hiện rõ bản chất kinh tế của bảo
hiểm xã hội. Khi người lao động đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ (đóng góp
bảo hiểm xã hội theo luật định thì họ có quyền được nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội
khi phát sinh những rủi ro làm thu nhập của họ bị giảm sút. Bảo hiểm xã hội chỉ
thực sự có ý nghĩa kinh tế khi những thiếu hụt về thu nhập của người lao động và
gia đình họ được bù đắp, trợ giúp theo quy định của bảo hiểm. Đồng thời chỉ khi
thực hiện tốt chức năng này, bảo hiểm xã hội mới thực sự khuyến khích, thực sự có
sức cuốn hút đối với người lao động để họ tham gia bảo hiểm xã hội. Sự phát triển
của Quỹ BHXH là một nguồn tài chính vững chắc đảm bảo quyền được hưởng của
người tham gia qua đồng thời đóng góp vào sự phát triển của đất nước nói chung và
sự phát triển kinh tế nói riêng. Thể hiện như sau:
+ Việc hình thành quỹ bảo hiểm xã hội trên thực tế với số thu ngày càng tăng

đã góp phần giảm đáng kể gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong việc chi trả các
chế độ bảo hiểm xã hội. Trước đây, Quỹ bảo hiểm xã hội trong suốt thời gian dài
chỉ tồn tại trên danh nghĩa, do vậy mọi khoản chi phí chi trả bảo hiểm xã hội đều do
Ngân sách Nhà nước chi trả. Tuy nhiên, về sau quỹ bảo hiểm xã hội được tổ chức
thành quỹ độc lập theo nguyên tắc có đóng thì mới được hưởng đã giúp quỹ có số
dư tăng lên đáng kể. Qua đó đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời cho các đối tượng bảo
hiểm xã hội, chấm dứt được tình trạng chậm lương hưu thường xảy ra ở thời kỳ
trước, không những thế còn để ra một khoản đáng kể để tiến hành đầu tư tăng


13

trưởng quỹ. Những khoản chi kịp thời của quỹ bảo hiểm xã hội góp phần đảm bảo
đời sống, thu nhập của người lao động, giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế, bởi khi
thu nhập của người lao động bị ảnh hưởng với số lượng lớn thì khả năng tiêu dùng
của họ cũng giảm đáng kể gây ra phần nào sự kìm hãm sự tăng trưởng của kinh tế.
Cần thấy rằng, phát triển kinh tế không chỉ là tăng trưởng kinh tế, mà cùng với đó
phải là những thay đổi về chất của nền kinh tế như: phúc lợi xã hội, tuổi thọ...[45].
Tức là mục tiêu không chỉ là tăng trưởng GDP mà còn nhằm cải thiện đáng kể đời
sống của người dân, giảm tình trạng thu nhập bình quân đầu người cao trong khi
vẫn còn rất nhiều người dân sống trong cảnh nghèo khổ, thiếu thốn. Quỹ bảo hiểm
xã hội với mục đích chủ yếu là đảm bảo an sinh xã hội sẽ đóng vai trò quan trọng
thực hiện mục tiêu này, qua đó thể hiện những đóng góp nhất định cho sự phát triển
kinh tế của quốc gia.
+ Hiện nay, nền kinh tế đất nước vẫn đang phải chịu ảnh hưởng nặng nề của
cuộc khủng hoảng kinh tế, do đó vấn đề tìm kiếm việc làm cũng như đảm bảo việc
làm cho người lao động được xem là một vấn đề rất đáng lo ngại. Xuất phát từ tình
hình sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn nên số lượng doanh nghiệp phá
sản, thu hẹp sản xuất trong những năm gần đây có xu hướng tăng, vì vậy làm cho tỷ
lệ thất nghiệp cũng ngày càng tăng cao. Chẳng hạn ở Hà Nội, dù trong năm 2012

có đến 15.000 doanh nghiệp mới thành lập nhưng theo Cục Thuế Hà Nội thì tính
đến hết tháng 11/2012 có tới 12.249 doanh nghiệp ngừng hoạt động [50]. Việc số
lượng các doanh nghiệp ngừng hoạt động ngày càng gia tăng cũng được xem là một
trong những nguyên nhân khiến cho số lượng người lao động thất nghiệp ở Hà Nội
tăng đột biến. Tính trong tháng 2 năm 2012, Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội
đã tiếp nhận 1.055 người lao động đến đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, tăng 2,8 lần
so với tháng 2/2011 [51]. Trong bối cảnh như vậy, việc tổ chức và sử dụng quỹ bảo
hiểm xã hội, đặc biệt là quỹ bảo hiểm thất nghiệp sẽ giúp đảm bảo một phần thu
nhập cho người lao động, từ đó giảm thiểu được những tác động tiêu cực gây kìm
hãm sự tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
+ Quỹ bảo hiểm xã hội thực hiện đầu tư số vốn tạm thời nhàn rỗi giúp cung
cấp một nguồn vốn quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Như đã phân tích, một đặc điểm của Quỹ BHXH ở nước ta là quỹ được tồn tích qua
nhiều năm và có tính chất phân phối chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội giữa


14

những người tham gia BHXH qua các thế hệ. Do vậy quỹ sẽ có số dư tạm thời nhàn
rỗi tương đối lớn trong khoảng thời gian dài. Đây là một nguồn vốn vô cùng quan
trọng để hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn, tăng trưởng quỹ đồng thời góp phần kích
thích sự phát triển kinh tế của đất nước.
* Đối với xã hội:
Quỹ bảo hiểm xã hội là dòng chảy liên tục của sự đóng vào và sự chi ra của
tiền bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện sự phân phối lại theo chiều
ngang giữa các nhóm người, góp phần tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa các nhóm lao
động, thể hiện ở chỗ người lao động khỏe đóng góp để cho người lao động đã hết
tuổi lao động được hưởng. Việc đóng bảo hiểm xã hội không chỉ có chức năng
tương trợ đối với người khác, mà điều này còn để san sẻ rủi ro của chính bản thân
mỗi người lao động. Có nghĩa là họ đóng phí bảo hiểm xã hội thường kèm với một

tỷ lệ nào đó của thu nhập từ nghề nghiệp trong thời gian dài, để đến khi họ ốm đau,
nghỉ hưu… số tiền đó được tồn tích tại quỹ bảo hiểm xã hội giúp đảm bảo một
phần nhu cầu chi tiêu của họ. Với số tiền nhỏ mà mỗi người lao động đóng góp
hàng tháng thì với số đông người tham gia sẽ tạo nên một quỹ bảo hiểm với số tiền
lớn đủ trang trải cho những người không may gặp rủi ro. Qua đó, có thể nói chính
sách bảo hiểm xã hội nói chung và quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng đã tạo ra sự đoàn
kết, tương trợ và sự gắn kết lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Người sử
dụng lao động tuy không trực tiếp được hưởng các trợ cấp bảo hiểm xã hội nhưng
khi đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, họ không còn phải lo lắng phải chi
trả những khoản hỗ trợ cho người lao động khi đối mặt với các rủi ro. Qua đó giúp
cả người lao động và người sử dụng lao động đều yên tâm, tạo điều kiện cho sự ổn
định của quan hệ lao động và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện thu, chi Quỹ BHXH cũng góp phần vào việc thực hiện công
bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm
xã hội. Sự phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối lại
theo chiều ngang giữa người khỏe và người già, người đang làm việc với người đã
về hưu…. Phân phối theo chiều dọc là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế
xã hội, là sự phân phối giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập
thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của
người giàu chia cho người nghèo. Ý nghĩa của BHXH là phát huy sự đoàn kết


15

tương trợ phát huy tính tự thân, sống hòa nhập có tình nghĩa giữa mọi người trong
cùng cộng đồng.
1.4. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội quy định những vấn đề quan trọng, cơ bản
nhất về quỹ BHXH như nguồn hình thành quỹ, chi trả trợ cấp của quỹ và tổ chức,
quản lý quỹ BHXH. Trong đó, quy định về thu, chi quỹ BHXH là quan trọng nhất.

Việc tổ chức, quản lý quỹ với quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cũng là nội dung
quan trọng không thể thiếu khi điều chỉnh pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội.
- Quy định về nguồn thu quỹ BHXH
Pháp luật về thu quỹ BHXH quy định vấn đề chính và quan trọng nhất là
mức đóng và phương thức đóng quỹ BHXH của các chủ thể tham gia BHXH. Hiện
nay, hầu hết các nước quy định nguồn thu quỹ BHXH hình thành từ thu nhập của
người lao động với nghĩa vụ được quy định cho hai chủ thể là người lao động và
người sử dụng lao động. Trong đó, tại một số quốc gia phát triển nền kinh tế thị
trường dân chủ như: Đan Mạch, Hà Lan, Thụy Điển… thì Nhà nước có sự hỗ trợ
một mức đóng góp nhất định vào quỹ BHXH cho người lao động. Pháp luật Việt
Nam trước đây từng có thời kỳ quy định trách nhiệm đóng góp quỹ BHXH thuộc
về Nhà nước, tuy nhiên theo quy định hiện hành thì Nhà nước chỉ hỗ trợ vào việc
tạo lập quỹ BHXH trong một số trường hợp nhất định, còn trách nhiệm đóng góp
tạo lập quỹ được quy định chủ yếu cho người lao động và người sử dụng lao động.
Về mức đóng góp, tùy từng quốc gia khác nhau mà pháp luật quy định mức đóng
góp cho việc hình thành quỹ BHXH là khác nhau. Ví dụ ở Đức, tổng mức đóng góp
vào quỹ BHXH là 41,5% tiền lương (cho chế độ hưu trí là 19,3%; thai sản 14%; tai
nạn lao động, thất nghiệp 6,5%; chăm sóc người già 1,7%) trong đó người sử dụng
lao động đóng một nửa và người lao động đóng một nửa. Ở Thái Lan, pháp luật về
an sinh xã hội quy định cụ thể về trách nhiệm đóng góp của Nhà nước. Cụ thể, tổng
mức đóng để hình thành quỹ là 10% tính trên tổng quỹ tiền lương, trong đó người
lao động đóng 3%, người sử dụng lao động đóng góp 4% và Nhà nước đóng góp
3% [34].
Pháp luật quy định về nguồn thu quỹ BHXH của Việt Nam được điều chỉnh
thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử. Cơ cấu về nguồn thu quỹ BHXH trước đây
không phải lúc nào cũng giống nhau mà tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,


16


xã hội của đất nước. Chẳng hạn, trong thời kỳ nước ta phát triển nền kinh tế tập
trung, bao cấp thì người lao động không phải tham gia đóng góp tạo lập nguồn tài
chính cho quỹ, vì nguồn tài chính để thực hiện các nhiệm vụ chi chủ yếu do Ngân
sách Nhà nước đảm bảo. Tuy nhiên, hiện nay việc quy định trách nhiệm đóng góp
của người lao động cho việc tạo lập quỹ dựa trên nguyên tắc có đóng có hưởng
được xem là nguồn quan trọng trong cơ cấu nguồn thu quỹ BHXH.
- Quy định về chi quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các đối tượng hưởng các
chế độ bảo hiểm xã hội. Các chế độ BHXH được áp dụng đối với người lao động
nhiều hay ít, mức độ hưởng của từng loại chế độ cao hay thấp phụ thuộc vào chính
sách BHXH do mỗi Nhà nước quy định. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ban hành
Công ước 102 ngày 04/6/1952 trong đó quy định các chế độ trợ cấp: chăm sóc y tế,
trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật và trợ cấp tiền tuất. Tuy nhiên,
tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội mà các quốc gia quy nhiệm vụ chi đối với toàn
bộ hay một số các chế độ đã được Công ước 102 quy định. Ví dụ, Quỹ BHXH của
Cộng hòa liên bang Đức được sử dụng để chi trả cho các chế độ: hưu trí, y tế, thai
sản, thất nghiệp, tai nạn lao động và chăm sóc người già. Đối với nước ta, ban đầu
quỹ BHXH chỉ tập trung cho chế độ hưu trí do chưa có điều kiện để thực hiện chi
trả cho các chế độ khác, nhưng đến nay cơ cấu chi quỹ BHXH có thể đánh giá là
khá đầy đủ và ổn định cho các chế độ BHXH như: chế độ ốm đau; chế độ thai sản;
chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và tử tuất.
Ngoài ra, quỹ BHXH còn được sử dụng cho các nhiệm vụ chi khác như: chi
cho hoạt động thường xuyên để duy trì bộ máy làm việc của cơ quan BHXH, chi
cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, chi khen thưởng đối với các cá nhân có thành
tích tốt trong việc thực hiện pháp luật về quỹ BHXH, và chi cho hoạt động đầu tư
để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH.
- Quy định về quản lý quỹ BHXH
Trách nhiệm quản lý quỹ BHXH hiện nay được hầu hết các quốc gia trên thế
giới quy định thuộc về Nhà nước. Điều này xuất phát từ nguyên nhân hình thành,

vai trò cũng như mục đích sử dụng của quỹ BHXH, từ đó đặt ra yêu cầu việc quản
lý hay giám sát việc tổ chức thực hiện phải được đặt dưới sự quản lý thống nhất của


17

Nhà nước. Ở Việt Nam, việc quản lý sự nghiệp đối với quỹ BHXH do Bảo hiểm xã
hội Việt Nam trực tiếp quản lý, tổ chức thu, chi, đầu tư quỹ. Hội đồng quản lý
BHXH có vai trò giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giám sát việc thực
hiện chế độ, chính sách thu, chi quỹ BHXH. Một số quốc gia ở khu vực Đông Nam
Á cũng áp dụng mô hình quản lý quỹ tương tự như Việt Nam. Như Thái Lan, việc
quản lý chung về quỹ BHXH do Bộ Lao động và phúc lợi xã hội, hoạt động quản lý
sự nghiệp do Văn phòng BHXH thực hiện. Hay ở Indonexia, Bộ nhân lực là cơ
quan quản lý chung, Hội đồng Nhà nước về vấn đề đảm bảo xã hội chịu trách
nhiệm thực hiện các chính sách BHXH. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia lại áp dụng
mô hình tổ chức, quản lý quỹ khác. Ví dụ ở Đức, hệ thống BHXH được tổ chức
theo mô hình tự quản, do vậy hiện nay có rất nhiều các tổ chức BHXH, hầu hết là
các tổ chức phi chính phủ. Mỗi loại bảo hiểm có một tổ chức, riêng bảo hiểm hưu
trí có 22 tổ chức [34].
Về việc phân chia quỹ BHXH, hiện nay nhiều nước quy định cơ cấu quỹ
BHXH gồm nhiều quỹ khác nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực
hiện và hạch toán quỹ. Như ở Thái Lan, quỹ BHXH được chia thành 3 nhóm: nhóm
bắt buộc, nhóm tự nguyện và nhóm lao động phi chính thức. Trong đó, nhóm bắt
buộc là lao động trong các doanh nghiệp, nhóm tự nguyện là lao động bị chấm dứt
việc làm không được hưởng trợ cấp thất nghiệp, nhóm phi chính thức là lao động tự
do từ 15 – 60 tuổi tham gia trên cơ sở tự nguyện và được Nhà nước hỗ trợ một phần
đóng. Ở Việt Nam, quỹ BHXH cũng được cơ cấu thành 3 quỹ gồm: quỹ BHXH bắt
buộc, quỹ BHXH tự nguyện và quỹ bảo hiểm thất nghiệp.



18

KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Từ những nghiên cứu về quỹ bảo hiểm xã hội nói chung và quỹ bảo hiểm xã
hội áp dụng ở nước ta, có thể hình dung khái quát phần nào về đặc trưng, bản chất
của quỹ bảo hiểm xã hội. Trong đó, đặc trưng cơ bản nhất của quỹ bảo hiểm xã hội
là quỹ tiêu dùng hình thành không nhằm mục đích kiếm lời. Thông qua việc tổ
chức và thực hiện hoạt động thu – chi quỹ, quỹ BHXH đã thể hiện được vai trò to
lớn của quỹ BHXH đối với nền kinh tế và đối với xã hội. Theo đó, quỹ bảo hiểm xã
hội không chỉ có ý nghĩa bù đắp những thiếu hụt về kinh tế cho người lao động
không may gặp phải các sự kiện rủi ro mà còn góp phần phát huy sự đoàn kết,
tương trợ chia sẻ rủi ro giữa mọi người trong cộng đồng. Từ việc nghiên cứu quá
trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật điều chỉnh liên quan đến
quỹ bảo hiểm, chúng ta có thể thấy được sự quan tâm của Nhà nước ta đối với
chính sách bảo hiểm xã hội nói chung cũng như quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng.
Theo đó, các quy định pháp luật liên quan đến nguồn thu, chi cũng như việc tổ
chức quản lý quỹ đã được Nhà nước liên tục điều chỉnh sao cho phù hợp với tình
hình thực tế. Đặc biệt, việc quỹ bảo hiểm xã hội có khả năng mất khả năng cân đối
thu – chi như hiện nay đang là vấn đề gây nhiều thách thức cho việc đảm bảo ổn
định và phát triển chính sách xã hội của đất nước. Do đó, xã hội hơn lúc nào hết
cần thêm những điều chỉnh mang tính tích cực của Nhà nước để giúp chính sách
bảo hiểm xã hội vượt qua những khó khăn hiện tại.


19

CHƯƠNG II
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM

2.1.1. Nguyên tắc hình thành và quản lý quỹ
Việc quy định nguồn lực vật chất hình thành cũng như tổ chức quản lý quỹ
bảo hiểm xã hội phải được thực hiện dựa trên những yêu cầu, nguyên tắc nhất định.
Để thực hiện tốt việc quản lý quỹ cũng như nhằm đạt được mục đích của việc sử
dụng quỹ BHXH thì quá trình quản lý, điều hành hoạt động quỹ BHXH cần quán
triệt những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc hình thành quỹ BHXH phải tuân thủ thực hiện nguyên tắc có
đóng, có hưởng. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động hình thành cũng như
quản lý quỹ BHXH nhằm đảm bảo sự duy trì và tồn tại của quỹ. Điều này xuất phát
từ tính chất xã hội của quỹ bảo hiểm xã hội, đó là sự “chia sẻ rủi ro”, “lấy số đông
bù số ít”. Theo đó tất cả những người tham gia bảo hiểm xã hội đều cùng đóng góp
một phần tiền lương của mình từ đó mới hình thành nên quỹ để chi trả cho những
cá nhân gặp phải những sự kiện rủi ro. Rõ ràng, nếu không áp dụng nguyên tắc có
đóng có hưởng thì quỹ bảo hiểm xã hội chắc chắn phải sử dụng kinh phí từ Ngân
sách Nhà nước, còn nếu chỉ thu từ phía người sử dụng lao động thì sẽ không tạo
được nguồn vật chất đủ lớn để chi trả bảo hiểm xã hội, và kéo theo đó thì ý nghĩa
chia sẻ rủi ro, tương trợ cộng đồng cũng không được thể hiện. Do vậy, để thực hiện
nguyên tắc trên thì những người được thụ hưởng các quyền lợi do quỹ bảo hiểm xã
hội chi trả hoặc họ phải trực tiếp đóng góp vào quỹ hoặc người thân của họ là
người lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực hiện trách nhiệm
đóng góp vào quỹ BHXH theo quy định.
Tất nhiên, việc người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội không có
nghĩa sẽ hưởng mọi chế độ bảo hiểm xã hội, số tiền họ đóng vào trong trường hợp
họ không phải sử dụng đến thì sẽ dùng vào việc chi trả cho các đối tượng ít may
mắn, gặp phải nhiều rủi ro trong cuộc sống hơn, qua đó mới thể hiện được sự tương
trợ cộng đồng của bảo hiểm xã hội. Từ nguyên tắc này, pháp luật bảo hiểm xã hội
quy định việc xác định mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng,



×