Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 78 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Các phương thức thanh toán điện tử cũng như những quy định pháp luật điều
chỉnh hoạt động này đã xuất hiện khá lâu ở Việt Nam, mặc dù trên thực tế trong
suốt một thời gian dài, thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm một tỉ lệ rất lớn trong
các giao dịch. Theo thời gian, hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
thanh toán điện tử dần được bổ sung và hoàn thiện, thanh toán điện tử cũng dần trở
nên quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội. Đến thời điểm hiện nay, cùng với sự
phát triển vượt bậc của công nghệ trong Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
(thường được gọi là Cách mạng công nghiệp 4.0), hoạt động thanh toán điện tử đã
có sự thay đổi đột biến cả về số lượng và phương thức. Dưới tác động của công
nghệ thông tin và sự phổ biến của các phương tiện, thiết bị kỹ thuật số, đặc biệt là
điện thoại di động và các thiết bị điện tử có kết nối internet, thanh toán điện tử đã
phát triển thêm một bậc mới thông qua phương tiện kỹ thuật số.
Thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là một xu thế tất yếu đóng vai trò
quyết định trong sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội, đồng thời, nó cũng sẽ gây
ra những biến đổi to lớn trong phương thức kinh doanh, mua bán của các chủ thể
trong nền kinh tế. Đi kèm với đó là những nguy cơ mới đe dọa quyền lợi hợp pháp
của các chủ thể, và cả sự ổn định, an toàn trong hệ thống tài chính. Nắm bắt được sự
thay đổi mạnh mẽ này cũng như những lợi ích to lớn mà thanh toán qua phương tiện
kỹ thuật số đem lại, nhà nước cũng đã có những chính sách, định hướng nhất định
cho hoạt động này, nhưng đây vẫn là một vấn đề khá mới mẻ, cần có nhiều thay đổi
cả về hệ thống pháp luật cũng như nhận thức của người dân để có thể tận dụng tốt
những lợi ích của nó. Với lý do đó, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật
điều chỉnh hoạt động thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số tại Việt Nam”
để làm luận văn tốt nghiệp chương trình học thạc sĩ luật học.

-1-



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán
thông qua phương tiện kỹ thuật số không nhiều và chưa tương xứng với sự bùng nổ
của giao dịch này trên thực tế. Xét trong khoảng 10 năm trở lại đây, những công
trình nghiên cứu về thanh toán điện tử nói chung và thanh toán thông qua phương
tiện kỹ thuật số nói riêng không nhiều, tập trung ở một số công trình sau đây:
- Bài báo khoa học “Những rào cản trong phát triển thanh toán không dùng
tiền mặt ở Việt Nam” của tác giả Trịnh Thanh Huyền đăng trên Tạp chí Ngân hàng số
20 (tháng 11 năm 2010). Bài báo này phân tích được những nguyên nhân cản trở sự
phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó có thanh toán điện tử và
thông qua phương tiện kỹ thuật số như sự am hiểu của người tiêu dùng, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật số và hành lang pháp lý. Tác giả đề xuất việc hoàn thiện từ cơ chế chính sách
đến hạ tầng công nghệ tại Việt Nam để phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền
mặt.
- Bài báo khoa học “Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam,
nhìn từ cơ sở thực tiễn” của tác giả Đặng Công Hoàn, đăng trên Tạp chí Ngân hàng
số 17 (tháng 9 năm 2011). Bài báo đã phân tích thực tế phát triển dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt trong những năm trước đó ở Việt Nam và đánh giá là sự phát
triển nhìn chung là manh mún, cạnh tranh thiếu lành mạnh và tiền ẩn nhiều nguy cơ
rủi ro cho khách hàng sử dụng. Bài báo cũng đề xuất một số giải pháp để đồng bộ hóa
hạ tầng dịch vụ, tăng cường liên kết giữa các tổ chức tín dụng để phát triển các dịch
vụ thanh toán kỹ thuật số một cách đa dạng và kết nối với các dịch vụ khác của ngân
hàng.
- Bài báo khoa học “Kinh nghiệm phát triển thanh toán điện tử trong dân cư
khu vực châu Á” của tác giả Nguyễn Thu Hà, đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 20
(tháng 10 năm 2011). Bài báo đã phân tích thực trạng phát triển thanh toán điện tử ở
một số quốc gia như Trung Quốc, Malaysia và Singapore. Bài báo kết luận: Những
quốc gia kể trên có tốc độ phát triển thanh toán điện tử rất nhanh chóng do có hạ

-2-



tầng đồng bộ, chính sách hợp lý và sự ủng hộ của hệ thống thương mại quốc gia.
- Bài báo khoa học “Cần có giải pháp hiệu quả phòng chống tội phạm trong
lĩnh vực thanh toán điện tử” của tác giả Nguyễn Thu Giang đăng trên Tạp chí Kiểm
sát số 15 năm 2011. Trong bài viết này, tác giả phân tích những bất cập, thiếu hiệu
quả trong phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực thanh toán điện tử liên quan đến
kiểm soát quá trình giao dịch, các hành vi tội phạm mạng và cơ chế xử lý của cơ
quan quản lý nhà nước v.v..
- Bài báo khoa học “Những bất cập của các quy định pháp luật về ví điện tử”
của tác Trần Thanh Bình đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 năm 2016. Bài
báo này tác giả đã bình luận nhiều quy định bất cập hoặc còn chưa đầy đủ để điều
chỉnh giao dịch ví điện tử hiện nay. Tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm
quản lý tốt hơn mô hình thanh toán điện tử ngày càng phổ biến này.
Ngoài những bài báo khoa học nói trên, có một số công trình nghiên cứu
khác ở những mức độ khác nhau có đề cập đến vấn đề thanh toán điện tử, điển hình
như:
- Giáo trình Luật ngân hàng (2015) của Trường Đại học Mở Hà Nội của
đồng tác giả TS. Trần Vũ Hải và TS. Vũ Văn Cương. Trong nội dung đề cập đến
pháp luật về dịch vụ thanh toán, tác giả Trần Vũ Hải có đề cập đến vấn đề pháp luật
điều chỉnh hoạt động thanh toán điện tử thông qua thẻ ngân hàng.
- Một tác phẩm rộng hơn đề cập đến thanh toán thông qua phương tiện kỹ
thuật số là cuốn sách “Thương mại điện tử” của các tác giả An Thu Hoài và Nguyễn
Viết Khôi xuất bản năm 2015 của NXB Thông tin và truyền thông; hay trướcđó là
cuốn sách “Giao dịch thương mại điện tử, một số vấn đề cơ bản” xuất bản năm
2002 của các tác giả Nguyễn Văn Minh và Trần Hoài Nam do NXB Chính trị quốc
gia ấn hành. Những tác phẩm này khẳng định, trong thương mại điện tử không thể
thiếu sự hỗ trợ của các phương thức thanh toán điện tử.
Điểm qua những công trình kể trên có thể nhận thấy, vấn đề thanh toán điện
tử nói chung và thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số nói riêng và pháp luật


-3-


điều chỉnh vấn đề này đã được một số công trình đề cập đến ở những mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, để nghiên cứu một cách đầy đủ với tư cách là luận văn thạc sĩ luật
học thì chưa có tác giả nào. Do đó, còn có nhiều khía cạnh để nghiên cứu và đóng
góp, hệ thống hóa tri thức pháp lý về thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số
dưới góc độ luận văn thạc sĩ luật học.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh
hoạt động thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay. Đề
tài cũng giới hạn phạm vi nghiên cứu trong thời gian từ năm 2001 đến nay và trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Việc đề cập đến các thông lệ quốc tế hay pháp luật
nước ngoài chỉ có ý nghĩa so sánh, không phải trọng tâm nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện theo phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin. Để nghiên cứu từng vấn đề cụ thể, đề tài có sử
dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh đối chiếu v.v..
5. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán thông qua phương tiện kỹ
thuật số, từ đó đánh giá được thực trạng pháp luật trong lĩnh vực này và đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật còn bất cập và nâng cao hiệu quả
thực hiện.
Với mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Tổng kết, xây dựng khung lý luận cơ bản về pháp luật thanh toán thông qua
phương tiện kỹ thuật số tại Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về thanh toán

thông qua phương tiện kỹ thuật số tại Việt Nam hiện nay.

-4-


- Xây dựng phương hướng và một số đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
về thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số
và pháp luật điều chỉnh
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về thanh toán
qua phương tiện kỹ thuật số tại Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số

-5-


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
THANH TOÁN QUA PHƢƠNG TIỆN KỸ THUẬT SỐ
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH

1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua phƣơng tiện kỹ thuật số
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số
Trong nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường nói riêng, thanh toán
được hiểu là sự chuyển giao quyền sở hữu tiền hoặc các phương tiện thanh toán
khác, được diễn ra khi mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các bên trong một

giao dịch có ràng buộc pháp lý. Việc thanh toán có thể diễn ra trực tiếp giữa các bên
tham gia giao dịch, hoặc thông qua trung gian thực hiện dịch vụ thanh toán.
Khi nền kinh tế ngày càng mở rộng, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa
dịch vụ diễn ra ngày càng sôi động, thì các hình thức, phương tiện thanh toán cũng
ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Bên cạnh hình thức thanh
toán trực tiếp bằng tiền mặt hoặc các tài sản khác, cùng với sự phát triển của hệ
thống ngân hàng, các dịch vụ thanh toán qua trung gian thanh toán cùng với các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cũng ngày càng phát triển.
Trong thanh toán qua trung gian thanh toán, không có sự xuất hiện của tiền
mặt, mà thay vào đó là đồng tiền ghi sổ. “Đồng tiền ghi sổ là đồng tiền được thể
hiện bằng số liệu kế toán ghi nhận một số tiền cụ thể của người sở hữu”.1 Khi hoạt
động thanh toán diễn ra, thông qua các phương tiện thanh toán mà sự biến động
tăng, giảm, số dư của đồng tiền ghi sổ được ghi nhận. Hiện nay, Nghị định số
1

Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật Ngân hàng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, tr.321.

-6-


101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ (được sửa đổi bổ sung bởi Nghị
định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016) về thanh toán không dùng tiền mặt, tại
Điều 4, khoản 6 quy định các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sau: Séc,
lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện
thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, với thực tế phong phú của cuộc sống và sự phát triển của công nghệ,
trong đời sống vẫn diễn ra những giao dịch thanh toán mà phương tiện thanh toán
không phải là những phương tiện truyền thống đã nêu ở trên, chẳng hạn với giao dịch
trong các trò chơi điện tử, người chơi sẽ mua bán “vật phẩm ảo” dùng bằng việc sử
dụng “tiền ảo” do trò chơi đó quy định, hoặc những giao dịch sử dụng tiền mã hóa

(crypto currency) đang ngày càng phổ biến trong khoảng 10 năm trở lại đây và hiện
còn có quan điểm ứng xử khác nhau của các nước trên thế giới v.v.. Thông thường,
những phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận này chỉ được sử dụng
trong phạm vi hẹp, giữa nội bộ những người chấp nhận giá trị của loại phương tiện
này.
Cùng với sự ra đời và phát triển của mạng internet, các phương tiện kỹ thuật
số đã ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Các phương tiện kỹ thuật số có nền
tảng là kỹ thuật số. Trong đời sống hiện đại, kỹ thuật số là một khái niệm rất phổ
biến và dễ bắt gặp trong đời sống. Bất kì đâu, chúng ta cũng có thể gặp những từ
như kỹ thuật số, phương tiện kỹ thuật số, công nghệ kỹ thuật số, truyền thông kỹ
thuật số, hình ảnh kỹ thuật số, thiết bị kỹ thuật số…
Theo Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia (tiếng Việt), kỹ thuật số là
một kiểu tín hiệu và định dạng dữ liệu trong ngành điện tử, sử dụng các trạng thái
rời rạc, các tín hiệu số tồn tại dưới dạng các chuỗi số theo thời gian, thường sử dụng
các bit (số) 0 và 1 theo hệ nhị phân. Còn hệ thống kỹ thuật số là hệ thống sử dụng
các giá trị rời rạc để đại diện cho thông tin đầu vào, xử lý, truyền đi, lưu trữ… 2Còn
theo định nghĩa của Từ điển Oxford, kỹ thuật số (digital) là việc sử dụng hệ thống
2

/>
-7-


nhận và gửi dữ liệu bằng cách thể hiện có hoặc không có một tín hiệu điện tử thông
qua dãy gồm các chữ số 0 và 13.
Như vậy có thể khái quát, kỹ thuật số hay công nghệ kỹ thuật số là một công
nghệ điện tử, trong đó dữ liệu được mã hóa, xử lý và truyền đi dưới dạng các tín
hiệu rời rạc - một dãy số gồm các chữ số 0 và 1. Công nghệ này có ứng dụng rất to
lớn, và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm
cả hoạt động thanh toán.

Ban đầu, các phương tiện thanh toán được thể hiện dưới dạng hữu hình như
tiền mặt, tài sản; kể cả các phương tiện thanh toán qua trung gian thanh toán cũng
được thể hiện dưới dạng giấy tờ, sổ sách của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, bắt đầu từ thập niên 1970s của thế kỷ XX, các phương tiện thanh
toán đã phát triển lên nhiều hình thái hiện đại hơn như dữ liệu điện tín, điện tử…,
trong đó, sự phát triển cao nhất hiện nay là việc các phương tiện thanh toán được
ghi nhận dưới dạng các tín hiệu rời rạc bằng công nghệ kỹ thuật số, điều này mang
lại ưu thế to lớn trong việc xử lý và truyền tải các dữ liệu đã được mã hóa.
Để ứng dụng kỹ thuật số vào việc hiện đại hóa các phương thức, phương tiện
thanh toán, cần có một nền tảng công nghệ phù hợp đóng vai trò là công cụ mã hóa,
xử lý và truyền tải các thông tin mà phương tiện thanh toán ghi nhận. Hiện nay, nền
tảng công nghệ này thường được cung cấp bởi các công ty công nghệ tài chính hoạt
động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán dưới dạng các phần mềm,
chương trình máy tính, ứng dụng di động được xây dựng dựa trên nền tảng (platform)
công nghệ kỹ thuật số.
Tóm lại, xét trong phạm vi hoạt động thanh toán, ta có thể định nghĩa:
Phương tiện kỹ thuật số là công cụ lưu thông của các phương tiện thanh toán, được
biểu hiện dưới dạng các phần mềm, chương trình máy tính, ứng dụng di động sử
dụng công nghệ kỹ thuật số nhằm mã hóa, xử lý và truyền tải các phương tiện thanh
toán dưới dạng tín hiệu rời rạc thông qua mạng Internet.
3

/>
-8-


Với ứng dụng của phương tiện kỹ thuật số, hoạt động thanh toán qua trung
gian thanh toán có nhiều bước phát triển vượt bậc. Theo nghĩa rộng, thanh toán qua
phương tiện kỹ thuật số là một loại hình thanh toán qua trung gian bằng cách sử
dụng các phương tiện kỹ thuật số làm công cụ để mã hóa và lưu thông các phương

tiện thanh toán thông qua nền tảng kỹ thuật số vàmạng Internet.
Tuy nhiên, không phải hình thức thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số nào
cũng được pháp luật thừa nhận. Từ lâu,việc thực hiện thanh toán qua trung gian đã
là một dịch vụ thuộc hoạt động ngân hàng. Trong hình thức thanh toán qua trung
gian cổ điển, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đóng vai trò là người trung
gian cung cấp các phương tiện thanh toán và thực hiện hoạt động thanh toán theo ủy
nhiệm của người chi trả, và cũng chỉ có các tổ chức này mới có thể đóng vai trò là
trung gian trong thanh toán. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động thanh
toán diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
cần có thêm sự hỗ trợ, đặc biệt là về công nghệ để đảm bảo hoạt động của mình
diễn ra hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Đứng trước nhu cầu đó,
các tổ chức không phải ngân hàng, điển hình là các công ty công nghệ với thế mạnh
của mình đã tham gia vào thị trường dịch vụ thanh toán nhằm cung cấp nền tảng
công nghệ hỗ trợ cho các dịch vụ thanh toán bằng các dịch vụ trung gian thanh toán,
theo quy định của pháp luật hiện nay, dịch vụ trung gian thanh toán bao gồm cung
ứng hạ tầng thanh toán điện tử và các dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán4. Như vậy,
chỉ khi một phương tiện kỹ thuật số là sản phẩm dịch vụ trung gian thanh toán mà
các công ty công nghệ cung cấp cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và các
bên trong quan hệ thanh toán nhằm hỗ trợ cho hoạt động thanh toán diễn ra thuận
lợi, nhanh chóng, hiện đại, đáp ứng nhu cầu của đời sống kinh tế thì việc thanh toán
qua phương tiện kỹ thuật số đó mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Lúc này,
thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là một hoạt động trong dịch vụ ngân hàng.

4

Thông tư số 39/2014/TT-NHNN Thông tư hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán, ngày 11 tháng 12
năm 2014, điều 2.

-9-



Từ những dấu hiệu nhận biết nêu trên, có thể xác định hoạt động thanh toán
qua phương tiện kỹ thuật số có một số đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là một hình thức thanh toán
qua trung gian.Tuy nhiên trung gian trong thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số
có nhiều điểm khác biệt với trung gian trong thanh toán qua trung gian thông
thường (truyền thống). Thanh toán qua trung gian thông thường là mối quan hệ giữa
ba bên, trong đó các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đóng vai trò trung gian
cung cấp các phương tiện thanh toán và kết nối giữa bên chi trả với bên thụ hưởng.
Trong khi đó, ở hoạt động thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số, có sự tham gia
của bên thứ tư là bên cung cấp phương tiện thanh toán kỹ thuật số. Do đó, đây là
mối quan hệ 4 bên gồm ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán,
bên chi trả và bên thụ hưởng. Phương tiện kỹ thuật số - yếu tố có tính chất quyết
định - được cung cấp bởi các tổ chức cung ứng dịch vụ kỹ thuật số (thường là các
công ty công nghệ tài chính). Một trường hợp đặc biệt là trường hợp thanh toán
bằng tiền mã hóa, bên chi trả và bên thụ hưởng sẽ giao dịch với nhau thông qua
phương tiện kỹ thuật số mà không có sự xuất hiện của ngân hàng, tính chất trung
gian ở đây chính là phương tiện thanh toán kỹ thuật số.
Như vậy, chính các công ty công nghệ tài chính (thường gọi là fintech) đóng
vai trò là người kết nối giữa các ngân hàng – bên cung ứng các phương tiện thanh
toán truyền thống với bên chi trả và bên thụ hưởng. Fintech là thuật ngữ ghép giữa
Tài chính (finace) và Công nghệ (technology) dùng để miêu tả một xu hướng kết
hợp công nghệ với các nhu cầu về dịch vụ tài chínhcác ngân hàng, công ty bảo
hiểm, tổ chức tài chính truyền thống, người tiêu dùng và các doanh nghiệp (DN)
thông thường.Các công ty Fintech hiện đang cung cấp các dịch vụ trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như công nghệ ngân hàng, thanh toán, quản lý tài chính, các loại tiền
kỹ thuật số… với các sản phẩm đa dạng như: Ví điện tử, công nghệ sổ cái phân tán
trên nền tảng blockchain, thương mại trực tuyến B2C, mPOS…5
5


Hà Văn Dương, Hà Phạm Diễm Trang, Nguyễn Hoàng Mỹ Lệ, “FINTECH: Hệ sinh thái ở các nước và vận
dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 1, 2018

- 10 -


Thứ hai, cũng như trong phương thức thanh toán qua trung gian truyền thống,
trong thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số không xuất hiện tiền mặt. Thanh toán
qua phương tiện kỹ thuật số là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt mà
thay vào đó là sự ghi nhậnnhững biến động tăng, giảm của tài khoản phương tiện
thanh toán dưới dạng dữ liệu điện tử; các dữ liệu điện tử này được mã hóa và xử lý
thông qua hệ thống kỹ thuật số.
Thứ ba, thanh toán quá phương tiện kỹ thuật số có thể thực hiện trên phạm vi
toàn cầu một cách nhanh chóng, dễ dàng, thậm chí ngay lập tức. Việc truyền tải dữ
liệu qua mạng Internet giúp cho thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số loại bỏ
được những giới hạn về địa lý và thời gian xử lý kỹ thuật nhanh hơn rất nhiều so với
các phương thức thanh toán qua trung gian truyền thống. Nhờ đó, bất kỳ ai, bất kỳ
lúc nào và ở bất kỳ đâu cũng có thể thực hiện việc thanh toán một cách dễ dàng,
nhanh chóng với mức chi phí thấp hơn rất nhiều.
Thứ tư, thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số đòi hỏi sự phát triển cao về
nền tảng công nghệ và cơ sở hạ tầng. Việc thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số
được phát triển dựa trên nền tảng công nghệ, và được thực hiện qua các thiết bị điện
tử có kết nối Internet. Một mặt, điều này mang tới sự tiện lợi, nhưng mặt khác, nó
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro về bảo mật thông tin, bởi vậy, hoạt động này chỉ có thể
được triển khai khi cơ sở hạ tầng, công nghệ phát triển đến một mức độ nhất định
đủ để đảm bảo dữ liệu được mã hóa, xử lý, dẫn truyền một cách thông suốt và có cơ
chế để chống lại các hành vi đánh cắp dữ liệu. Có thể thấy, khi công nghệ càng phát
triển thì hoạt động này sẽ càng phổ biến, tiện lợi và an toàn, bảo mật hơn. Cơ sở hạ
tầng công nghệ càng đồng bộ, có nền tảng truyền dẫn tốt là một trong những điều
kiện không thể thiếu để phát triển hoạt động thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số.

Thứ năm, sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là bước
ngoặt đối với sự phát triển của thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số. Một trong
những yếu tố của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là tập hợp dữ liệu lớn (Big

- 11 -


data) và kết nối Internet vạn vật (Internet of Things). Khi đó, các thiết bị điện tử và
chương trình máy tính sẽ được kết nối với nhau thành một mạng lưới và trong mạng
lưới đó, các dữ liệu sẽ được ghi lại thành một tập hợp thống nhất, có khả năng kiểm
soát và truy xuất nguồn gốc các giao dịch một cách nhanh chóng. Nhờ đó, người
dùng có thể truy cập tài khoản của mình và thực hiện thanh toán mọi lúc, mọi nơi
chỉ với một thiết bị điện tử cầm tay (ví dụ hiện nay điện thoại di động và các ứng
dụng hoạt động trên các hệ điều hành của điện thoại có khả năng kết nối internet).
Điều này tạo nên một sự khác biệt rất lớn về tính tiện lợi trong thực hiện thanh toán
cũng như sự khoa học trong quản lý dữ liệu tài chính của mỗi cá nhân, tổ chức trong
xã hội, nhưng điều đó cũng đòi hỏi một khung pháp lý đủ mạnh và dự liệu được
những rủi ro có thể xảy ra đối với các bên tham gia thanh toán.
1.1.2. Phân loại hoạt động thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số
Có nhiều tiêu chí để phân loại hoạt động thanh toán thông qua phương tiện kỹ
thuật số. Tuy nhiên, trong luận văn này, người viết chỉ nêu hai tiêu chí phân loại
phổ biến và quan trọng nhất, đó là tiêu chí hình thức của phương tiện kỹ thuật số và
tiêu chí tính chất của hoạt động thanh toán.
Nếu dựa trên hình thức của phương tiện kỹ thuật số, ta có thể chia thanh
toán qua phương tiện kỹ thuật số thành ba loại: thanh toán qua cổng thanh toán trực
tuyến, thanh toán qua tài khoản thanh toán trực tuyến và thanh toán bằng tiền mã
hóa.
- Thanh toán qua cổng thanh toán trực tuyến
Cổng thanh toán trực tuyến là hệ thống phần mềm kết nối giữa người bán,
người mua và ngân hàng, với mục đích hỗ trợ, thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ cho

khách hàng trong các giao dịch thanh toán. Theo định nghĩa tại Thông tư số
39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán, tại Điều 3, khoản
3 thì: “Dịch vụ cổng thanh toán điện tử là dịch vụ cung ứng hạ tầng kỹ thuật để thực
hiện việc kết nối giữa các đơn vị chấp nhận thanh toán và ngân hàng nhằm hỗ trợ
khách hàng thực hiện thanh toán trong giao dịch thương mại điện tử, thanh toán hóa

- 12 -


đơn điện tử và các dịch vụ thanh toán điện tử khác”.
Ban đầu, cổng thanh toán điện tử được tích hợp trên các website thương mại
điện tử nhằm cho phép các thương nhân trên những website này có thể kết nối được
với các kênh thanh toán của ngân hàng, nhằm giúp khách hàng thực hiện các giao
dịch thuận tiện, dễ dàng hơn thông qua tài khoản tín dụng, thẻ tín dụng; nói cách
khác, cổng thanh toán điện tử tương đương với một điểm bán hàng POS (Poin Of
Sales) trên nền tảng Internet. Nhờ đó, khách hàng có thể thanh toán trực tuyến ngay
khi giao dịch chứ không phải đến ngân hàng để chuyển tiền hay nộp tiền mặt, thay
vào đó chỉ cần xác nhận thanh toán là hoàn tất.
Khi điện thoại thông minh ngày càng phổ biến, cổng thanh toán trực tuyến còn
được thể hiện dưới dạng khác là các ứng dụng thanh toán trên điện thoại nên việc
thanh toán qua cổng thanh toán trực tuyến càng thuận tiện và tiết kiệm thời gian hơn.
Đặc biệt, với sự ứng dụng mã QR – dạng mã vạch hai chiều vào công nghệ thanh
toán, cổng thanh toán trực tuyến không còn chỉ giới hạn hỗ trợ thanh toán khi mua
hàng trực tuyến nữa mà còn được ứng dụng khi mua bán trực tiếp. Khách hàng chỉ
cần dụng điện thoại quét mã QR, khi đó, ứng dụng sẽ đọc và hiển thị các thông tin
đã được mã hóa theo quy định và việc xác nhận thanh toán hoàn tất, rất đơn giản và
thuận tiện. Một số cổng thanh toán phổ biến trên thế giới và Việt Nam có thể kể đến
như: Paypal, Payoo, Ngân lượng, VNPAY QR v.v..
- Thanh toán qua tài khoản thanh toán trực tuyến:
Tải khoản thanh toán trực tuyến là một loại tài khoản cá nhân được kết nối với

tài khoản ngân hàng của khách hàng, qua đó giúp khách hàng có thể sử dụng tiền
trong tài khoản ngân hàng của mình thực hiện việc thanh toán trực tuyến mà không
cần trực tiếp đến ngân hàng.
Có hai dạng tài khoản thanh toán trực tuyến do ngân hàng cung cấp và tài
khoản thanh toán trực tuyến do các công ty Fintech cung cấp.
Dạng thứ nhất là tài khoản thanh toán trực tuyến được cung cấp bởi ngân hàng.
Đây là một trong các dịch vụ của ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ internet

- 13 -


nhằm giúp khách hàng thực hiện các thao tác giao dịch ngân hàng mà không cần
trực tiếp đến quầy giao dịch hoặc các điểm ATM. Hiện nay, đa phần các ngân hàng
đều có dịch vụ Internet Banking có thể hoạt động trên máy tính cá nhân hoặc điện
thoại thông minh. Nhờ có Internet Banking mà khách hàng có thể chuyển khoản;
thanh toán các loại hóa đơn điện, nước, viễn thông; mua vé máy bay; nạp ví điện tử;
thanh toán trên các website thương mại điện tử bằng thẻ tín dụng… hoặc sử dụng
các công cụ thanh toán khác của ngân hàng dưới hình thức trực tuyến thông qua
mạng Internet mà không cần thực hiện các giao dịch trực tiếp với ngân hàng.
Dạng thứ hai là tài khoản thanh toán trực tuyến được cung cấp bởi các tổ chức
cung ứng dịch vụ công nghệ thanh toán – thường là các công ty công nghệ tài chính
(Fintech) có liên kết với một hoặc nhiều ngân hàng. Loại tài khoản thanh toán trực
tuyến này có nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ như ví điện tử hoặc ngân hàng số.
Khách hàng có thể nạp tiền từ tài khoản ngân hàng của mình vào ví điện tử hoặc tài
khoản tại ngân hàng số, sau đó dùng tiền trong ví hoặc tài khoản này để thanh toán
cho các hàng hóa, dịch vụ mà mình mua bán, sử dụng. So với sử dụng tài khoản
thanh toán trực tuyến do ngân hàng cung cấp thì sử dụng ví điện tử hoặc ngân hàng
số thuận tiện hơn rất nhiều bởi dạng giao dịch cũng như số lượng người bán mà nó
có thể thực hiện thanh toán mở rộng hơn rất nhiều. Một số ví điện tử, ngân hàng số
phổ biến ở Việt Nam có thể kể đến như VTC Pay, ZaloPay, MoMo, Timo… Đặc

trưng chủ yếu của loại thanh toán tài khoản trực tuyến này là có sự tách bạch giữa
tài khoản của ngân hàng với tài khoản tại các công ty cung cấp phương tiện thanh
toán trực tuyến.
- Thanh toán thông qua tiền mã hóa (crypto currency)
Tiền mã hóa hay tiền kỹ thuật số là khái niệm mới có trong khoảng thời gian
10 năm trở lại đây. Tiền mã hóa có phải là tiền hay không thì hiện nay về mặt lý
luận cũng như thực tiễn còn nhiều quan điểm khác nhau. Xét dưới góc độ công nghệ,
tiền mã hóa là phương thức hình thành và trao đổi thông qua sử dụng mật mã (các
đoạn mã, thường gọi là token) để đảm bảo an toàn giao dịch và kiểm soát các đơn vị

- 14 -


tiền mới được tạo ra. Tiền mã hóa được tạo nên bằng cách sử dụng một chuỗi mã
được đóng gói (công nghệ Blockchain - chuỗi khối) thành phương thức lưu trữ các
hồ sơ giao dịch và giá trị tiền mã hóa.
Mặc dù có nhiều nơi trên thế giới đã chấp nhận việc thanh toán, giao dịch
bằng tiền mã hóa thay thế cho các loại tiền truyền thống do ngân hàng trung ương
phát hành, ngay cả tại những quốc gia và vùng lãnh thổ có hệ thống chính trị và
ngân hàng rất an toàn, nhưng trên thực tế, tiền mã hóa vẫn là một sự vật hiện tượng
mới mẻ, gây nhiều tranh cãi và không được thừa nhận ở phần lớn các quốc gia như
một loại tiền tệ chính thức (legal money) với chức năng là phương tiện thanh toán.
Các đồng tiền mã hóa cũng là một kênh đầu tư thu hút nhiều sự chú ý trong thời
gian gần đây.
Theo quan điểm nhiều quốc gia, tiền mã hóa có thể xem là một loại tài sản có
sử dụng trong giao dịch trao đổi, thậm chí là cả giao dịch thanh toán với tư cách là
một vật trung gian trao đổi trong các giao dịch với những người chấp nhận giá trị
của nó, nhưng rất ít quốc gia thừa nhận tiền mã hóalà một phương tiện thanh toán
với tư cách là tiền tệ. Pháp luật tài chính – ngân hàng cũng gần như chưa có các quy
định cụ thể điều chỉnh về tiền mã hóa. Ngày 27/02/2014, Ngân hàng nhà nước đã có

thông cáo báo chí về Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác, trong đó khẳng định
Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác không phải là tiền tệ và không phải là
phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Do vậy, việc sử dụng Bitcoin và các
loại tiền mã hóa làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo
vệ6.
Dù vậy, với việc ngày càng có nhiều người chấp nhận giá trị của tiền mã hóa
trong các giao dịch như một công cụ thanh toán phi chính thức, đồng thời cùng với
sự phát triển không ngừng của công nghệ và việc thế giới ngày càng trở nên phẳng
hơn, tiền mã hóa có thể được xác định là một phương thức thanh toán qua phương
tiện kỹ thuật số trong tương lai.
6

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), “Thông cáo báo chí về bitcoin và các loại tiền ảo tương tự
khác”, đăng trên Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngày 27/2/2014

- 15 -


Dựa trên tính chất của hoạt động thanh toán, có thể chia thanh toán qua
phương tiện kỹ thuật số thành hai loại là dịch vụ ngân hàng và không phải là dịch
vụ ngân hàng.
- Thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là dịch vụ ngân hàng khi các
phương tiện kỹ thuật số được cung cấp bởi các công ty công nghệ tài chính được
cấp phép hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ trung gian thanh toán. Các phương tiện
này sẽ đóng vai trò là công cụ trung gian cho các phương tiện thanh toán mà ngân
hàng chấp nhận. Đây sẽ là mối quan hệ giữa nhiều bên gồm ngân hàng, các tổ chức
cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, bên chi trả và bên thụ hưởng.
Là dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò cung cấp phương tiện
thanh toán và là người đảm bảo giá trị cho giao dịch thanh toán bằng tài khoản của
khách hàng mở tại ngân hàng. Trong trường hợp này, thanh toán qua phương tiện

kỹ thuật số không có sự xuất hiện của tiền mặt mà chỉ là một chuỗi dữ liệu được mã
hóa nhằm ghi nhận lượng tiền của các bên trong giao dịch có biến động tăng lên
hoặc giảm đi. Bởi vậy, cần có sự tham gia của các ngân hàng nhằm chuyển đổi tiền
mặt của các chủ thể trong giao dịch trở thành bút tệ; đồng thời, ngân hàng sẽ đảm
bảo lượng tiền biến động của khách hàng – các chủ tài khoản được ghi nhận bằng
chuỗi dữ liệu kia có thể chuyển đổi thành tiền mặt bất kỳ lúc nào. Các tổ chức cung
ứng dịch vụ trung gian thanh toán đóng vai trò cung cấp phương tiện kỹ thuật số
làm công cụ lưu thông cho các phương tiện thanh toán, kết nối ngân hàng và các
bên trong giao dịch, giúp cho việc thanh toán diễn ra dễ dàng, thuận lợi. Thực tế
hiện nay, thanh toán qua các tài khoản thanh toán trực tuyến và cổng thanh toán trực
tuyến là các loại hình thanh toán có tính chất là dịch vụ ngân hàng
- Thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là không phải dịch vụ ngân hàng khi
các bên giao dịch bằng các công cụ kỹ thuật số không thông qua ngân hàng như tiền
mã hóa hoặc các phương tiện mã hóa kháckhông được pháp luật công nhận là
phương tiện thanh toán. Trong phương thức này, vai trò trung gian của ngân hàng bị
loại bỏ, thay vào đó, các bên trong giao dịch trực tiếp thanh toán bằng tiền mã hóa

- 16 -


dựa trên hệ thống điều hành của bên thứ ba cung cấp, thậm chí không có bên thứ ba
nào chịu trách nhiệm đối với hệ thống thanh toán (ví dụ trường hợp của Bitcoin).
Lúc này, việc mã hóa dữ liệu và ghi nhận sự biến động lượng tiền của người
dùng được thực hiện bởi một “sổ cái” (Blockchain) và các công nghệ mã hóa khác.
“Sổ cái” này đóng vai trò trung gian trong thanh toán, và được chia sẻ, bổ sung dữ
liệu bởi tất cả người dùng mà không có một tổ chức cụ thể nào đứng ra quản lý. Tại
Việt Nam, hoạt động này không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
1.2. Sự cần thiết và nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với thanh toán qua
phƣơng tiện kỹ thuật số
1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thanh toán qua

phương tiện kỹ thuật số
Thanh toán không dùng tiền mặt sẽ dần thay thế việc thanh toán bằng tiền mặt
và cùng với sự phát triển của công nghệ, thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là
xu thế của tương lai. Với những lợi ích to lớn và những rủi ro của hoạt động này,
việc hoàn thiện cơ sở pháp luật điều chỉnh hoạt động này là yêu cầu tất yếu để giảm
thiểu rủi ro, tăng tính hiệu quả và đảm bảo sự phát triển chiến lược, lâu dài của nền
kinh tế nói chung và thương mại điện tử nói riêng.
Cùng với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và sự phát
triển ngày càng mạnh mẽ của thương mại điện tử, thanh toán qua phương tiện kỹ
thuật số đã và đang dần trở thành một xu thế tất yếu và sẽ ngày càng đóng một vai
trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội. Chúng ta có thể xem xét vai trò của
việc thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số dưới ba góc độ: đối với người sử dụng
dịch vụ, đối với bên cung ứng dịch vụ thanh toán (ngân hàng và các tổ chức trung
gian), và đối với nhà nước.
-

Đối với người sử dụng dịch vụ

Người sử dụng các dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số bao gồm
bên chi trả và bên thụ hưởng trong quan hệ thanh toán, đó có thể là cá nhân hoặc tổ

- 17 -


chức tham gia vào các hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế, vì
nhu cầu sử dụng hoặc mục đích kinh doanh thương mại. Với đối tượng này, việc
thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số mang lại lợi ích trực tiếp đầu tiên là sự thuận
tiện trong thanh toán mọi lúc, mọi nơi, nhất là khi giao dịch nhiều, khối lượng tiền
lớn, đối tác xa. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp khi toàn cầu
hóa trong thương mại là một xu hướng tất yếu và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

Việc sử dụng các dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số sẽ giúp các doanh
nghiệp có được sự thuận lợi lớn khi giao dịch với các đối tác ở khắp nơi trên thế
giới dù có sự cách biệt về múi giờ và địa lý – một điều trước đây vốn rất khó khăn
và tốn nhiều thời gian, chi phí. Khi quy mô doanh nghiệp càng phát triển, nhất là
với những doanh nghiệp tham gia vào hoạt động thương mại điện tử và có định
hướng toàn cầu hóa thì sự thuận tiện này lại đóng vai trò càng lớn và rõ rệt hơn. Với
những khách hàng là không phải là chủ thể kinh doanh, mặc dù khối lượng giao
dịch không nhiều nhưng việc sử dụng các dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ
thuật số cũng khiến cho các giao dịch dễ dàng, thuận tiện hơn so với việc sử dụng
các phương tiện thanh toán truyền thống, đặc biệt là với những người sống ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo vốn khó tiếp cận trực tiếp với các dịch vụ ngân
hàng.
Như vậy, việc pháp luật có những quy định điều chỉnh về các phương tiện và
phương thức thanh toán kỹ thuật số, cũng như việc vận hành và quản lý hệ thống
thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số sẽ tạo môi trường và hành lang pháp lý để
hoạt động này diễn ra một cách trật tự và có hiệu quả. Đồng thời, những quy định
cụ thể, rõ ràng cũng sẽ giúp người sử dụng dịch vụ yên tâm, dễ dàng tiếp cận và tận
dụng những lợi ích đến từ sự thuận tiện của loại hình thanh toán còn khá mới mẻ
này.
Lợi ích thứ hai của thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là giúp tiết kiệm
thời gian, chi phí giao dịch, đồng thời rất thuận lợi để quản lý thông tin về giao dịch,
tài chính một cách chính xác, khoa học. Một trong những nền tảng cho sự phát triển
của thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là việc kết nối Internet vạn vật, qua đó,

- 18 -


khi thực hiện thanh toán, các thông tin, dữ liệu về giao dịch đều sẽ được lưu trữ một
cách chính xác, đầy đủ, minh bạch, và người sử dụng dịch vụ thanh toán có thể truy
cập mọi lúc, mọi nơi; nhờ đó, người sử dụng dịch vụ thanh toán có thể quản lý các

hoạt động tài chính của mình một cách khoa học và dễ dàng, nhất là với các doanh
nghiệp thì điều này lại càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, việc dữ liệu về tài
chính của rất nhiều chủ thể được ghi nhận và lưu trữ với số lượng ngày càng nhiều,
sẽ đặt ra vấn đề về quản lý đối với hệ thống dữ liệu này như thế nào để đảm bảo
phát huy lợi ích cũng như an toàn thông tin đối với các chủ thể. Việc pháp luật đưa
ra những quy định điều chỉnh đối với hệ thống dữ liệu trong thanh toán qua phương
tiện kỹ thuật số là rất cần thiết nhằm đảm bảo an toàn và phát huy lợi ích của loại
hình thanh toán này. Nhờ đó những dữ liệu này sẽ được quản lý một cách đầy
đủ,thống nhất, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng có thể tiếp cận
thông tin và đưa ra những nhận định chính xác hơn về tình hình tài chính của một cá
nhân, tổ chức trước khi quyết định đầu tư hoặc cấp tín dụng, điều này rất có lợi cho
việc thúc đẩy nền kinh tế.
Có thể thấy, thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số không chỉ giúp giảm chi
phí, thời gian trong thực hiện giao dịch mà còn nâng cao hiệu quả trong quản lý
thông tin về tài chính, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi quy mô
nền kinh tế ngày càng lớn, số lượng, khối lượng giao dịch ngày càng nhiều thì lợi
ích này của việc thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số sẽ càng được thể hiện rõ
ràng, đồng thời, yêu cầu phải có những quy định pháp luật đối với vấn đề quản lý
thông tin trong hoạt động này càng trở nên bức thiết.
Một lợi ích khác của thanh toán qua phương tiện kỹ thật số cần nói đến là so
với thanh toán bằng các phương thức truyền thống, thanh toán qua phương tiện kỹ
thuật số có độ an toàn cao, tránh được các rủi ro liên quan đến tiền giả, cướp giật,
trộm cắp trong quá trình thực hiện giao dịch.
Với những lợi ích nêu trên, có thể thấy, khi nền kinh tế ngày càng phát triển,
lượng giao dịch ngày càng nhiều, các giao dịch cũng mở rộng phạm vi trên toàn thế

- 19 -


giới, thì vai trò của thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số đối với các chủ thể trong

nền kinh tế sẽ càng quan trọng. Đặc biệt, nếu muốn phát triển nền thương mại điện
tử thì việc phát triển dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số sẽ là một trong
những yêu cầu căn bản. Có một hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng là điều kiện tiên
quyết để phát triển dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số và phát huy
những lợi ích to lớn của nó.
-

Đối với bên cung ứng dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số:
Bên cung ứng dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là các tổ chức

cung ứng phương tiện, cơ sở hạ tầng, nền tảng công nghệ để việc thanh toán được
thực hiện. Phần lớn các phương thức thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số hiện
nay được cung cấp bởi một công ty công nghệ tài chính (các công ty Fintech) liên
kết với một hoặc nhiều ngân hàng.
Đối với các ngân hàng, lợi ích quan trọng nhất của việc các chủ thể trong
nền kinh tế tăng cường sử dụng phương thức thanh toán qua phương tiện kỹ thuật
số là làm tăng lượng tiền gửi vào ngân hàng, từ đó, ngân hàng có thể sử dụng
lượng tiền này nhằm phục vụ các hoạt động đầu tư kinh doanh của mình, cũng như
tăng tốc độ quay vốn của tiền tệ. Việc thanh toán qua phương tiện kỹ thật số còn
giúp các ngân hàng có thể nắm bắt chính xác hơn tình hình, năng lực tài chính của
khách hàng, từ đó đưa ra những quyết định đầu tư, cấp tín dụng hiệu quả hơn.
Ngoài ra, với sự thuận tiện, tiết kiệm, ngày càng dễ tiếp cận, việc mở rộng các
phương thức thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số đã và đang giúp ngân hàng
thu hút thêm được một số lượng lớn các khách hàng. Có thể thấy, đẩy mạnh việc
thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số sẽ góp phần tăng tính hiệu quả và đảm bảo
an toàn trong hoạt động của các ngân hàng.
Đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán – người trung
gian cung cấp nền tảng công nghệ, ứng dụng, qua đó kết nối ngân hàng và người sử
dụng dịch vụ thanh toán, bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nói
chung cũng như sự phát triển mạnh mẽ, tất yếu của thanh toán qua phương tiện kỹ


- 20 -


thuật số nói riêng đã tạo ra một thị trường kinh doanh mới mẻ nhưng cũng đầy tiềm
năng và cơ hội.
Dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là một hoạt động kinh doanh
đầy tiềm năng và sẽ còn phát triển mạnh trong tương lại, đóng vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế, bởi vậy, pháp luật cần có những quy định điều chỉnh để tạo
hành lang pháp lý cho ngân hàng và các tổ chức có liên quan triển khai hoạt động
này một cách hiệu quả và trật tự. Nhờ đó, vừa có thể đảm bảo quyền tự do kinh
doanh của phía cung ứng dịch vụ, vừa có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
cho khách hàng sử dụng loại hình dịch vụ này.
-

Đối với nhà nước
Thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số góp phần nâng cao hiệu quả quản lý

tiền tệ và hoạt động dịch vụ thanh toán của nhà nước. Phổ biến và đẩy mạnh việc
thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số sẽ khiến cho thông tin về các giao dịch đều
được ghi lại một cách rõ ràng, chính xác. Sự minh bạch này một mặt sẽ giúp nhà
nước nắm bắt và quản lý được sự vận động của nền kinh tế, giảm thiểu các hành vi
gian lận, trốn thuế của cá nhân, tổ chức khi mọi giao dịch, chi phí, doanh thu đều
được ghi lại rõ ràng; mặt khác, nó còn giúp nhà nước hạn chế và kiểm soát sự phát
triển của nền kinh tế ngầm, hạn chế cách hành vi buôn lậu, lừa đảo, tham nhũng và
nhiều vi phạm khác. Ngoài ra, đẩy mạnh thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số còn
làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí in ấn, thu hồi, thay thế tiền
hư hỏng, từ đó giúp tiết kiệm ngân sách và tăng hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Bởi vậy, nhà nước cần đưa ra những chính sách và những quy định pháp luật
cụ thể nhằm khuyến khích và đẩy mạnh hoạt động thanh toán qua phương tiện kỹ

thuật số, đồng thời có những điều chỉnh phù hợp, thống nhất với quy định pháp luật
trong các lĩnh vực có liên quan nhằm nâng cao hiệu quả của thanh toán qua phương
tiện kỹ thuật số trong vai trò là một công cụ quản lý nhà nước.
Bên cạnh những lợi ích mà thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số mang lại,
nó cũng tồn tại rất nhiều rủi ro đối với các chủ thể tham gia, đặc biệt là với người sử

- 21 -


dụng dịch vụ. Trong đó, vấn đề lớn nhất luôn được quan tâm chính là về bảo mật
thông tin và an toàn giao dịch.
Rủi ro thứ nhất là rủi ro về công nghệ thông tin. Với việc các thông tin cá
nhân và thông tin tài khoản được mã hóa thành dữ liệu số và lưu truyền qua mạng
Internet, hoạt động thanh toán điện tử luôn phải đối mặt với nguy cơ thiếu bảo mật
thông tin cá nhân và hành vi cố ý đánh cắp thông tin vì mục đích bất chính của các
tin tặc. Vấn đề bảo mật có thể đến từ lỗ hổng bảo mật của các website, ứng dụng
thanh toán điện tử hoặc từ chính sự chủ quan của người dùng. Hệ thống thanh toán
qua phương tiện kỹ thuật số phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của công nghệ, tại
Việt Nam, hệ thống này vẫn còn khá mới mẻ và đang trong quá trình hoàn thiện, bởi
vậy, những lỗ hổng bảo mật là không thể tránh khỏi; thêm vào đó, các tội phạm
công nghệ cao cũng không ngừng nâng cao công nghệ và biến đổi thủ đoạn của
mình nhằm mục đích đánh cắp thông tin. Bên cạnh lỗ hổng của hệ thống, sự chủ
quan của người dùng cũng là một nguyên nhân dẫn đến thiếu an toàn về bảo mật,
đặc biệt là ý thức về bảo mật thông tin của người dân Việt Nam còn chưa cao, rất dễ
vô tình làm lộ thông tin tài khoản, mật khẩu… của mình, hoặc khi đổi thiết bị lại
không đăng xuất tài khoản khiến cho kẻ xấu có cơ hội sử dụng tài khoản.
Rủi ro về bảo mật thông tin có thể dẫn đến những rắc rối và thiệt hại cho
khách hàng khi thông tin đó bị sử dụng cho những mục đích không chính đáng,
hoặc nguy hiểm hơn, kẻ xấu có thể lợi dụng những thông tin đó cho hành vi phạm
pháp như lừa đảo, chiếm đoạt tài sản…Đối với việc thanh toán bằng tiền kỹ thuật số,

vấn đề bảo mật càng đáng lo ngại bởi đây là một công nghệ mới, chưa được kiểm
chứng và đa phần mọi người còn thiếu hiểu biết về nó, bên cạnh đó, bản chất của
Blockchain – công nghệ nền tảng của tiền mã hóa là phi tập trung và được chia sẻ
với tất cả người dùng nên việc thiếu tính riêng tư và nguy cơ bảo mật là tất yếu.
Có thể thấy, để hoạt động thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số thực sự
phát triển một cách lành mạnh, cần có sự can thiệp và điều chỉnh từ pháp luật, đặc
biệt là về vấn đề an toàn bảo mật thông tin. Sự điều chỉnh của pháp luật không chỉ

- 22 -


đưa ra những nguyên tắc, yêu cầu chung trong vấn đề bảo mật thông tin và an toàn
trong thanh toán mà còn đưa ra những chế tài để răn đe các hành vi cố tình vi phạm,
đồng thời tạo cơ chế để các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán qua phương tiện
kỹ thuật số có thể chủ động tự bảo vệ mình, từ đó, giúp cho hoạt động này diễn ra
một cách an toàn.
Rủi ro thứ hai của thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là rủi ro về mặt
pháp lý. Mặc dù pháp luật Việt Nam đã có quy định về hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt từ khá sớm – tạo nên một hành lang pháp lý đáp ứng nhất định cho
hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thanh toán qua phương tiện
kỹ thuật số nói riêng, nhưng so với thanh toán không dùng tiền mặt thì thanh toán
qua phương tiện kỹ thuật số vẫn có những đặc thù riêng bởi sự vượt trội về công
nghệ, nhất là khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ, ngày càng xuất hiện
nhiều công ty công nghệ tài chính, hoạt động thanh toán có nhiều thay đổi mạnh mẽ
và tội phạm công nghệ cao ngày càng tinh vi, thì hệ thống quy định về thanh toán
hiện nay thể hiện khá nhiều lúng túng. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
đã có nhiều nghiên cứu và khuyến cáo định hướng cho hoạt động này, nhưng vẫn
chưa có những quy định cụ thể, nên trong trường hợp xảy ra tranh chấp, gian lận,
vẫn rất khó để người dùng có thể bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của mình. Bởi vậy,
pháp luật cần nhanh chóng đưa ra các quy định điều chỉnh, bổ sung những thiếu sót

này.
Rủi ro thứ ba là những rủi ro đến từ nhầm lẫn, sai sót trong hệ thống quản lý
do cẩu thả hoặc cố ý vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Những sai sót, nhầm lẫn này có
thể đến từ việc hệ thống chưa hoàn thiện, nhầm lẫn trong thao tác, hoặc các hành vi
cố tình gian lận nhằm trục lợi của các cá nhân, tổ chức có quyền quản trị hệ thống.
Trong thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số, các thông tin cũng như tài sản của
chủ tài khoản đều được mã hóa dưới dạng dữ liệu số, bởi vậy, những sự sai sót do
vô tình hoặc cố ý đều sẽ gây ra thiệt hại về lợi ích vật chất của chủ tài khoản. Bên
cạnh đó, hệ thống thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là một hệ thống thống
nhất và liên kết, việc tội phạm tấn công vào hệ thống có thể không chỉ gây ra thiệt

- 23 -


hại tài sản mà còn dẫn đến tê liệt toàn hệ thống và gây ra những hậu quả nghiêm
trọng. Để hạn chế những vấn đề trên, cần có những điều chỉnh cụ thể của pháp luật,
trong đó đặt ra các tiêu chuẩn chung đối với hệ thống và các yêu cầu đối với trình
độ công nghệ được sử dụng nhằm bảo vệ hệ thống thanh toán và hạn chế sai sót.
Bên cạnh những rủi ro chung nói trên, trong lĩnh vựcviệc thanh toán bằng
tiền mã hóa còn tiềm ẩn những rủi ro riêng, trong đó, rủi ro lớn nhất là không tồn tại
quyền quản lý tập trung và không có một tổ chức trung gian giống ngân hàng đứng
ra để đảm bảo cho các giao dịch, bởi vậy, khi người dùng bị tấn công, gặp rắc rối
hoặc xảy ra tranh chấp, gần như không thể tìm ra người phải chịu trách nhiệm cho
những thiệt hại đó, quyền lợi hợp pháp của người dùng rất dễ bị xâm phạm mà
không có khả năng chủ động tự bảo vệ; bên cạnh đó tính vô danh và phi tập trung
trong quản lý dữ liệu của tiền mã hóa cũng có thể trở thành kẽ hở để tội phạm lợi
dụng với mục đích rửa tiền, tham nhũng, buôn lậu…
Có thể thấy, mặc dù thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số là một hoạt động
mang lại nhiều lợi ích, nhưng nó vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bởi vậy, cần có sự
điều chỉnh, can thiệp của pháp luật nhằm hạn chế, phòng ngừa các nguy cơ rủi ro;

phân định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên, từ đó đảm bảo
an toàn, tự do, bình đẳng trong thanh toán; đồng thời có chế tài trừng phạt thích
đáng đối với những kẻ cố tình vi phạm pháp luật và xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể khác. Có như vậy, hoạt động thanh toán qua phương tiện
kỹ thuật số mới có thể phát triển mạnh mẽ và đảm bảo an toàn, ổn định.
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thanh toán qua phương
tiện kỹ thuật số
Pháp luật là nguyên tắc xử sự chung mà các chủ thể trong xã hội phải tuân thủ.
Pháp luật không chỉ phản ảnh ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội mà còn đảm
bảo phù hợp với sự phát triển của xã hội, có tác động tích cực đến sự phát triển của
xã hội. Trong lĩnh vực thanh toán thông qua phương tiện kỹ thuật số, một lĩnh vực

- 24 -


công nghệ - tài chính mới mẻ, pháp luật nên có vai trò như “bà đỡ” khuyến khích sự
phát triển lành mạnh của lĩnh vực này trong đời sống xã hội.
Với cách tiếp cận đó, pháp luật đối với hoạt động thanh toán qua phương tiện
kỹ thuật số cần đảm bảo những nguyên tắc như sau:
Thứ nhất, pháp luật cần điều chỉnh nhằm đảm bảo tự do trong hoạt động
thanh toán của các chủ thể trong xã hội.
Hoạt động thanh toán nói chung và thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số
nói riêng là một hình thức chuyển giao quyền sở hữu tài sản, đảm bảo cân bằng
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong một giao dịch kinh tế, đây là hoạt động gắn
liền đến lợi ích vật chất của các bên tham gia. Dưới góc độ của ngân hàng và các tổ
chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, thanh toán qua phương tiện kỹ thuật
số là một loại hình dịch vụ mà họ cung cấp cho khách hàng – là một hoạt động kinh
doanh, bởi vậy, khi điều chỉnh hoạt động này, pháp luật cần phải đảm bảo tính tự do
trong kinh doanh và sử dụng dịch vụ của các chủ thể.
Đối với bên cung ứng dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ thuật số, tính tự

do thể hiện ở họ có thể lựa chọn hình thức, cách thức cung ứng dịch vụ sao cho có
lợi nhất mà không trái với quy định của pháp luật, tự do lựa chọn đối tác, tự do cạnh
tranh lành mạnh. Đối với người sử dụng dịch vụ thanh toán qua phương tiện kỹ
thuật số, tính tự do thể hiện ở việc họ có thể tự do lựa chọn phương thức thanh toán,
lựa chọn tổ chức cung ứng dịch vụ, tự do sử dụng tài khoản của mình để kinh doanh,
mua bán không trái với quy định của pháp luật.
Ở góc độ khác, nguyên tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tự do giao dịch
cònở chỗ, cùng với sự phát triển của công nghệ và mạng internet, các hình thức
thanh toán mới dựa trên nền tảng công nghệ sẽ ra đời và cần được sự công nhận,
cho phép của pháp luật để phát triển, tránh tình trạng “không quản được thì cấm” từ
phía các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ hai, pháp luật đảm bảo an toàn trong thanh toán, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân và của nhà nước.

- 25 -


×