Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.69 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TRUNG TÍN

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Phương


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ đạo nhiệt
tình và quý báu của PGS. TS. Nguyễn Trung Tín và tập thể các giảng viên Khoa sau
Đại học - Trường Đại học Mở Hà Nội.
Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Mở
Hà Nội, Khoa Luật, Phòng Đào tạo và Khoa sau Đại học của nhà trường cùng các
giảng viên, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong quá trình học tập.
Do thời gian có hạn, luận văn của tôi sẽ còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong
nhận được sự đóng góp của các Thầy/cô và quý độc giả.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Phương



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT CÁC VỤ ÁN KINH
DOANH THƯƠNG MẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ..........8
1.1. Khái niệm, đặc điểm về tranh chấp kinh doanh thương mại ...............................8
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại .............................................8
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại ............................................8
1.2. Khái niệm, đối tượng và phạm vi kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh
doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ...........................................11
1.2.1. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................................................................11
1.2.2. Đối tượng kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................................................................15
1.2.3. Phạm vi kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................................................................16
1.3. Phương thức kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................................................................18
1.3.1. Quyền yêu cầu .................................................................................................20
1.3.2. Quyền kiến nghị...............................................................................................20
1.3.3. Quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ...............................21
1.3.4. Tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm .................................................21
1.3.5. Quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ ..................................................21
1.4. Nội dung quy định pháp luật về kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh
doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ...........................................22


1.4.1. Công tác thụ lý và giải quyết đơn, thông báo đề nghị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật..............................................................................................................22
1.4.2. Tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm .................................................26

1.5. Vai trò của kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................................................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP, KIẾN
NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM
SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO .................................................33
2.1. Khái quát tình hình tranh chấp kinh doanh thương mại và cơ cấu tổ chức,
bộ máy và cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao .......................................................33
2.1.1. Tình hình tranh chấp kinh doanh thương mại ................................................33
2.1.2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy và cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết các
vụ án kinh doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao .........................34
2.2. Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương
mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ....................................................................36
2.2.1. Kết quả kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại heo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ......................36
2.2.2. Hạn chế, tồn tại ...............................................................................................40
2.2.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ...................................................................42
2.3. Phương hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án kinh doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
hiện nay .....................................................................................................................45
2.4. Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án kinh doanh thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
hiện nay .....................................................................................................................47


2.4.1. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ..........................................47
2.4.2. Tăng cường bồi dưỡng và nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ, Kiểm sát viên .......................................................................................................50
2.4.3. Tăng cường trách nhiệm của các cán bộ, kiểm sát viên .................................51

2.4.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ
cho công tác; sửa đổi bổ sung chế độ chính sách phù hợp.......................................54
2.4.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao
với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân các cấp và các Viện kiểm sát
nhân dân các cấp ......................................................................................................55
2.5. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao ........................................................................................................................57
2.5.1. Kiến nghị về hoàn thiện hệ thống pháp luật ...................................................57
2.5.2. Kiến nghị về nguồn nhân lực ..........................................................................63
2.5.3. Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân dân đối
với hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................................................................63
2.5.4. Kiến nghị với cơ quan ngoài ngành Kiểm sát nhân dân .................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................70


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

GĐT,TT

: Giám đốc thẩm, tái thẩm

KDTM


: Kinh doanh, thương mại

KSV

: Kiểm sát viên

TAND

: Tòa án nhân dân

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
bên cạnh yếu tố tích cực như thúc đẩy sản xuất, kinh tế phát triển thì những tác
động tiêu cực của nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội. Đó là việc
phát sinh các tranh chấp kinh doanh, thương mại (KDTM) trở nên đột biến về số
lượng cũng như đa dạng, phức tạp về nội dung. Sự bỏ chạy của các nhà đầu tư khỏi
thị trường chứng khoán làm xuất hiện tranh chấp về thời điểm chuyển giao quyền
sở hữu đối với cổ phần; tranh chấp về thời điểm chuyển giao quyền sử dụng một số
đối tượng sở hữu công nghiệp, hệ thống bán hàng đa cấp khiến việc khiếu nại về

chất lượng của sản phẩm phân phối đa cấp trở nên khó khăn… Bên cạnh đó, sự
thuận tiện và phổ biến của hình thức giao dịch thương mại điện tử (còn gọi là hình
thức “thương mại không có giấy tờ”) đặt ra những đòi hỏi mới trong việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh… Do đó, những tranh chấp này đòi hỏi phải được giải
quyết một cách thỏa đáng bằng một cơ chế nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tranh chấp từ đó cũng đảm bảo trật tự xã hội. Các tranh chấp
KDTM được giải quyết theo các phương thức là thương lượng, hòa giải, Trọng tài
thương mại và Tòa án. Trong đó, giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án ngày càng
nhiều và phức tạp. Hiện tượng này phản ánh trình độ nhận thức của các chủ thể kinh
doanh được nâng cao và sự kỳ vọng của họ đối với sức mạnh của hệ thống tố tụng
Tòa án để tạo dựng sự bình đẳng trong kinh doanh. Do vậy, trách nhiệm của Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND) trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh
doanh thương mại của Tòa án đòi hỏi cũng phải được nâng cao hơn.
Hiện nay, cả hệ thống chính trị đang thực hiện cuộc cải cách hành chính và
tư pháp mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Luật tổ chức
VKSND năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/06/2015, Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã góp phần thúc đẩy và thực

1


hiện công cuộc cải cách tư pháp, tạo điều kiện để người dân tiếp cận công lý; hình
thành tố tụng mang tính bình đẳng, minh bạch, trong đó mấu chốt là đảm bảo các
tranh chấp về dân sự nói chung và tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng được
thụ lý nhanh chóng và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; Ngoài ra, nhiệm vụ và
chức năng của VKSND trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự nói chung và trong
việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của VKSND tối cao nói riêng đã
quy định cụ thể, rõ ràng hơn. Tuy nhiên, qua kiểm sát việc giải quyết các vụ án
KDTM của VKSND tối cao cho thấy số lượng tranh chấp các vụ án này ngày càng
tăng về số lượng và tính chất phức tạp của tranh chấp này, kèm theo đó là số lượng

án phải sửa và hủy ngày càng tăng (năm sau cao hơn năm trước). Dẫn đến việc giải
quyết tranh chấp KDTM sẽ bị kéo dài, gây tốn kém về tiền bạc và thời gian cho
doanh nghiệp và Nhà nước; làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư và doanh nghiệp
đối với sự an toàn, ổn định của môi trường kinh doanh ở Việt Nam và làm giảm sự
tin tưởng vào việc giải quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa án. Nguyên nhân của tình
trạng này là do có sự thiếu thống nhất, chưa đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống của
các quy định trong từng đạo luật, cũng như giữa Bộ luật dân sự và Luật doanh
nghiệp, Luật đất đai; Luật thương mại... trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp
đồng tín dụng, về lĩnh vực xây dựng, về cổ phần cổ phiếu, tranh chấp về các hợp
đồng kinh tế… Bên cạnh đó, việc áp dụng các đạo luật này còn có bất cập, hạn chế
và nhận thức pháp luật giữa các cơ quan tư pháp cũng như ngay trong nội bộ từng
cơ quan tư pháp còn khác nhau, chưa thống nhất như: Về đánh giá chứng cứ, về xác
định thời hạn trong hợp đồng vay, về phạt vi phạm thời hạn thanh toán trong hợp
đồng vay, về vi phạm các hợp đồng kinh tế, về xác định lãi phạt chậm trả trong hợp
đồng tín dụng, về áp dụng pháp luật...
Do vậy, việc nghiên cứu các quy định về kiểm sát việc giải quyết các vụ án
kinh doanh, thương mại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và là hết sức cần thiết.
Chính vì vậy, học viên chọn đề tài: “Kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh
doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao” làm luận văn thạc sĩ Luật
kinh tế.

2


2. Tổng quan nghiên cứu
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu
về việc giải quyết các vụ án KDTM của Tòa án và công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ án KDTM của Viện kiểm sát nhân dân theo những khía cạnh khác nhau như:
“Giáo trình kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự và việc khác theo quy định của
pháp luật” của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội năm 2018 [34]; “Vị trí, vai trò,

trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, Đề án của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 2014 [41]; “Những nội dung mới
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự” của Hoàng Thị Quỳnh Chi trên Thông tin Khoa học kiểm sát
số 3 và số 4 năm 2016 [6]; “Kỹ năng kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc
thẩm và tái thẩm vụ án dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại và lao động”
của Phương Hữu Oanh năm 2017 [20]; “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật” của tác giả
Nguyễn Thành Duy [8]; Luận văn Thạc sỹ luật học “Thủ tục giải quyết các vụ án
kinh doanh thương mại từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Huỳnh Thị
Kim Huệ năm 2017 [14]; “Bài học kinh nghiệm sau một năm thực hiện các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại, lao động” của Phạm Đức Thắng [31], qua kết quả hoạt động của công
tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại, lao động của Viện
kiểm sát nhân dân năm 2005 tác giả cho thấy: chất lượng hoạt động kiểm sát các vụ
án trên đã có những chuyển biến nhưng chưa thật sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của
ngành. Vì vậy, việc phân công bố trí cán bộ kiểm sát viên cần phải có một chiến
lược tổng thể thì mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của ngành; “Công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh
doanh, thương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật” của
Nguyễn Hợp Phố [21], tác giả khái quát về thực trạng công tác quản lý, chỉ đạo hoạt
động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao

3


động và những việc khác theo quy định của pháp luật; xác định những bất cập,
vướng mắc trong thực tiễn; từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm đổi mới và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động kiểm sát những loại

việc này trên thực tiễn; “Hoạt động kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án kinh doanh,
thương mại, lao động của toà án” của Nguyễn Thượng Hải [10], tác giả phân tích
hoạt động kiểm sát thụ lý vụ án, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Về mỗi hoạt động
này, tác giả đã làm rõ những vấn đề về lý luận, như: khái niệm, sự khác biệt với
những hoạt động tương tự, đồng thời nêu một số vấn đề chuyên môn mà kiểm sát
viên cần lưu ý khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc thụ lý và lập hồ sơ vụ án; “Kết
quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh - thương mại và lao
động theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự - Một số
giải pháp và kiến nghị” của Phương Hữu Oanh [19]; “Nhiệm vụ, quyền hạn của
kiểm sát viên khi tham gia phiên toà xét xử các vụ án về kinh doanh, thương mại và
lao động” của Vũ Thị Thanh Nga [18], do việc xét xử các vụ án theo trình tự sơ
thẩm, phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm có ý nghĩa khác nhau nên nhiệm vụ,
quyền hạn của kiểm sát viên trong những vụ án đó cũng khác nhau, tác giả phân
tích nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong từng thủ tục xét xử các vụ án kinh
doanh, thương mại, lao động; xác định những nguyên nhân dẫn tới sự khiếm khuyết
trong hoạt động của kiểm sát viên, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục; “Thực
trạng và giải pháp để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật” của Phạm Đức Thắng [32], tác giả lấy ngày 01/01/2005 làm mốc,
chia quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh, thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật ra làm hai giai đoạn
để nghiên cứu, làm rõ thực trạng và những nguyên nhân của những ưu, nhược của
hoạt động này. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp cơ bản, như: sửa đổi, bổ
sung Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; nâng cao nhận thức của kiểm sát viên
về vai trò của hoạt động kiểm sát…; “Từ kết quả thực hiện quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 về kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân

4



sự, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án” của Nguyễn Huy Phượng [22];
“Vấn đề rút ra từ công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại có
liên quan đến hợp đồng tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm” của Nguyễn Tái Cơ,
Trần Thị Diên [7].
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều góc độ về việc giải quyết
các vụ án KDTM bằng Tòa án và công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM
của Viện kiểm sát nhân dân trong thực tiễn. Tuy nhiên, rất ít các công trình nghiên
cứu một cách toàn diện, đầy đủ và hệ thống về hoạt động kiểm sát việc giải quyết các
vụ án KDTM theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của VKSND tối cao và những giải
pháp, kiến nghị rút ra từ luận văn của tác giả góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM của VKSND tối cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề xuất các kiến nghị có cơ sở khoa học pháp lý nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ án về kinh doanh, thương mại
của VKSND.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ sau:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về việc kiểm sát giải quyết các vụ án
KDTM của VKSND tối cao;
- Đánh giá những ưu điểm, kết quả đạt được và chỉ ra được những tồn tại,
hạn chế cũng như chỉ ra được nguyên nhân những tồn tại, hạn chế trong công tác
kiểm sát giải quyết các vụ án KDTM của VKSND tối cao, từ đó xác định phương
hướng và đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm sát giải quyết các vụ án về kinh doanh, thương mại của VKSND tối
cao (trong công tác kiểm sát việc giải quyết về vụ án KDTM ở thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm).

5



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động kiểm sát giải quyết
các vụ án kinh doanh, thương mại của VKSND tối cao hiện nay;
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM của VKSND tối cao;
+ Về địa bàn nghiên cứu: Do thời gian và điều kiện cũng như năng lực
nghiên cứu của bản thân còn hạn chế nên tôi chỉ xin nghiên cứu trong địa bàn tại
VKSND tối cao, thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM của
VKSND tối cao (cụ thể ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án KDTM);
+ Thời gian nghiên cứu: Những số liệu được đề tài thu thập và đánh giá được
xác định từ 01/6/2015 đến năm 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, chủ trương, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đồng thời đề tài được nghiên cứu trên cơ sở gắn
lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến việc kiểm sát giải
quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại của VKSND tối cao hiện nay.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp xã hội học… để làm
sáng tỏ những nội dung của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn góp phần làm sáng tỏ và
khẳng định rõ hơn những vẫn đề lý luận, thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết


6


các vụ án kinh doanh, thương mại của VKSND tối cao, đồng thời trên cơ sở những
khó khăn, vướng mắc, luận văn đã đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác này, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các học viên, các kiểm
sát viên (KSV) và những người quan tâm lĩnh vực giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại. Ngoài ra, các giải pháp của luận văn góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại
của VKSND tối cao.
Luận văn đã nghiên cứu những cơ sở lý luận về công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án kinh doanh, thương mại. Luận văn đưa ra một số khái niệm, một số
kết luận có thể được sử dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật dân sự nói chung,
hoạt động kinh doanh, thương mại nói riêng.
Những quan điểm lý luận, kết luận và đề xuất, kiến nghị trong nội dung luận
văn góp phần tạo cách hiểu, phương pháp thực hiện công tác kiểm sát các vụ án
kinh doanh, thương mại tại VKSND tối cao được thống nhất về quy trình, cách thức
thực hiện.
7. Nội dung của Luận văn
Bao gồm phần mở đầu và 2 chương với các phần chính sau đây:
Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm sát các vụ án kinh doanh thương mại
Chương 2: Thực trạng và phương hướng, giải pháp, kiến nghị để nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương
mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay.

7



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT CÁC VỤ ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

1.1. Khái niệm, đặc điểm về tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại
Trước hết, cần phải hiểu khái niệm của tranh chấp kinh doanh, thương mại là
gì? Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt: “Tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi
có mâu thuẫn, bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lực giữa hai bên” [59].
Tranh chấp KDTM được hiểu là những tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh
và thương mại, cụ thể:
Theo quy định tại Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi” [27, Điều 4].
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác” [25, Điều 3].
Như vậy, có thể hiểu khái niệm tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất
đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên quan đến
lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại. Và có thể định nghĩa một cách ngắn gọn
đối với tranh chấp KDTM như sau: Tranh chấp kinh doanh thương mại là những
mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham
gia các quá trình của hoạt động kinh doanh thương mại.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp kinh doanh thương mại có những đặc điểm sau:

8



- Chủ thể của tranh chấp KDTM: Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS năm
2015, tranh chấp KDTM là tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
và đều có mục đích lợi nhận. Chủ thể chủ yếu của tranh chấp KDTM phải ít nhất
một bên là thương nhân (cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp có chức năng kinh
doanh) [30]. Thực tế cho thấy, trong một số tranh chấp, chủ thể tranh chấp KDTM
là cá nhân (cá nhân, đại diện hộ gia đình, tổ hợp tác) hoặc tổ chức (doanh nghiệp,
hợp tác xã...) cho dù chủ thể của tranh chấp KDTM là cá nhân, pháp nhân đã được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký kinh doanh hoặc không có đăng ký
kinh doanh nhưng tham gia quan hệ thương mại đều có mục đích lợi nhuận.
Mục đích lợi nhuận cả cá nhân, tổ chức trong hoạt động KDTM là mong
muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được
hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động KDTM đó. Hoạt động KDTM là hoạt
động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác quy định tại
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại [25]. Hoạt động kinh doanh, thương mại không
chỉ là hoạt động trực tiếp đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các
hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động KDTM.
- Căn cứ làm phát sinh tranh chấp KDTM là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc
vi phạm pháp luật: Tranh chấp KDTM phát sinh từ những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh
lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác hay các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động quản lý nội bộ của các doanh nghiệp như tranh chấp giữa công ty với các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sát nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ
chức của công ty...
Các quan hệ thương mại có bản chất là quan hệ tài sản, nên nội dung tranh
chấp thương mại liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Ngoài ra, tranh


9


chấp KDTM còn chịu chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này như: Mục
đích sinh lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh doanh và yêu cầu giữ bí mật thông tin liên
quan đến hoạt động kinh doanh.
- Tranh chấp KDTM có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể
dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế
giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, mua
bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường xuyên liên tục, các chủ thể cùng một lúc có
thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế khiến cho những mối quan hệ này tạo thành
một chuỗi quan hệ có liên quan đến nhau. Vì vậy, nếu tranh chấp phát sinh ở quan
hệ này sẽ có thể dẫn đến tranh chấp trong mối quan hệ khác.
- Các phương thức giải quyết tranh chấp KDTM: Theo Điều 317 Luật
Thương mại, các phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bao gồm: Thương
lượng, hòa giải, Trọng tài thương mại và Tòa án [25]. Mỗi phương thức giải quyết
này có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung, thủ tục, trình tự tiến hành. Các
bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi
phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính
chất của tranh chấp và thiện chí của các bên. Việc lựa chọn cơ quan giải quyết
(Trọng tài thương mại hoặc Tòa án) do các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh
thỏa thuận trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp hoặc do pháp luật quy định.
Hiện nay, ở Việt Nam phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa
án là quan trọng và phổ biến nhất, đã góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng
pháp luật cho các chủ thể kinh doanh. Bởi: Tòa án là cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực Nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ,
công khai và phán quyết của Tòa án có tính cưỡng chế cao.
Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS năm 2015, tranh chấp KDTM thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án [30] bao gồm:
+ Những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM (thông qua các hợp

đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng các loại dịch vụ, hợp đồng thuê tài sản...) giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;

10


+ Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đề có mục đích lợi nhuận. Việc cá nhân, tổ chức (ít nhất phải một
bên có đăng ký kinh doanh) có cùng “mục đích lợi nhuận” mới được xác định là
tranh chấp KDTM.
+ Tranh chấp giữa người chưa là phải thành viên của công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty: Cá nhân, tổ
chức chưa phải là thành viên của công ty thực hiện việc chuyển nhượng vốn góp
(mua bán cổ phiếu, vốn góp) theo quy định của Luật Doanh nghiệp và điều lệ của
công ty cho phép thực hiện việc chuyển nhượng phần vốn góp cho công ty hoặc cho
thành viên cả công ty (cổ đông, thành viên góp vốn). Khi phát sinh tranh chấp thì đó
là tranh chấp KDTM.
+ Những tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; giữa công
ty với người quản lý trong công ty hoặc thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám
đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên công ty với nhau. Tuy nhiên, phải là
những tranh chấp liên quan với việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp
nhất, chia tách, bàn giao tài sản, chuyển đổi hình thức tổ chức... là tranh chấp
KDTM. Trường hợp tranh chấp giữa giám đốc công ty với thành viên công ty về
tiền lương, tiền thưởng lại là tranh chấp lao động [30].
Ngoài ra, BLTTDS còn quy định “các tranh chấp khác về kinh doanh thương
mại” mang tính dự kiến, mở rộng phạm vi giải quyết các tranh chấp KDTM phù
hợp với sự đa dạng hóa của nền kinh tế thị trường.
1.2. Khái niệm, đối tượng và phạm vi kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh
doanh, thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1.2.1. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của

Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Hiến pháp năm 2013 khẳng định chức năng của VKSND là cơ quan thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ “bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

11


bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [26,
Khoản 3 Điều 107]. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 quy định mới về nhiệm vụ của
VKSND đó là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đặc biệt,
đối với các khiếu kiện tranh chấp kinh doanh thương mại có ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì công
tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Viện kiểm sát trong lĩnh vực này có vai
trò rất quan trọng [26].
Phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi công tác kiểm sát
của VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [29]. Cụ thể hơn, tại Điều 4 của Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 đã quy định về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp - “là
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện
… trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động” [29, Điều 4] nhằm đảm bảo các quy định pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi vi phạm pháp luật được phát hiện và khắc
phục kịp thời. Đồng thời, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 cũng quy định cụ thể tại
Khoản 2 Điều 6 trong đó có hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh
vực tố tụng dân sự “.... e). Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, các vụ

việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật; ...” [29, Khoản 2 Điều 6] và tại Điều 27 quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính,
vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật như sau:
1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc.

12


3. Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định.
4. Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của VKSND về việc
giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật.
5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
6. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm
pháp luật.
7. Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật;
kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng.
8. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ án
hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
và những việc khác theo quy định của pháp luật [29, Điều 27].
Do đó, công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại là
một trong những công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND, sử dụng các
quyền năng pháp lý được pháp luật quy định, để kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án nhân dân, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng trong quá trình giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại; đảm việc giải
quyết các vụ việc dân sự có căn cứ, kịp thời, đúng pháp luật; bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các bên tranh chấp, bảo vệ tài sản của Nhà nước, duy trì trật tự và

đoàn kết trong nhân dân, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.
Hơn nữa, theo quy định tại Điều 21 BLTTDS năm 2015 thì:
1. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực
hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các
phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc

13


đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở
hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này.
3. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm,... [30, Điều 21].
Theo quy định tại Điều 2 Quy chế Tổ chức và hoạt động của Vụ kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hành chính, lao động, kinh tế và phá sản doanh nghiệp
(nay gọi tắt là Vụ 10) Ban hành kèm theo Quyết định số 574/QĐ-VKSTC-V12 ngày
15/10/2012 của Viện trưởng VKSND tối cao thì Vụ 10 có nhiệm vụ kiểm sát hoạt
động tư pháp của Tòa án các cấp trong việc giải quyết các vụ án hành chính, lao
động, kinh doanh thương mại và việc phá sản trong toàn ngành Kiểm sát nhân
dân; tiếp nhận, quản lý và giải quyết đơn đề nghị, hồ sơ vụ án theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án và quyết định về hành chính, lao động, kinh
doanh thương mại và việc phá sản có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các
cấp; trả lời đơn đương sự khi không có căn cứ kháng nghị; báo cáo Lãnh đạo
VKSND tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi có đủ căn cứ
kháng nghị và đặc biệt là trực tiếp kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, lao

động, kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân (TAND) tối cao theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm; tổng hợp tình hình vi phạm pháp luật trong hoạt động
giải quyết các vụ án hành chính, lao động, kinh doanh thương mại và việc phá sản
của Tòa án nhân dân các cấp để báo cáo Viện trưởng VKSND tối cao kiến nghị
với Chánh án Toà án nhân dân tối cao nhằm khắc phục vi phTòapháp luật… [39,
Điều 2].
Theo quy định của pháp luật và tại Quyết định số 410/QĐ-VKSTC-V15
ngày 26/6/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao về nhiệm vụ, quyền hạn của các
đơn vị trực thuộc Bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân tối cao, trong đó tại mục
13 giao cho Vụ 10 là: thực hiện nhiệm vụ kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính,

14


kinh doanh thương, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của
pháp luật của HĐTP TAND tối cao; đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực của TAND cấp dưới [44].
Từ phân tích trên có thể hiểu: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một trong những công tác thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, sử dụng các quyền năng
pháp lý được pháp luật quy định để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án
nhân dân các cấp, những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng dân sự
trong giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm được kịp thời, đảm bảo việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại
nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật.
1.2.2. Đối tượng kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Theo cách hiểu chung nhất, đối tượng của bất kỳ hoạt động của một chủ thể
nào cũng đều là những cái (gì) mà hoạt động đó tác động đến nhằm đạt được mục
đích, yêu cầu cụ thể đặt ra trước chủ thể đó. Trong tố tụng dân sự, mục đích của

hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là nhằm bảo đảm các chủ thể tham gia
vào quá trình giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và giải quyết các vụ án kinh
doanh thương mại nói riêng chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo
đảm tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định của Tòa án.
Căn cứ quy định BLTTDS năm 2015 và Điều 2 Quy chế công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ việc dân sự (kèm theo Quyết định số 364/QĐ-VKSC ngày
02/10/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao) thì đối tượng của công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của VKSND tối cao theo quy định
của pháp luật là sự tuân thủ pháp luật của Tòa án, của những người tiến hành tố
tụng (Chánh án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án),
của những người tham gia tố tụng (đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch...) trong quá
trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án [30]; [50].

15


1.2.3. Phạm vi kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
kinh doanh, thương mại của VKSND tối cao được hiểu là giới hạn hoạt động mà
Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiến hành để kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối
với hành vi, quyết định tố tụng của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng dân sự
nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại đúng pháp
luật, kịp thời. Xác định phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án kinh doanh thương mại là xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm
kết thúc của công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Như vậy, VKSND tối cao
kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại theo “thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm”.
Hệ thống xét xử của Tòa án nhân dân ở nước ta gồm hai cấp: cấp sơ thẩm và

cấp phúc thẩm. Hệ thống xét xử hai cấp được hiểu là bản án sơ thẩm (chưa có hiệu
lực pháp luật) còn có thể bị cấp phúc thẩm xét xử lại trong trường hợp có kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Việc xét xử hai cấp không có nghĩa là
cấp sơ thẩm xét xử xong là mặc nhiên đến cấp xét xử phúc thẩm xử lại. Nếu có
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật thì Tòa án cấp phúc thẩm phải tổ
chức xét xử phúc thẩm nhằm sửa chữa những sai lầm mà Tòa án cấp sơ thẩm mắc
phải, bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự.
Tuy nhiên, về nguyên tắc bản án, quyết định của Tòa án luôn phải đảm bảo
tính hợp pháp và tính có căn cứ, nên việc xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ
của bản án, quyết định không những được thực hiện trước khi chúng có hiệu lực
pháp luật, mà ngay cả sau khi chúng có hiệu lực pháp luật. Như vậy, những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện thấy có vi phạm thì sẽ bị kháng
nghị theo quy định của pháp luật. Khi đó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn: một là yêu cầu về
tính bắt buộc phải thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hai là, yêu

16


cầu về nguyên tắc pháp chế trong tố tụng dân sự đòi hỏi các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật nhưng vi phạm pháp luật phải hủy bỏ. Giải quyết không đúng
mâu thuẫn này hoặc sẽ làm xáo trộn thêm các quan hệ dân sự vốn đã bị xáo trộn bởi
tranh chấp, bởi vi phạm trước đó hoặc sẽ phải chấp nhận hiện tượng quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự không được bảo vệ thỏa đáng. Hậu quả là trong
cả hai trường hợp, uy tín và hiệu lực xét xử của Tòa án đều bị giảm sút. Để khắc
phục tình trạng này, pháp luật tố tụng dân sự nước ta đã quy định một thủ tục đặc
biệt nhằm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện thấy
sai lầm. Đó là thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm.
Tại Điều 325 BLTTDS năm 2015 quy định “Giám đốc thẩm là việc xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám

đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này” [30].
Khoản 1 Điều 326 BLTTDS năm 2015 quy định các căn cứ để kháng nghị
Giám đốc thẩm [30] bao gồm:
“a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực
hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của
họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết
định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm
phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
người thứ ba” [30].
Tại Điều 351 BLTTDS năm 2015 quy định “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có
thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự
không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó” [30].

17


×