Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Pháp luật về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM
HOÀNG MẠNH TOÀN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa sau đại học Trường Đại học Mở Hà Nội.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận văn


Hoàng Mạnh Toàn


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám
đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình
và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho
tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến lãnh đạo, các đồng
nghiệp, bạn bè, gia đình luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong
suốt thời gian học tập và nghiên cứu luận văn.
Trong khuôn khổ của một luận văn, đề tài này không thể giải quyết toàn bộ
các vấn đề một cách trọn vẹn, vì vậy, kết quả nghiên cứu của đề tài không tránh
khỏi có nhiều hạn chế, thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của Quý thầy, cô
và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Hoàng Mạnh Toàn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BT

Bồi thường

HT

Hỗ trợ

UBND

Ủy ban nhân dân

UBMTTQ

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

SHTD

Sở hữu toàn dân

TĐC

Tái định cư


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ
NƢỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT ......................................................................................................... 7

1.1. Một số vấn đề lý luận về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ........................... 7
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ........................... 7
1.1.2. Sự cần thiết của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ............................ 11
1.1.3. Những yêu cầu đặt ra khi thực hiện tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất............... 12
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .... 13
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ....................... 13
1.2.2. Các yếu tố chi phối pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .................... 15
1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ... 19
1.2.4. Kinh nghiệm một số nước trong việc điều chỉnh pháp luật về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất. ................................................................................................ 20
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH
HÀ NAM .................................................................................................................. 26
2.1. Thực trạng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .............................. 26
2.1.1. Quy định về nguyên tắc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ....................... 26
2.1.2. Điều kiện tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .............................................. 29
2.1.3. Nội dung tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ............................................... 30
2.1.4. Trình tự, thủ tục tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ................................... 32
2.1.5. Khiếu nại về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ......................................... 39
2.2. Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của quy định pháp luật về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất. ................................................................................................ 43
2.2.1. Những ưu điểm................................................................................................ 43
2.2.2. Một số hạn chế ................................................................................................ 45


2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh
Hà Nam. .................................................................................................................... 48
2.3.1. Vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên đất và cơ cấu sử dụng đất tại tỉnh Hà Nam 48
2.3.2. Việc tổ chức thực hiện quy định pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất tại tỉnh Hà Nam ................................................................................................... 50

Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT ................................................................................. 62
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.......... 62
3.1.1. Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đồng bộ, thống nhất,
khách quan đảm bảo lợi ích của các bên liên quan. .................................................. 62
3.1.2. Để pháp luật về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đảm bảo tính khả thi,
hiệu quả, cần tập trung đổi mới chiến lược quy hoạch và phát triển đất. ................. 64
3.1.3. Nghiên cứu hoàn thiện chế định pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất. ...................................................................................................................... 65
3.1.4. Nâng cao nhận thức về vai trò của đồng thuận và sự đồng thuận của người
dân đối với tái định cư ............................................................................................... 66
3.1.5. Đổi mới trong tư duy ....................................................................................... 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. .............. 68
3.2.1. Đa dạng hóa hình thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. .................................. 68
3.2.2. Hoàn thiện chế định pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư..... 69
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................ 71
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội và sự ổn định đời sống của nhân dân. Trong quá trình phát triển đất
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu,
tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó,
Nhà nước ta đã ban hành chính sách tái định cư dành cho người bị thu hồi đất, từng

bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho người có đất bị thu
hồi ổn định đời sống và sản xuất.
Tuy nhiên, đất đai là vấn đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, trong khi các quy
định về tái định cư thường xuyên thay đổi dẫn tới tình trạng so bì, khiếu nại của
người có đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng thực hiện thu hồi
đất qua nhiều năm. Thêm vào đó các quy định của pháp luật về tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất còn nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau. Vì vậy, việc
nghiên cứu, tìm hiểu về Pháp luật về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất là cần
thiết trong giai đoạn hiện nay liên hệ từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là những nội dung quan
trọng của pháp luật đất đai. Các chế định này khi đưa vào áp dụng đã trực tiếp đụng
chạm đến lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của cộng đồng và lợi ích của nhà đầu
tư nên đã nhận được sự quan tâm của nhiều người. Đến nay vấn đề tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều
phương diện khác nhau. Có thể đề cập một số công trình, bài báo sau đây:
Luận văn thạc sĩ Luật học của Tô Văn Hải "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành tại quận 12 thành
phố Hồ Chí Minh" năm 2013;

1


Luận văn thạc sỹ Luật học của của Trần Lê Trường Sơn "Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành tại
Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh" năm 2013;
Luận văn thạc sĩ của Phan Văn Thọ “Đổi mới chính sách liên quan đến đất
đai, giải quyết những vướng mắc trong công tác thu hồi đất, bồi thường để phát
triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị, hạ tầng kinh tế- xã hội” năm 2011;
Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù của tác giả Lan Hương - Báo

điện tử dân Trí số ra ngày 03/10/2008; Pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất của Singapore và Trung Quốc – những gợi mở cho Việt Nam trong
hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của
Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Ngọc Minh đăng trên Tạp chí Luật học số
10/2010…
Những bất cập trong thu hồi đất và một số kiến nghị của tác giả Nguyễn
Phương Thảo đăng trên Trang Thông Tin Điện tử tổng hợp của Ban Nội Chính
Trung Ương ngày 12/8/2013; Sớm khắc phục những bất cập trong Luật đất đai
2013 số ra ngày 12/6/2015 trên báo Nhân Dân điện tử của tác giả An Trân; Công
tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, ở Thành phố Hồ Chí
Minh và định hướng hoàn thiện của Đoàn Minh Hà đăng trên trang thông tin điện tử
của tạp chí dân chủ và pháp luật – Bộ Tư pháp; Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở của Mai Huy đăng ngày 26/5/2017 trên tầm
nhìn. Net. Vn; Bài phỏng vấn của phóng viên Văn Thanh báo Ninh Thuận “Giải
pháp nào tháo gỡ khó khăn trong khâu giải phóng mặt bằng” Tầm nhìn. Net. Vn ;
Đền bù, giải phóng mặt bằng phải dung hòa lợi ích các bên đăng ngày 04/9/2012
trên Tầm nhìn. Net. Vn; Tháo gỡ khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng
đăng ngày 26/12/2014 trên báo Kinh tế & Đô thị online; Chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất đăng ngày 10/10/2013 trên trang thông tin
điện tử tổng hợp của Ban Nội chính trung ương; Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất đăng ngày 26/5/2014 trên trang chinhphu. Vn.

2


Nói chung, vấn đề bồi thường, giải phóng mặt bằng đã được rất nhiều tác giả
quan tâm, nghiên cứu song chưa có công trình nghiên cứu bào nghiên cứu về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn của tỉnh Hà Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến pháp luật về

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: chính sách của nhà nước và các quy
định pháp luật hiện hành về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh
Hà Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nghiên cứu thực tiễn thực hiện
pháp luật tại tỉnh Hà Nam, qua đó, rút ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại
tỉnh Hà Nam.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Nghiên cứu nhằm đưa ra khái niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
nghiên cứu nhằm làm rõ đặc điểm về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; làm rõ sự
cần thiết của tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; nghiên cứu cơ sở của việc tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất và đối chiếu với kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
- Nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành liên quan đến tái định cư khi thu
hồi đất;
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng quy định pháp luật về tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Hà Nam.

3


- Nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề về pháp lý về nguyên tắc, trình tự,
nội dung và xử lý vi phạm trong tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghiên cứu các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Marx-Lenin, đường
lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước
ta trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu mang tính
truyền thống chủ yếu như sau:
- Phương pháp phân tích, diễn giải, đánh giá và tổng hợp: Phương pháp này
được sử dụng trong tất cả các chương nhằm lý giải những vấn đề thuộc về bản chất,
các quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đánh giá thực trạng, để từ đó, đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong các dự án đầu tư khu đô thị mới,
chỉnh trang đô thị ở Việt Nam.
- Phương pháp thống kê: Tiến hành thu thập, thống kê về kết quả thực hiện
pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong các dự án đầu tư khu
đô thị mới, chỉnh trang đô thị trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Phương pháp so sánh: So sánh kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thực hiện các dự án đầu
tư khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị. So sánh các quy định của Luật Đất đai năm 2013
với các quy định được ban hành trước đây về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi thực hiện các dự án đầu tư khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị để nhận diện sự phát
triển tư duy pháp lý của Nhà nước ta về vấn đề này.

4


- Phương pháp xử lý thông tin: Sử dụng để xử lý các tài liệu tham khảo từ
sách, báo, tạp chí, các tài liệu từ cơ sở dữ liệu ProQues, Springer và Google Scholar
liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ đó, tổng thuật theo từng chủ đề trong giới hạn
phạm vi nghiên cứu đặt ra, trên cơ sở đó, khẳng định tính mới trong nội dung

nghiên cứu của luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có một số đóng góp mới sau đây:
- Góp phần làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của pháp luật về tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt là pháp luật về thu hồi đất, tái định cư chịu sự chi
phối của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân
được Nhà nước thừa nhận và bảo hộ nhưng vẫn là quyền tài sản không đầy đủ trong
điều kiện kinh tế thị trường. Điều này, ảnh hưởng đến cơ chế pháp lý về thu hồi đất,
tái định cư khi thu hồi đất.
- Góp phần đánh giá thực trạng và thực hiện pháp luật về thu hồi đất, tái định
cư trên địa bàn tỉnh Hà Nam thời gian qua, chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân cả về nhận thức và quá trình thực thi pháp luật.
- Luận văn đề xuất các định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, phù hợp
với đặc điểm riêng có của quyền sử dụng đất ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Đặc
biệt là từ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, quyền sử dụng đất của tổ chức, cá
nhân được Nhà nước thừa nhận và bảo hộ nhưng vẫn là quyền tài sản không đầy
đủ, góp phần thực hiện hiệu quả chính sách đất đai của Nhà nước nhằm phát
triển kinh tế - xã hội.

5


Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo có
giá trị trong nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện pháp luật, trong giảng dạy và học
tập về pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về thu hồi đất và tái định cư khi thu

hồi đất nói riêng
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Mở đầu, Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu 3 Chương, có Kết luận của
từng Chương; cụ thể:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và
pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Chương II: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Hà Nam.
Chương III: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT
1.1. Một số vấn đề lý luận về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1.1. Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Thu hồi đất là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp
luật đất đai. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát sinh quan hệ pháp
luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người có quyền sở dụng đất; thì thu
hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai bằng một quyết
định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông qua hoạt động này,
Nhà nước có thể thể hiện rất rõ quyền định đoạt đất đai với tư cách là đại diện chủ
sở hữu đối với đất đai.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng: Thu hồi là lấy lại cái đã đưa ra, đã

cấp phát ra hoặc bị người khác lấy. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi
đất được hiểu là: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất
của người vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác
hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần
thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”. Khái niệm
này thực ra cũng chưa hẳn là một định nghĩa rõ ràng về thu hồi đất, mặc dù có đề
cập các trường hợp thu hồi đất của Nhà nước. Nhà nước không chỉ thu hồi đất
của người có hành vi vi phạm về sử dụng đất hay thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà còn thu hồi đất
khi có vi phạm từ phía cơ quan quản lý đất như giao đất không đúng đối tượng,
không đúng thẩm quyền, hoặc thu hồi đất khi người sử dụng đất đã chết mà
không có người thừa kế.

7


Trong từng thời kỳ, khái niệm thu hồi đất được pháp luật ghi nhận như sau:
Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 ra đời, đã đề cập vấn đề thu
hồi đất, nhưng chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê các trường hợp
bị thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và Điều 26 Luật Đất đai năm 1993).
Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành
chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã,
phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này” (Khoản 5 Điều 4). Luật Đất đai
năm 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013 có hiệu lực vào ngày
01/7/2014 quy định: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định thu lại
quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất
của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” (Khoản 11 Điều 4). Như vậy, dù
có nhiều định nghĩa khác nhau về thu hồi đất, nhưng tựu chung lại “Thu hồi đất là việc
Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền sử dụng đất đã giao cho

các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”.
Tái định cư cho người dân bị thu hồi đất là một vấn đề nhận được nhiều sự
quan tâm của cả người bị thu hồi đất, người dân và nhà nước. Tái định cư được đề
cập rất nhiều trong các văn bản pháp luật đất đai. Tuy nhiên, để định nghĩa cụ thể về
tái định cư thì chỉ có Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính
phủ về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định
“Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này mà
phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức như:
Bồi thường bằng nhà ở, bồi thường bằng đất ở, bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở
mới.” (Điều 4). Như vậy, về cơ bản tái định cư cũng là một sự bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất, là một dạng của bồi thường.
Để hiểu rõ hơn về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cần làm rõ 2 vấn đề
liên quan là bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
Trong các quy định của pháp luật nước ta, vấn đề thu hồi đất đã được quy
định từ năm 1959 bằng Nghị định 151/TTg ngày 14/5/1959, tuy nhiên các vấn đề

8


bồi thường tới năm 1970 mới xuất hiện tại Thông tư 1972/TTg ngày 11/01/1970,
đặc biệt là vấn đề tái định cư thì đến Luật Đất đai năm 1993 mới được đề cập. Hiện
nay, cùng với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa kéo theo quá trình đô thị hóa
thì nhu cầu thu hồi đất để phục vụ phát triển đất nước ngày càng tăng và việc bồi
thường cho người dân bị mất đất đang là vấn đề hết sức được quan tâm. Trước khi
được luật hóa thì thuật ngữ “Bồi thường” xuất hiện từ rất sớm trong đời sống xã hội
và đã được định nghĩa trong nhiều từ điển thuật ngữ. Theo Từ điển Luật học, khái
niệm bồi thường là “Việc bù đắp những thiệt hại về vật chất, tinh thần do mình gây
ra cho người khác, do không thực hiện, thực hiện chậm, thực hiện không đầy đủ một
nghĩa vụ dân sự hay do vi phạm pháp luật.” [80]. Luật Đất đai năm 2013 cũng như
các văn bản Luật Đất đai trước đó tiếp tục định nghĩa: “Bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất là việc Nhà nước trả cho người có đất bị thu hồi những thiệt hại về
quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất do
việc thu hồi đất gây ra”.
Khi nhà nước thu hồi đất thì người bị thu hồi đất gặp phải một số khó khăn:
bị mất nơi ở, đảo lộn cuộc sống, thay đổi việc làm hoặc mất việc làm, ... Vì vậy, để
giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định đời sống thì bên cạnh việc bồi thường, Nhà
nước còn thực hiện các biện pháp hỗ trợ. Luật Đất đai năm 2013 định nghĩa: “Hỗ
trợ khi nhà nước thu hồi đất là việc trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời
sống, sản xuất và phát triển” (Khoản 1 Điều 3).
1.1.1.2. Đặc điểm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, tái định cư là việc giải quyết hậu quả pháp lý của một hành vi hành
chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi ra quyết định thu hồi đất của người
đang sử dụng đất. Đây là trách nhiệm của Nhà nước phải thực hiện khi tiến hành thu
hồi đất của người dân. Đặc điểm này xuất phát từ đặc trưng của thu hồi đất gồm: thu
hồi đất là một quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt quan
hệ sử dụng đất của người sử dụng đất; thu hồi đất là một quyết định hành chính thể
hiện quyền lực Nhà nước nhằm thực thi một trong những nội dung của quản lý Nhà

9


nước về đất đai; việc thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước và xã hội hoặc
là biện pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý hành vi vi phạm pháp luật đất đai của
người sử dụng đất.
Thứ hai, tái định cư chỉ áp dụng đối với trường hợp người sử dụng đất bị Nhà
nước thu hồi đất. Trong đó, việc áp dụng hình thức nào: bồi thường hay hỗ trợ hay tái
định cư phụ thuộc vào từng trường hợp người sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi.
Thứ ba, mục đích của tái định cư là sự bù lại của Nhà nước cho người dân bị
thu hồi đất để giảm thiểu thiệt hại của người dân với hành vi thu hồi đất của Nhà
nước. Việc tái định cư nhằm mục đích để người dân có thể lựa chọn và sớm ổn định

chỗ ở, chỗ sản xuất kinh doanh mới, tránh xáo trộn cuộc sống lâu dài.
Thứ tư, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là hoạt động thể hiện tính phức
tạp và đa dạng. Bởi tái định cư liên quan trực tiếp đến các chủ thể tham gia và lợi
ích của xã hội. Ngoài ra, giao cho các dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất được
diễn ra trên các khu vực hành chính với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và trình
độ dân trí khác nhau. Đối với khu vực thành thị, quá trình đô thị hóa nhanh, mật độ
dân cư đông đúc, trình độ dân trí cao và ngành nghề đa dạng, vì thế quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất thường có giá trị lớn. Do đó, việc tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở đô thị có đặc điểm khác so với khu vực nông thôn nơi chủ yếu
hoạt động sản xuất nông nghiệp hoặc tiểu thủ công nghiệp. Trong các dự án xây
dựng khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị gồm nhiều công trình mà mỗi công trình
cũng có thể tách thành một dự án nhỏ: dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật, dự án xây
dựng nhà ở thấp tầng và các công trình xã hội, dự án xây dựng nhà ở cao tầng và
các dự án này có thể độc lập với nhau về tính pháp lý, chủ trương, tuy nhiên phải
tuân theo một quy hoạch đã được phê duyệt [16].
Ý nghĩa của tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
- Đảm bảo chia sẻ về mặt lợi ích và bù đắp những thiệt hại cho các chủ thể
sử dụng đất do bị thu hồi đất gây ra, đồng thời nhanh chóng ổn định đời sống, sản
xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người bị thu hồi đất. Trên cơ sở đó góp

10


phần ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội, cũng như tạo ra động lực để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của nhà nước;
- Trong quá trình tái định cư sẽ tìm ra lời giải hợp lý cho bài toán “Lợi ích ba
bên” giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và người nhận lại quyền sử dụng đất đã
thu hồi;
- Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh
tế, chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị thu hồi đất.

1.1.2. Sự cần thiết của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, thu hồi đất là việc làm không thể tránh khỏi trong chính sách quản
lý đất đai và quy hoạch xây dựng đô thị của quốc gia. Đất nước chúng ta đang trong
thời kì phát triển mạnh về kinh tế, cho nên nhu cầu của Nhà nước về đất đai là rất
lớn cho các dự án đầu tư trong nước cũng như cho các khu công nghiệp, khu kinh tế
và khu công nghệ cao.
Thứ hai, khi thu hồi đất sẽ ảnh hưởng nhiều đến các chủ thể liên quan đặc
biệt là người bị thu hồi đất bị ảnh hưởng trực tiếp. Cụ thể như:
- Ảnh hưởng đến việc làm, do bị thu hồi tư liệu sản xuất nên một bộ phận lao
động có độ tuổi cao, trình độ lao động thấp không còn đất để sản xuất, kinh doanh
dịch vụ và không có khả năng tìm việc làm mới. Bên cạnh đó là sử dụng tiền được
bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất sai mục đích của một bộ phận dân cư và các việc
chi tiêu cá nhân dẫn đến những hệ lụy tiêu cực: không có việc làm, không có thu
nhập, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… ảnh hưởng lớn đến cộng đồng và xã hội.
- Ảnh hưởng đến thu nhập của người bị thu hồi đất, có những hộ mất đất
nhưng không chuyển đổi được việc làm sẽ dẫn tới không có thu nhập. Hoặc do thu
hồi đất, họ sẽ mất đi phương thức kinh doanh hiện tại, nguồn thu nhập của gia đình
bị mất hoặc thay đổi. Sự thay đổi này không thể khắc phục ngay. Những thiệt hại về
thu nhập kéo theo ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bản thân người bị thu
hồi đất và gia đình họ, tiếp theo là ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư và xã hội [17].

11


- Ảnh hưởng về văn hóa, xã hội cũng cần được quan tâm. Bởi sự xuất hiện
của các khu công nghiệp mới, khu đô thị mới, có thể làm mất đi những phong tục
tập quán tốt của địa phương như các làng nghề, ngành nghề, thay đổi văn hóa của
cộng đồng dân cư. Theo chiều hướng tiêu cực, có thể sinh ra nhiều tệ nạn xã hội,
đói nghèo, khó khăn cho một bộ phận dân cư.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, hệ quả thu hồi đất làm di động dân cư và tái

định cư có thể dẫn tới những tác động tiêu cực lên đời sống của người dân như mất
tài sản (đất đai, nhà cửa, mùa màng), thất nghiệp, thu nhập giảm, đói nghèo và dịch
bệnh tăng, cấu trúc xã hội bị phá vỡ...
Thứ ba, nếu không quan tâm giải quyết nhanh chóng, đúng mức, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất thì việc thực hiện thu hồi đất
chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Dẫn đến khiếu kiện, tranh chấp, dư luận bức
xúc… ảnh hưởng lớn đến trật tự an ninh và môi trường văn hóa xã hội. Bởi vậy, đi
đôi với thu hồi đất là các chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho
người bị thu hồi đất. Việc ban hành những chính sách hợp lý để vạch ra phương
hướng, đường lối giải quyết vấn đề này, nhằm ổn định cuộc sống cho người bị thu
hồi đất là cần thiết và là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước khi quản lý đất đai.
1.1.3. Những yêu cầu đặt ra khi thực hiện tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Khi thu hồi đất, việc thực hiện hoạt động tái định cư cần xem xét những vấn
đề sau:
Một là, xem xét đo lường, đánh giá những ảnh hưởng do chính sách thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư gây ra. Đánh giá này phải đảm bảo tính hai mặt:
(1) các thiệt hại do thu hồi đất, di động dân cư và bồi thường, hỗ trợ tái định cư; (2)
các ảnh hưởng tích cực của việc thu hồi đất, tái định cư thể hiện ở kế hoạch xây
dựng khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị.
Do tính phức tạp, nhạy cảm của công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư nên việc xác định đúng, đầy đủ và khách quan những thiệt hại xảy ra khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích công cộng, phát triển kinh tế. Để từ

12


đó, các phương án tái định cư được thiết lập công bằng, thỏa đáng đảm bảo quyền
và lợi ích của dân cư cũng như Nhà nước. Các thiệt hại mà chúng ta cần quan tâm
gồm: (1) thiệt hại về tài sản là thành quả lao động và kết quả đầu tư của người bị thu
hồi đất được tạo ra trong quá trình sử dụng đất, gồm: nhà cửa, các công trình kiến

trúc, cây trồng, và các tài sản khác gắn liền với đất; (2) thiệt hại về công sức đầu tư
mà người bị thu hồi đất bỏ ra để làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, bao gồm cả
thiệt hại về quyền khai thác và hưởng các lợi ích từ diện tích đất đai do Nhà nước
thu hồi; (3) Thiệt hại do gián đoạn hoặc mất công việc, sản xuất kinh doanh, hoặc
ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh; (4) thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất nhằm
sử dụng đất mà do thu hồi đất đã không thể thực hiện để bù đắp chi phí đầu vào; (5)
thiệt hại vô hình mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu như: khó khăn bắt đầu chỗ
ở mới; chi phí sinh hoạt tăng; chi phí thay đổi nghề nghiệp; thời gian để thích nghi
chỗ ở mới, chuyển công tác, trường học, chỗ ở... Các thiệt hại này rất khó có thể
tính toán, xác định và thẩm định.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tính toán, cân đo giữa lợi ích xây dựng dự án khu
đô thị mới, chỉnh trang đô thị mang lại với những thiệt hại mà việc tái định cư mang
lại. Đương nhiên, việc tái định cư khi thu hồi đất phục vụ cho các dự án xây dựng
khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị không thể vượt quá lợi ích mà dự án mang lại.
Hai là, giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và
nhà đầu tư từ việc thu hồi đất.
Về tổng quát việc thu hồi đất, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang
lại lợi ích. Tuy nhiên, ở một phương diện và giai đoạn nào đó, lợi ích của các bên
gồm Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu tư có thể trái ngược nhau. Vì vậy,
khi thực hiện công việc này cần phải đảm bảo giải quyết hài hòa lợi ích ba bên.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Nguyên tắc pháp luật thu hồi đất, tái định cư có ý nghĩa rất quan trọng nhằm
công khai, minh bạch và dân chủ trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ giúp

13


cho người dân được tham gia trực tiếp bàn bạc những vấn đề liên quan đến quyền
và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình khi Nhà nước thu hồi đất. Đồng thời, việc

công khai, minh bạch, dân chủ là một trong những giải pháp quan trọng để phòng
chống tham nhũng trong lĩnh vực đất đai nói chung và bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Ngoài ra, thông qua việc công khai, minh
bạch, dân chủ người dân không chỉ nắm được các quyền và nghĩa vụ của mình khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế mà còn có điều kiện để bày tỏ những mong
muốn, nguyện vọng của mình tới các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các cơ
quan Nhà nước nắm được nguyện vọng của nhân dân để có thể xem xét, giải quyết
kịp thời, không để nảy sinh những mâu thuẫn trong quá trình giải phóng mặt bằng.
Điều này sẽ tạo tâm lý thoải mái, tạo lòng tin của người dân vào các quyết định của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, từ đó có thể hạn chế được những tranh chấp
khiếu kiện kéo dài.
Theo đó, pháp luật về tái định cư trong các dự án xây dựng khu đô thị mới,
chỉnh trang đô thị sẽ phải tuân thủ các nguyên tắc chung của pháp luật về thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Bao gồm:
Thứ nhất, thu hồi đất theo lý do và mục đích nào thì có biện pháp bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư tương ứng phù hợp. Nhà nước thu hồi đất của người đang sử
dụng có đủ điều kiện thì được bồi thường, trường hợp không đủ điều kiện được bồi
thường thì có thể sử dụng cách thức khác như hỗ trợ khi thu hồi đất. Nhà nước thu
hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc
giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được
bồi thường bằng tiền mặt theo giá đất cụ thể của từng loại đất thu hồi do UBND cấp
tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi.
Thứ hai, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải
đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định.
Mặc dù ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tuy nhiên nhà nước đã giao quyền

14



chiếm hữu, sử dụng đất cho người dân. Việc Nhà nước thu hồi đất sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến những lợi ích hợp pháp mà người sử dụng đất tạo ra trong quá trình sử dụng
đất, vì vậy, họ cần phải được tham gia bàn bạc, đưa ra ý kiến, nguyện vọng thông qua
đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Thông qua việc công khai, minh
bạch các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư, người dân có thể tham gia tích cực, phát huy tính dân chủ, giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước và tố cáo các hành vi tiêu cực, trái với quy định
của pháp luật của những cán bộ, công chức trong quá trình thực thi quyền hạn của
mình. Từ đó, góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Thứ ba, đối với việc thu hồi đất ở của người dân trong các dự án xây dựng
khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị thì thông thường việc thu hồi đất ở chỉ được thực
hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư.
Nguyên tắc này đảm bảo tâm lý yên tâm đối với người có đất bị thu hồi, đồng thời
khắc phục những khó khăn về chỗ ở, số tiền hỗ trợ thuê nhà, chờ đợi nhà ở... của
người bị thu hồi đất ở.
Thứ tư, nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh
doanh khi nhà nước thu hồi đất. Đây là nguyên tắc chung của pháp luật về thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Nguyên tắc này thể hiện hai nội dung cơ bản:
(1) Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền
với đất bị thiệt hại thì được bồi thường; (2) Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi
thường thiệt hại.
1.2.2. Các yếu tố chi phối pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về thu hồi, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư nói riêng.

15



Quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng là sự định hướng về mặt chính
trị cho hoạt động lập pháp ở nước ta. Vì vậy, pháp luật là sự thể chế hóa đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng. Đối với pháp luật đất đai cũng vậy. Theo đó, Nhà
nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hằng năm đã được xét duyệt.
Quy định rõ ràng và cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất
để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội. Đối với các dự án sản xuất, kinh
doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng
được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà đầu tư để
thực hiện dự án. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc trách nhiệm
của Ủy ban nhân dân các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Kiện toàn,
nâng cao năng lực của tổ chức có chức năng phát triển quỹ đất để bảo đảm thực thi
nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất [16].
Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm
dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định của pháp luật. Người
sử dụng đất được bồi thường theo mục đích đất đang sử dụng hợp pháp. Tổ chức
thực hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất và
bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu hồi. Nghiên cứu phương
thức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ để bảo đảm ổn định đời sống lâu dài cho người
có đất bị thu hồi. Hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn xây dựng
các khu dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để bố trí chỗ ở mới cho
người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa. Khu dân cư được xây dựng
phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền.
Thứ hai, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tác động lớn đến pháp luật tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Hiến pháp năm 2013, được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, tiếp tục
nhất quán khẳng định “… đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”. Tại


16


Chương I, Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 ghi: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao quyền sử dụng
đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này” [65].
Nói đất đai thuộc chế độ SHTD, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý, điều này có nghĩa là, SHTD không phải là sở hữu nhà nước
về đất đai. Nhà nước chỉ là đại diện cho chủ SHTD, tức là toàn thể công dân của
một nước. Nhà nước thay mặt toàn dân quy định việc phân định các quyền năng
và cơ cấu các chủ thể thực hiện các quyền năng này nhằm khai thác, sử dụng có
hiệu quả đất đai. Và quy định việc phân chia lợi ích thu được từ đất đai đáp ứng
yêu cầu của toàn dân và của toàn xã hội. Theo Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước
có được một tập hợp các quyền cơ bản: Quyền sở hữu; quyền định đoạt và quyền
quản lý [68].
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tác động đến pháp luật về thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư như sau: (1) trong trường hợp thật cần thiết khi Nhà nước
có nhu cầu sử dụng đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, phát triển
kinh tế… thì Nhà nước mới thực hiện việc thu hồi đất có bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư cho người sử dụng đất; (2) việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu
hồi đất căn cứ vào khung giá đất do Nhà nước xác định tại thời điểm thu hồi đất chứ
không căn cứ vào giá đất trên thị trường; (3) không phải bất cứ ai bị thu hồi đất
cũng được nhà nước bồi thường mà chỉ những người sử dụng đất đáp ứng các điều
kiện do pháp luật quy định mới được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; (4)
không phải bất cứ cơ quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền thu hồi đất mà chỉ
những cơ quan được pháp luật quy định có thẩm quyền thu hồi đất thì mới được thu
hồi đất.
Thứ ba, cơ chế quản lý kinh tế tác động đến pháp luật tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất, đặc biệt là trong các dự án xây dựng đô thị mới, chỉnh trang đô thị.
Với cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp đất đai không được

thừa nhận là tài sản và càng không được phép trao đổi trên thị trường. Vấn đề thu

17


hồi đất dường như ít gặp phải những khó khăn, phức tạp. Vấn đề tái định cư trong
thời kỳ này cũng chưa được quan tâm. Tuy nhiên, với cơ chế quản lý kinh tế thị
trường công tác quản lý nhà nước về đất đai có khởi sắc mới, đồng thời cũng phát
sinh những khó khăn, phức tạp khi việc thu hồi và tái định cư thiếu đồng thuận, xảy
ra tranh chấp, khiếu kiện.
Công tác quản lý nhà nước về đất đai ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững. Làm tốt công tác quản lý đất đai sẽ góp phần tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư và đời sống người dân. Ở
các đô thị, hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, sinh sống của dân cư đều
gắn liền với đất đai trong giới hạn của không gian đô thị. Đất đai đô thị được
coi là nền tảng phát triển đô thị. Nó được hình thành từ sự chuyển đổi mục đích
sử dụng của các loại đất khác. Chính bởi vậy, quản lý nhà nước đối với sử dụng
đất đô thị mang tính đặc thù, được xuất phát từ tính chất đặc thù trong các hoạt
động của đô thị.
Thứ tư, quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập quốc tế mang đến những cơ hội và thách thức cho Việt
Nam. Để khắc phục những hạn chế, vượt qua những thách thức, thực hiện thành
công các mục tiêu và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa X “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới” trong tình hình mới gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, nhất là nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại
nền kinh tế theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Một trong những giải pháp được đặt ra là: Rà soát, hoàn thiện quy hoạch

phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục
không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Trên cơ sở các quy hoạch
và kế hoạch được phê duyệt, tập trung các nguồn lực của Nhà nước và các thành

18


phần kinh tế để đầu tư, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ
tầng giao thông, đô thị và xây dựng nông thôn mới; đồng thời cần tạo lập cơ chế,
chính sách để thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
tham gia hình thành và phát triển các chuỗi giá trị liên kết vùng nhất là đối với
những sản phẩm chủ lực. Chuyển đổi căn bản cấu trúc kinh tế truyền thống theo
hướng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và
tiêu dùng sạch, bền vững, từng bước phát triển năng lượng sạch… Những nội
dung này đã có những tác động không nhỏ đến pháp luật về thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.
Bên cạnh đó, các nguyên tắc về bình đẳng, không phân biệt đối xử trong
kinh doanh; nguyên tắc công khai, minh bạch, cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế một cửa, một đầu mối và thống nhất quy trình chung áp dụng cho cả nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư ngoài nước trong công tác giải phóng mặt bằng
để thực hiện các dự án đầu tư, cơ chế một giá trong quá trình áp giá bồi
thường… là những nội dung quan trọng của pháp luật về thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.
1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Nội dung cơ bản của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất gồm:
Thứ nhất, các quy định về nguyên tắc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ hai, các quy định về điều kiện tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ ba, nội dung tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
Thứ tư, các nội dung về trình tự, thủ tục thu hồi đất, tái định cư bao gồm việc
xác định cụ thể các bước thực hiện từ xây dựng kế hoạch, thực hiện kế hoạch và

xem xét, đánh giá sau khi hoàn thành.
Thứ năm, vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo về tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất trong các dự án đầu tư khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị.

19


×