Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài bằng tòa án từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI BẰNG TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

PHẠM THỊ THANH THỦY

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ THÚY

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả số liệu nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của
các cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận văn là mới
và chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 01 tháng 10 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA NGƢỜI HƢỚNG

NGƢỜI CAM ĐOAN

DẪN KHOA HỌC


TS. Trần Thị Thuý

Phạm Thị Thanh Thủy


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của các thầy
cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thúy đã
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã đem
lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong thời gian học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo sau
đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những
người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Thanh thủy


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN VIỆT
NAM............................................................................................................................8
1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinhdoanh, thƣơng
mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án Việt Nam ..........................................................8

1.1.1 Khái niệm về tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài và
giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án
Việt Nam: ............................................. 8
1.1.2 Phân loại tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài ... 18
1.1.3 Đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại có yếu tố nƣớc
ngoài tại Tòa án Việt Nam ................................. 20
1.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài
tại Tòa án Việt Nam ..................................................................................................24
1.2.1. Nguyên tắc bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích quốc gia ........ 24
1.2.2. Nguyên tắc ƣu tiên áp dụng điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên
................................................... 26
1.2.3 Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận, quyền và lợi ích chính đáng của các
bên tranh chấp ......................................... 26
1.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc
ngoài tại Tòa án Việt Nam ........................................................................................27
1.3.1. Đối với thƣơng mại quốc tế............................. 27
1.3.2. Đối với Tòa án Việt Nam .............................. 28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN Ở
VIỆT NAM ...............................................................................................................30
2.1. Thẩm quyền của tòa án việt nam đối với việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài ..............................................................................30
2.1.1. Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh từ hợp đồng .......... 30


2.1.2. Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh ngoài hợp đồng ....... 34
2.2. Pháp luật áp dụng đối với việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại
có yếu tố nƣớc ngoài tại tòa án việt nam...................................................................35

2.2.1. Pháp luật áp dụng đối với hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại có yếu tố
nƣớc ngoài phát sinh ..................................... 35
2.2.2. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ kinh doanh, thƣơng mại có yếu tố nƣớc
ngoài phát sinh ngoài hợp đồng .............................. 48
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI CÓ YÊU TỐ NƢỚC
NGOÀI TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM ......................................................................56
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ...........................................................................56
3.1.1. Số liệu thụ lý và giải quyết án tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố
nƣớc ngoài tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội .................. 56
3.1.2.Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc
ngoài của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ..................... 57
3.1.3. Nguyên nhân và kết quả giải quyết ........................ 58
3.1.4. Một số vấn đề khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình giải quyết vụ án tranh
chấp thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài. ......................... 60
3.2. Một số kiến nghị các vấn đề liên quan đế pháp luật áp dụng đối với việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án Việt Nam
...................................................................................................................................69
3.2.1. Các vấn đề liên quan đến pháp luật áp dụng đối với hợp đồng kinh doanh,
thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh ....................... 69
3.2.2. Các vấn đề liên quan đến pháp luật áp dụng đối với hợp đồng kinh doanh,
thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh ngoài hợp đồng ............ 71
3.3. Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội ................................................................................................................72
KẾT LUẬN ...............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO:........................................................................................80




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế theo cả chiều sâu và chiều rộng
đã làm các quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài
(YTNN) diễn ra ngày cành phổ biễn. Sự giao thoa giữa các luồng giao dịch thƣơng
mại có YTNN ngày càng đa dạng, dẫn đến các tranh chấp phát sinh cũng tăng theo
tỷ lệ tƣơng ứng.
Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thƣơng nhân khi tham gia vào
các quan hệ tố tụng dân sự có YTNN, đồng thời đảm bảo quyền tự do kinh doanh,
sự bình đẳng, công khai, minh bạch cho thƣơng nhân nƣớc ngoài khi tham gia tố
tụng tại Tòa án nƣớc mình, các quốc gia đã ban hành Luật tố tụng dân sự trong đó
chứa đựng các quy phạm xác định địa vị pháp lí của các bên tranh chấp, trình tự thủ
tục giải quyết vụ án, đặc biệt nhứng quy dịnh mang tính đặc thù của loại vụ việc,
nhƣ: giải quyết xung đột về thẩm quyền xét xử, xung dột pháp luật, vấn đề tƣơng
trợ tƣ pháp. Đây là những vấn đề thƣờng xuyên đƣợc đặt ra khi GQTC dân sự có
YTNN nói chung và tranh chấp thƣơng mại có YTNN nói riêng. Ngoài ra, các quốc
gia còn gia nhập hoặc kí kết các ĐƢQT để cùng nhâu thống nhất các nội dung này.
Đối với Việt Nam, qua nhiều năm thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Bộ
luật TTDS 2015) đã bộc lộ những bất cập, trình trạng đó dẫn đến hạn chế các giao
dịch thƣơng mại quốc tế hay trực tiếp ảnh hƣởng quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia tố tụng dân sự. Chính vì vậy, có quan điểm cho rằng các tranh chấp
thƣơng mại có YTNN, các bên ít khởi kiện tại Tòa án Việt Nam. Một trong các lí do
đó là, sự công bằng, khách quan, minh bạch trong tố tụng chƣa đƣợc đảm bảo thực
chất, gây tâm lí e ngại cho các bên khởi kiện tại Tòa án Việt Nam. Bộ luật TTDS
2015 đã dành phần chín quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nƣớc ngoài và tƣơng trợ tƣ pháp trong tố tụng dân sự. Sự ra đời của Bộ luật TTDS
2015 đã khắc phục những các quy định về thẩm quyền xét xử vừa bó hẹp, vừa có
nhiều lỗ hổng, chồng chéo trong Bộ luật TTDS 2004 với các quy định của pháp luật


1


thƣơng mại, với các quy định của ĐƢQT mà Việt Nam ký kết. Vì vậy, góp phần
nâng cao hiệu quả đàm phán, ký kết hợp đồng thƣơng mại quốc tế trong việc thỏa
thuận chọn luật áp dụng và chọn cơ quan GQTC. Do vậy, khẳng định nguyên tắc
các bên đƣợc lựa chọn pháp luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc
ngoài và quan hệ thƣơng mại có YTNN nói riêng; làm rõ việc lựa chọn tòa án trong
việc GQTC thƣơng mại có YTNN là cơ sở để thúc đẩy giao lƣu thƣơng mại quốc tế.
Nếu nhƣ, trong lĩnh vực tố tụng dân sự quốc tế, qua số liệu thống kê của Tòa án
nhân dân tối cao, từ năm 2006 đến hết tháng 3 năm 2013, toàn ngành Tòa án đã
giải quyết 514.113 vụ việc dân sự, trong đó 12.473 là vụ việc dân sự có YTNN
(chiếm 2,42%). Với sự ra đời của Bộ luật tố tụng năm 2015 đã có bổ sung quy định
thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam phù hợp với quy định của luật chuyên
ngành (luật hàng không dân dụng và Bộ luật hàng hải), khắc phục một phần trong
các bất cập vấn đề tƣơng trợ tƣ pháp hiện nay tuy nhiên trên thực tế vấn đề GQTC
thƣơng mại có YTNN vẫn có nhiều vƣớng mắc.
Vì vậy, để tiếp tục nâng cao hoạt động xét xử đối với các tranh chấp thƣơng
mại có YTNN cũng nhƣ tiếp tục tìm ra những rào cản trong các quy định của pháp
luật về GQTC thƣơng mại có YTTNN nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
về giải quyết tranh chấp thƣơng mại có YTNN có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Xuất
phát từ yêu cầu nêu trên mà các tác giả đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài bằng Tòa án từ thực tiễn Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội” để làm đề tài thạc sỹ luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài bằng
Tòa án là vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của tƣ pháp quốc tế. Khi nghiên cứu vấn
đề này, có thể thấy các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và ở nƣớc ngoài thƣờng
bắt đầu bằng việc nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung của tƣ pháp quốc tế nói
chung và những vấn đề về giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố

nƣớc ngoài nói riêng. Tiếp theo là những công trình nghiên cứu cụ thể và chuyên
sâu phân tích những vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp kinh doanh

2


thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án nhƣ: Những nghiên cứu về tranh chấp
kinh doanh thƣơng mại, về tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài,
về các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp kinh
doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh từ hợp đồng, thẩm quyền của Tòa
án đối với tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh ngoài
hợp đồng, về luật áp dụng để giải quyết loại hình tranh chấp này...
Ở Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thƣơng mại và hội nhập quốc tế hiện
nay, hoạt động kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài ngày càng trở nên sôi
động, đa dạng và phức tạp, làm phát sinh nhiều tranh chấp và cũng là đề tài nóng
bỏng của các công trình nghiên cứu. Ngoài các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật
nhƣ: Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà
Nội - khoa Luật, các sách chuyên khảo về Tƣ pháp quốc tế, về Luật Thƣơng mại
Quốc tế, Luật phá sản và giải quyết tranh chấp thƣơng mại, còn có các công trình
nghiên cứu có liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp trong tƣ pháp quốc tế nói
chung và việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài
nói riêng.
Tiêu biểu trong số đó, có cuốn sách tên gọi: “Giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại có yếu tố nước ngoài: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
tác giả Nguyễn Trung Tín (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2009) phân tích một
số vấn đề lý luận về GQTC KDTM có YTNN bằng thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng
tài, TA và một số kinh nghiệm GQTC kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài
ở một số quốc gia bằng trọng tài trong giai đoạn này. Tuy nhiên công trình này chƣa
phân tích các vấn đề về thực tiễn giải quyết tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài bằng
Tòa án ở Việt Nam, đặc biệt chƣa phân tích vấn đề về thẩm quyền của Tòa án cũng

nhƣ lựa chọn pháp luật áp dụng đối với tranh chấp kinh doanh thƣơng mại ngoài
hợp đồng.
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hồng Nam “Thẩm quyền Tòa án Việt
Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” (Bảo vệ năm 2016 tại
Khoa Luật đại học Quốc gia Hà Nội) đã làm rõ đƣợc một số khái niệm về thẩm

3


quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài,
xung đột thẩm quyền của Tòa án, mối quan hệ giữa Tòa án và trọng tài trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, các tiêu chí cơ bản trong việc
xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nƣớc ngoài.
Ngoài ra còn có đề tài cấp trƣờng (nghiệm thu năm 2015) của Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong điều kiện sửa đổi Bộ
luật dân sự” (do tác giả Trần Minh Ngọc làm Chủ nhiệm), Sách chuyên khảo “Giải
quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại quốc tế” của tác giả Nguyễn
Ngọc Lâm (Nxb Chính trị Quốc gia năm 2010)...
Phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy chƣa có công
trình nghiên cứu ở cấp độ Luận văn Thạc sỹ về Giải quyết tranh chấp kinh doanh
thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, Bộ luật Dân sự 2005 đã đƣợc
thay thế bằng Bộ luật dân sự 2015 và những quy định quan hệ dân sự có yếu tố
nƣớc ngoài đã có nhiều sửa đổi, vì vậy có rất nhiều vấn đề liên quan đến giải quyết
tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án Việt Nam, cụ thể
từ thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cần đƣợc tiếp tục
nghiên cứu một cách cụ thể hơn, phù hợp với những nội dung mới có liên quan
trong Bộ luật dân sự 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở luận giải để làm rõ những vấn đề
lý luận có liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu
tố nƣớc ngoài tại Tòa án nói chung và thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội nói riêng trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, đúc kết kinh
nghiệm từ thực tiễn áp dụng tại TAND TP Hà Nội, chỉ ra những bất cập và yếu kém
trong việc giải quyết loại hình tranh chấp này, đƣa ra các kiến nghị giải pháp hoàn

4


thiện pháp luật theo hƣớng đảm bảo sự việc tôn trọng quyền tự do của các bên
tranh chấp với việc thực thi chủ quyền quốc gia, đáp ứng nhu cầu hội nhập.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích tổng quát các về đề lý luận về tranh chấp thƣơng mại có yếu tố
nƣớc ngoài và GQTC thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án, nhƣ: làm sáng tỏ
khái niệm, đặc điểm tranh chấp thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài; khái niệm, đặc
điểm, nội dung pháp luật về GQTC thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật GQTC thƣơng mại có yếu tố nƣớc
ngoài tại Tòa án; phân tích đánh giá từ thực tiễn tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
về vấn đề này nhằm đƣa ra kết quả đạt đƣợc, các vƣớng mắc, hạn chế trong thực thi;
+ Phân tích làm sáng tỏ định hƣớng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về GQTC thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án trong điều kiện
hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy phạm pháp luật hiện hành GQTC thƣơng mại có
yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc

ngoài bằng Tòa án là vấn đề rất rộng. Trong phạm vi của một luận văn tốt nghiệp
cao học và phạm vi của đề tài, tác giả chỉ đi sâu vào vấn đề xác định thẩm quyền
của Tòa án nhân dân TP Hà Nội đối với tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu
tố nƣớc ngoài và vấn đề xác định pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp kinh
doanh thƣơng mại đó. Nội dung phân tích của Luận văn sẽ bao gồm cả vấn đề thẩm
quyền cũng nhƣ pháp luật áp dụng khi, giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng
mại có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh từ Hợp đồng và ngoài Hợp đồng, khí có sự thỏa
thuận của các bên và khi không có sự thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh.

5


5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
- Phƣơng pháp tổng hợp và hệ thống hóa: phƣơng pháp này đƣợc sử dụng
chủ yếu ở chƣơng 1 để hệ thống hóa và tổng hợp những vấn đềcó tính lý luận liên
quan đến đề tài của Luận án, hệ thống hóa và tổng hợp các công trình nghiên cứu
của các tác giả đi trƣớc để chỉ ra những vấn đề đã đƣợc giải quyết và những vấn đề
còn chƣa đƣợc giải quyết, và cũng chính là nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn.
- Phƣơng pháp phân tích: phƣơng pháp có sự đánh giá, bình luận vừa đƣa ra
các vấn đề có liên quan đến nội dung của Luận văn, đƣợc áp dụng xuyên suốt trong
toàn bộ nội dung Luận văn từ chƣơng 2 đến chƣơng 4. Tác giả phân tích các quy
định của pháp luật Việt Nam, những vấn đề về lý luận nhƣ khái niệm, đặc điểm
tranh chấp, phân tích quy định về xác định thẩm quyền của TAND TP Hà Nội trong
việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài, các quy
định về pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố
nƣớc ngoài tại Tòa án ND TP Hà Nội phát sinh từ Hợp đồng và phát sinh ngoài
Hợp đồng.
- Phƣơng pháp so sánh luật học: Là phƣơng pháp đòi hỏi việc phân tích các
quy định của pháp luật Việt Nam và đặt trong mối quan hệ so sánh với pháp luật
của 1 số nƣớc thuộc phạm vi nghiên cứu, từ đó chỉ ra sự tƣơng đồng và khác biệt,

nguyên nhân, mặt mạnh yếu của giải pháp pháp lý ở các nƣớc, đặt giải pháp đó
trong điều kiện thực tế của Thủ đô Hà Nội để so sánh, luận giải, từ đó làm cơ sở
khoa học cho các giải pháp cụ thể.
Từ các phƣơng pháp trên, tác giả có đƣợc kết quả để đánh giá và nghiên cứu
những nội dung cơ bản của luận văn.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.Luận văn
chia làm 3 chƣơng.
Chƣơng 1 : Những vấn đề lý luận về công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định trong kinh doanh, thƣơng mại của TANN tại Việt Nam và kinh nghiệm của
một số nƣớc;

6


Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng
mại có yếu tố nƣớc ngoài tại tòa án ở Việt Nam;
Chƣơng 3: Thực tiễn và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thƣơng mại có yêu tố nƣớc ngoài tại Tòa án ở Việt Nam.

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinhdoanh,
thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài và

giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài tại Tòa án
Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài
Luật pháp của các nƣớc khác nhau thì có quy định khác nhau về khái niệm
này. Cho đến thời điểm này, trên thế giới vẫn chƣa có cách hiểu thống nhất về khái
niệm tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài. Theo tác giả, để có
cách hiểu đúng về tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài, cần làm
rõ các khái niệm về tranh chấp, tranh chấp kinh doanh thƣơng mại và tranh chấp
kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài.
- Khái niệm về tranh chấp:
Toà án Công lý Quốc tế trong các án lệ của mình định nghĩa rằng: “Một tranh
chấp là một sự bất đồng về một vấn đề pháp lý hay thực tế, một sự xung đột về quan
điểm pháp lý hay lợi ích giữa hai bên.”
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông “tranh chấp là sự giành nhau một cách
giằng co cái không rõ về bên nào” hoặc “đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất
đồng, thường là vấn đề quyền lợi của hai bên”; theo Black’ Law Dicitionary do
West Pub Co xuất bản năm 1999 thì, “tranh chấp là mâu thuẫn, bất đồng; sự mâu
thuẫn về các yêu cầu hay quyền; sự đòi hỏi về quyền, yêu cầu hay đòi hỏi từ một
bên được đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược của bên kia”.

8


Điều 238 Luật Thƣơng mại 1997 lần đầu tiên đƣa ra khái niệm về tranh chấp
thƣơng mại : “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Đến Luật
thƣơng mại năm 2005 thì khái niệm này đã không còn đƣợc sử dụng nữa.
Nghiên cứu pháp luật EU và một số nƣớc cho thấy, hầu nhƣ không tồn tại khái
niệm mang tính pháp lý cụ thể nêu rõ thế nào là “tranh chấp”, thay vào đó, pháp luật
EU và một số nƣớc chỉ đƣa ra khái niệm hoặc liệt kê nội hàm của các tranh chấp

trong các lĩnh vực cụ thể nhƣ tranh chấp thƣơng mại, tranh chấp lao động, tranh
chấp tài sản...
Theo tác giả, nếu nói tranh chấp là những bất đồng, những mâu thuẫn, những
xung đột về thẩm quyền và lợi ích khi tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định,
thì những mâu thuẫn, bất đồng đó chỉ trở thành tranh chấp khi những mâu thuẫn, bất
đồng đó trở nên không thể dung hòa đƣợc, buộc các bên phải tìm đến một pháp giải
quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
- Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại:
Tranh chấp kinh doanh thƣơng mại là những tranh chấp phát sinh từ hoạt động
kinh doanh thƣơng mại. Vậy, “kinh doanh thƣơng mại” là gì?
Nghiên cứu tại Việt Nam thì tác giả nhận thấy không có khái niệm về kinh
doanh thƣơng mại, mà thay vào đó là khái niệm về “kinh doanh” (theo Luật Doanh
nghiệp 2014) và khái niệm về “thƣơng mại” (theo Luật Thƣơng mại 2005). Tại
khoản 16 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định “kinh doanh là việc thực hiện
liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ, từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo khoản 1 điều 3 Luật Thƣơng mại 2005, “hoạt động thƣơng mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc
tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Nhƣ vậy có thể
thấy, ở hai quy định này, một quy định hƣớng về tính liên tục trong việc thực hiện
hoạt động kinh doanh, đó là khái niệm về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp

9


2014, môt quy định hƣớng về nội dung trong hoạt động của thƣơng nhân, đó là khái
niệm hoạt động thƣơng mại theo Luật Thƣơng mại 2005.
Theo quy định tại điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, mặc dù không đƣa ra
khái niệm về “tranh chấp kinh doanh thƣơng mại” nhƣng điều luật lại liệt kê các
tranh chấp cụ thể, theo đó, tranh chấp kinh doanh thƣơng mại bao gồm 5 nhóm:

“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật” [28].
Tuy nhiên, điều 30 Bộ luật TTDS 2015 bó hẹp 5 nhóm tranh chấp kinh doanh
thƣơng mại trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bỏ ngõ những tranh chấp
thƣơng mại khác không thuộc 05 nhóm trên sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan khác. Qua nội dung các tranh chấp thƣơng mại đƣợc liệt kê trong 05 nhóm kể
trên, thực chất là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thƣơng mại theo quy
định của Luật Thƣơng mại 2005. Mặt khác, căn cứ vào khái niệm hoạt động thƣơng
mại quy định tại khoản 1 điều 3 Luật Thƣơng mại 2005 và Khái niệm Kinh doanh
tại khoản 16 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì nội hàm của khái niệm hoạt động
thƣơng mại và khái niệm kinh doanh là tƣơng đối đồng nhất do chúng có cùng mục

10


đích sinh lợi. Do vậy, theo tác giả, chỉ cần quy định tranh chấp thƣơng mại thuộc
thẩm quyền của Tòa án bao gồm những tranh chấp nào là đủ. Tuy nhiên, cũng có
quan điểm cho rằng “kinh doanh” là khái niệm rộng hơn “thƣơng mại”, nhƣ Giáo

trình Luật thƣơng mại quốc tế của Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
cũng đề cập về nội hàm của khái niệm “kinh doanh quốc tế” và cho rằng “kinh
doanh quốc tế” là hoạt động “thƣơng mại quốc tế tƣ” với nội hàm của khái niệm
“kinh doanh” đƣợc hiểu là hoạt động thƣơng mại theo nghĩa rộng.
Qua quá trình nghiên cứu, tôi cho rằng, hoạt động kinh doanh và hoạt động
thƣơng mại trong một số trƣờng hợp có thể trùng lặp về mặt ngữ nghĩa, song nội
hàm của hai thuật ngữ này vẫn có sự khác biệt. Khái niệm “thƣơng mại” thiên về
yếu tố khách quan, liên quan đến nội dung hoạt động , còn khái niệm “kinh doanh”
lại thiên về yếu tố chủ quan, liên quan đến chủ thể thực hiện hành vi, thực tiễn hay
đƣợc gọi là các chủ thể kinh doanh.
Ở Việt Nam, khái niệm kinh doanh và khái niệm thƣơng mại đã đƣợc luật hóa
trong Luật Doanh nghiệp và Luật Thƣơng mại. Mặc dù đối tƣợng và phạm vi điều
chỉnh của các luật này có những điểm khác nhau nhƣng nếu chỉ mổ xẻ ở khái niệm
thuật ngữ luật học thì hai khái niệm này có nhiều điểm chung, trong đó điểm chung
nổi bật là mục đích của chúng đều nhằm sinh lợi. Nói cách khác, tôi cho rằng kinh
doanh và thƣơng mại là hai khái niệm chỉ các hoạt động thƣơng mại do các chủ thể
kinh doanh thực hiện nhằm mục đích sinh lợi. Do đó, có thể gọi chung hoạt động
kinh doanh và hoạt động thƣơng mại là hoạt động kinh doanh thƣơng mại và các
tranh chấp phát sinh từ các hoạt động này chính là các tranh chấp kinh doanh
thƣơng mại. Nhƣ vậy, “tranh chấp kinh doanh thƣơng mại” là những tranh chấp
phát sinh từ các hoạt động thƣơng mại do các chủ thể kinh doanh thực hiện.
- Khái niệm về “yếu tố nước ngoài” trong “tranh chấp kinh doanh, thương
mại có yếu tố nước ngoài”:
Liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài của tranh chấp kinh doanh thƣơng mại, có
thể nhận định rằng, so với các tranh chấp kinh doanh thƣơng mại trong nƣớc, tranh
chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài có đặc điểm là chúng mang yếu

11



tố nƣớc ngoài, tức là những tranh chấp này có “tính quốc tế”. Theo khoản 2 điều
464 BLTTDS 2015, tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài phát
sinh khi một trong các bên tham gia là ngƣời nƣớc ngoài, cơ quan, tổ chức nƣớc
ngoài hoặc các quan hệ kinh doanh thƣơng mại giữa các bên là công dân, cơ quan,
tổ chức Việt Nam với nhau nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt hoặc thực
hiện mối quan hệ xảy ra ở nƣớc ngoài hoặc đối tƣợng của quan hệ dân sự đó ở nƣớc
ngoài. Nhƣ vậy, để xác định yếu tố nƣớc ngoài trong các quan hệ này, pháp luật
Việt Nam đƣa ra ba tiêu chí là chủ thể, sự kiện pháp lý và đối tƣợng của mối quan
hệ kinh doanh thƣơng mại.
Thứ nhất, về tiêu chí chủ thể của quan hệ kinh doanh thương mại có yếu tố
nước ngoài: theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 464 Bộ luật tố tụng dân sự 2015,
tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài là tranh chấp phát sinh khi
có ít nhất một trong các bên tham gia là ngƣời nƣớc ngoài, có quan, tổ chức nƣớc
ngoài. Theo khoản 1 điều 6 Luật Thƣơng mại 2005, chủ thể trong hoạt động kinh
doanh thƣơng mại là thƣơng nhân, bao gồm tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng ký
kinh doanh.
Thƣơng nhân nƣớc ngoài có thể là cá nhân hoặc là cơ quan, tổ chức: Về
Thƣơng nhân nƣớc ngoài là cơ quan, tổ chức: trong chính Bộ luật dân sự 2015 và
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 lại có sự không thống nhất khi quy định liên quan đến
chủ thể này. Theo Bộ luật dân sự 2015, ngƣời nƣớc ngoài, chủ thể có yếu tố nƣớc
ngoài là pháp nhân nƣớc ngoài. Trong khi Bộ luật tố tụng dân sự 2015 lại quy định
chủ thể là cơ quan, tổ chức nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, sẽ phát sinh trƣờng hợp, một chủ
thể kinh doanh nƣớc ngoài sẽ tham gia vào hoạt động tố tụng tại Tòa án Việt Nam
với tƣ cách cơ quan, tổ chức nƣớc ngoài theo quy định tại điều 464 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 nhƣng theo Bộ luật dân sự 2015 thì chủ thể đó lại tham gia vào quan hệ
dân sự có yếu tố nƣớc ngoài với tƣ cách là cá nhân. Vì có thể xảy ra trƣờng hợp các
chủ thể là cơ quan, tổ chức nƣớc ngoài tham gia vào quan hệ kinh doanh thƣơng
mại có yếu tố nƣớc ngoài nhƣng lại không có tƣ cách pháp nhân theo pháp luật


12


nƣớc ngoài đó (ví dụ nhƣ theo pháp luật của nƣớc Anh thì công ty hợp danh lại
không có tƣ cách pháp nhân). Điều này có thể dẫn đến việc xác định thẩm quyền
hoặc pháp luật áp dụng cho chủ thể đó có thể là khác nhau cho từng tƣ cách. Với tƣ
cách là cá nhân, có thể áp dụng căn cứ nơi cƣ trú, luật nơi cƣ trú hoặc luật quốc tịch.
Với tƣ cách cơ quan, tổ chức sẽ áp dụng căn cứ nơi thành lập, hoặc luật nơi thành
lập cơ quan, tổ chức đó. Việc quy định nhƣ trên trong Bộ luật dân sự 2015 xuất
phát từ việc Bộ luật này đã loại trừ các chủ thể là các tổ chức không có tƣ cách pháp
nhân trong quan hệ dân sự nhƣ hộ gia đình, tổ hợp tác theo hƣớng cá thể hóa các cá
nhân chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch mà họ xác lập,
thực hiện nhân danh hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tƣ cách pháp
nhân. Do đó, để đảm bảo sự tƣơng thích với các quy định này, Bộ luật dân sự đã có
quy định mang tính loại trừ các chủ thể là các cơ quan, tổ chức khác tại khoản 2
điều 663. Nếu các cơ quan, tổ chức nƣớc ngoài không có tƣ cách pháp nhân tham
gia vào các quan hệ kinh doanh thƣơng mại thì quan hệ đó vẫn đƣợc xem là quan hệ
có yếu tố nƣớc ngoài, các tổ chức đó sẽ tham gia với tƣ cách nhân danh của cá
nhân, và chủ thể này nằm trong nội hàm của khái niệm ngƣời nƣớc ngoài. Tuy
nhiên, nếu khi có tranh chấp xảy ra, căn cứ xác định thẩm quyền hay căn cứ lựa
chọn pháp luật áp dụng sẽ có sự khác biệt, thay vì theo luật của nƣớc nơi đăng ký
thành lập tổ chức đó để điều chỉnh vấn đề năng lực pháp luật của tổ chức đó theo
điều 676 Bộ luật dân sự 2015, thì hiện nay với quy định này, Tòa án lại phải áp
dụng luật của nƣớc mà ngƣời đứng đầu tổ chức đó mang quốc tịch để điều chỉnh
năng lực hành vi dân sự của họ theo điều 674 Bộ luật dân sự 2015.
Về Thƣơng nhân nƣớc ngoài là cá nhân: trƣớc đây, theo điều 758 Bộ luật dân
sự 2005 và điều 405 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (đều đã hết hiệu lực), chủ thể là cá
nhân nƣớc ngoài đƣợc hiểu bao gồm ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở
nƣớc ngoài. Theo quy định tại khoản 3 điều 3 của Luật Quốc tịch năm 2008 (đƣợc
sửa đổi và bổ sung năm 2014), ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài có thể là công

dân Việt Nam hoặc ngƣời gốc Việt Nam là công dân nƣớc ngoài cƣ trú, làm ăn sinh
sống lâu dài ở nƣớc ngoài. Tuy nhiên, hiện nay không có quy định rõ thời hạn cƣ
trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nƣớc ngoài trong bao lâu thì đƣợc gọi là “lâu dài”.

13


Vì vậy quy định của Bộ luật dân sự 2005 có bất cập là gây ra cách giải thích khác
nhau và khó khăn khi áp dụng trên thực tế. Đồng thời, khoản 2 điều 758 Bộ luật
dân sự 2005 cũng dẫn đến việc cùng là công dân Việt Nam nhƣng luật áp dụng lại
khác nhau giữa công dân Việt Nam sinh sống ở nƣớc ngoài và công dân Việt Nam
sinh sống ở Việt Nam, tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ dân sự có yếu tố
nƣớc ngoài. Vì vậy, theo điểm a khoản 2 điều 663 Bộ luật dân sự 2015 đã khắc
phục đƣợc sự bất cập đó, chủ thể “ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài” đã bị
loại trừ khỏi tiêu chí chủ thể khi xác định yếu tố nƣớc ngoài. Việc loại trừ này
nhằm mục đích để làm rõ địa vị pháp lý của nhóm đối tƣợng này trong quan hệ
pháp luật dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, đảm bảo tính dự đoán trƣớc đƣợc của các
quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài và sự bình đẳng của nhóm chủ thể này với
các nhóm chủ thể khác.
=> Có thể nhận thấy, việc đƣa ra quy định giới hạn chủ thể có yếu tố nƣớc
ngoài chỉ bao gồm cá nhân nƣớc ngoài và pháp nhân nƣớc ngoài trong Bộ luật dân
sự 2015 không những không đảm bảo sự thống nhất với cách hiểu về yếu tố nƣớc
ngoài trong văn bản pháp luật khác mà còn thể hiện sự không phù hợp với xu thế
chung của các nƣớc. Cụ thể, pháp luật Hoa Kỳ không quy định cụ thể về xác định
giới hạn về tiêu chí chủ thể có yếu tố nƣớc ngoài chỉ bao gồm các pháp nhân theo
cách hiểu của luật quốc nội. Theo đó, một tranh chấp đƣợc xem là có yếu tố quốc tế
khi chỉ cần thỏa mãn điều kiện khi có một hoặc nhiều yếu tố gắn với tranh chấp
kinh doanh thƣơng mại có sự kết nối với một hoặc nhiều hơn một quốc gia nƣớc
ngoài thì tranh chấp đó sẽ thuộc sự điều chỉnh của pháp luật về giải quyết xung đột
trong tƣ pháp quốc tế.

Thứ hai, về tiêu chí sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ kinh doanh thương
mại có yếu tố nước ngoài: Theo điểm b khoản 2 điều 464 Bộ luật tố tụng dân sự
2015, một tranh chấp kinh doanh thƣơng mại đƣợc xem là có yếu tố nƣớc ngoài khi
việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nƣớc ngoài.
Quy định này mang tính khác biệt so với Bộ luật tố tụng dân sự 2004 khi đã bỏ đi
tiêu chí căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nƣớc ngoài.

14


Sự thay đổi này xuất phát từ mục đích ra đời của phần thứ 5 Bộ luật dân sự 2015, vì
phần này quy định về việc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có
yếu tố nƣớc ngoài, nếu việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đã căn cứ theo pháp
luật một nƣớc cụ thể thì không đặt ra vấn đề cần xác định pháp luật áp dụng ở
trƣờng hợp này nữa.
Thứ ba, về tiêu chí đối tượng của quan hệ kinh doanh thương mại có yếu tố
nước ngoài: Điều 758 Bộ luật dân sự 2005 (đã hết hiệu lực) quy định: một quan hệ
kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài là quan hệ mà đối tƣợng của quan hệ
đó là tài sản đang hiện hữu ở nƣớc ngoài. Việc quy định mang tính giời hạn này đã
bó hẹp phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự khi đối tƣợng có yếu tố nƣớc ngoài
chỉ là tài sản. Bởi lẽ, đối tƣợng của quan hệ kinh doanh thƣơng mại nói riêng và
quan hệ dân sự nói chung có thể là tài sản hoặc là lợi ích khác, bao gồm tài sản là
hàng hóa, dịch vụ, quyền kinh doanh thƣơng mại, hoạt động đầu tƣ đƣợc đƣa từ
trong nƣớc ra nƣớc ngoài và ngƣợc lại... Do đó, Bộ luật dân sự 2015 đã bỏ giới hạn
này bằng quy đinh: “các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam
nhƣng đối tƣợng của quan hệ dân sự đó ở nƣớc ngoài”. Đây là điểm mới, tiến bộ
của Bộ luật dân sự 2015 và quy định này phù hợp với thực tiễn kinh doanh thƣơng
mại ở phạm vi quốc tế.
Với các tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài, việc làm rõ
đặc điểm của tính quốc tế, cũng tức là yếu tố nƣớc ngoài của loại hình tranh chấp

này sẽ giúp xác định những tiêu chí quan trọng làm căn cứ cho việc xác định thẩm
quyền của Tòa án cũng nhƣ xác định luật áp dụng trong việc giải quyết các tranh
chấp này. Trong đó, các nguyên tắc thƣờng đƣợc sử dụng bao gồm: nhóm nguyên
tắc liên quan đến quốc tịch hoặc nơi cƣ trú của bị đơn (đƣợc xây dựng trên tiêu chí
chủ thể của tranh chấp), nhóm nguyên tắc liên quan đến nơi ký kết hợp đồng, nơi
thực hiện hợp đồng, nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, nơi thiệt hại xảy ra...(đƣợc xây
dựng trên tiêu chí gắn liền với sự kiện pháp lý có liên quan đến mối quan hệ kinh
doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài); nhóm nguyên tắc có liên quan đến nơi có
tài sản, nơi tài sản đƣợc chuyển đến...(gắn liền với tiêu chí về đối tƣợng của tranh
chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài).

15


Việc xác định yếu tố nƣớc ngoài trong tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có
yếu tố nƣớc ngoài có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để xác định thẩm quyền tài
phán, luật áp dụng cũng nhƣ vấn đề công nhận và cho thi hành phán quyết của Tòa
án nƣớc ngoài. Vì nếu không chấp nhận việc áp dụng pháp luật nƣớc ngoài cho các
tranh chấp này, dựa trên việc thực thi quyền tài phán của quốc gia, tranh chấp sẽ
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong nƣớc và bằng pháp luật quốc gia.
Điều này sẽ ảnh hƣởng rất lớn đến quyền và lợi ích của các chủ thể tranh chấp khi
tham gia vào quan hệ kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài, đến khả năng
thực thi của phán quyết của Tòa án và rộng hơn là đến việc thực thi các cam kết
quốc tế của Việt Nam.
Như vậy, có thể kết luận rằng, tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố
nƣớc ngoài là các mâu thuẫn, bất đồng về quyền và lợi ích phát sinh từ hoặc liên
quan đến các hoạt động kinh doanh thƣơng mại đƣợc thực hiện giữa các chủ thể
kinh doanh ở Việt Nam với các chủ thể kinh doanh của nƣớc ngoài, hoặc giữa các
bên là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam với nhau nhƣng căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt hoặc thực hiện mối quan hệ đó xảy ra tại nƣớc ngoài hoặc đối tƣợng

của quan hệ kinh doanh thƣơng mại đó đang ở nƣớc ngoài. Trong đó, những mâu
thuẫn, bất đồng là đối kháng không thể dung hòa buộc chủ thể kinh doanh thƣơng
mại có yếu tố nƣớc ngoài phải tìm cách giải quyết tranh chấp phát sinh để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Để giải quyết các tranh chấp này, pháp luật quy định
nhiều phƣơng thức giải quyết tranh chấp, trong đó có phƣơng thức giải quyết tranh
chấp tại Tòa án.
1.1.1.2. Khái niệm về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có yếu tố nước
ngoài tại Tòa án Việt Nam
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa
án Việt Nam là phƣơng thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của Tòa án Việt
Nam với ý nghĩa là cơ quan tƣ pháp của Nhà nƣớc Việt Nam. Khi tranh chấp phát
sinh, bên có quyền lợi bị xâm phạm (là thƣơng nhân Việt Nam hoặc nƣớc ngoài) có
thể gửi đơn khởi kiện đến Tòa án Việt Nam để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi

16


ích hợp pháp của mình. Việc Tòa án Việt Nam có chấp nhận đơn khởi kiện hay
không, nếu chấp nhận đơn khởi kiện và thụ lý vào thì sẽ giải quyết theo trình tự, thủ
tục nào? Tất cả những vấn đề này đều do pháp luật tố tụng của Việt Nam hoặc các
điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định. Các quyết định, bản án do
Tòa án tuyên tại mỗi giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp đều có thể đƣợc
bảo đảm thi hành bằng sự cƣỡng chế của Nhà nƣớc phù hợp với quy định của pháp
luật tố tụng và pháp luật về Thi hành án trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
So với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhƣ thƣơng lƣợng, hòa
giải hay trọng tài, phƣơng thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu
tố nƣớc ngoài tại Tòa án Việt Nam có những ƣu điểm và hạn chế riêng:
Về ưu điểm: Phƣơng thức giải quyết tranh chấp này đảm bảo đƣợc tính chặt
chẽ trong thủ tục tố tụng, tính khả thi trong việc thực thi phán quyết của Tòa án so
với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác. Ngoài ra, việc xét xử theo phƣơng

thức công khai của Tòa án, một mặt vừa đảm bảo tính dân chủ, minh bạch (vì các
bên tranh chấp cũng nhƣ bất kỳ ai quan tâm đều có thể tham dự phiên xét xử trừ
những tranh chấp có liên quan đến bí mật quốc gia hay quốc phòng an ninh), mặt
khác còn đảm bảo tính răn đe cho các thƣơng nhân khi có hành vi vi phạm pháp
luật. Bên cạnh đó, với ƣu thế là cơ quan tƣ pháp, đại diện cho quyền lực Nhà nƣớc
trong thực thi tài phán, thực thi chủ quyền quốc gia, Tòa án có đầy đủ chức năng và
thẩm quyền trong việc tiến hành thu thập chứng cứ, quyết định áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời hay triệu tập bên thứ ba tham gia quá trình tố tụng...
Về hạn chế: Do thủ tục tố tụng mang tính chặt chẽ nên nó vừa là ƣu điểm
song đồng thời cũng là hạn chế của phƣơng thức giải quyết tranh chấp này vì nó
thiếu đi tính linh hoạt, quá trình tố tụng có thể phải qua nhiều cấp xét xử khác nhau
nên thời gian giải quyết tranh chấp có thể bị trì hoãn và kéo dài làm ảnh hƣởng đến
hoạt động kinh doanh thƣơng mại của các thƣơng nhân (bởi vì với các thƣơng nhân
thời gian chính là tiền là tài sản, còn quý giá hơn cả tiền và tài sản), thậm chí ảnh
hƣởng lớn đến uy tín của Nhà nƣớc trong việc thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài vì quá
trình xét xử mang tính chính trị hoặc chịu ảnh hƣởng của các hoạt động tiêu cực

17


nhƣ phải bỏ các chi phí không chính thống. Ngoài ra, việc xét xử công khai đôi khi
có thể gây ra tác động tiêu cực cho các bên vì bí mật kinh doanh thƣơng mại sẽ
không đƣợc bảo đảm trong quá trình giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, một hạn
chế lớn của giải quyết tranh chấp tại Tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp kinh
doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài là khả năng công nhận quốc tế và cho thi
hành các phán quyết thƣờng không cao, do phải thông qua các điều ƣớc quốc tế
hoặc các thủ tục tố tụng phức tạp. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết tranh chấp,
các thẩm phán mặc dù phải đảm bảo tính khách quan, song vì nhiều yếu tố khác
nhau tác động, nên họ có xu hƣớng áp dụng các quy tắc tố tụng và pháp luật của
quốc gia mình để loại bỏ việc áp dụng pháp luật nƣớc ngoài mà các bên đã chọn.

Nhƣ vậy, giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài
tại Tòa án Việt Nam là việc giải quyết tại Tòa án Việt Nam các tranh chấp phát sinh
từ hoặc liên quan đến hoạt động kinh doanh thƣơng mại đƣợc thực hiện giữa các
chủ thể kinh doanh ở Việt Nam với các chủ thể kinh doanh ở nƣớc ngoài, hoặc các
quan hệ kinh doanh thƣơng mại giữa các bên là công dân, cơ quan, tổ chức Việt
Nam với nhau nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt hoặc thực hiện mối quan
hệ đó xảy ra tại nƣớc ngoài hoặc đối tƣợng của quan hệ kinh doanh thƣơng mại đó
đang ở nƣớc ngoài.
1.1.2. Phân loại tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài
Tranh chấp kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc phân loại
thành: Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng và Tranh chấp phát sinh ngoài Hợp đồng.
1.1.2.1. Tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài phát sinh từ
Hợp đồng
Đây đƣợc xem là dạng tranh chấp phổ biến, bao gồm tranh chấp liên quan
đến việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong Hợp
đồng đó. Đó có thể là những tranh chấp liên quan đến các vấn đề đã đƣợc các bên
xác lập trực tiếp trong hợp đồng thông qua sự đồng thuận giữa các bên và đƣợc ghi
nhận cụ thể, chi tiết trong hợp đồng hoặc các vấn đề có liên quan đến quan hệ hợp

18


đồng giữa các bên. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp này thƣờng
đƣợc ghi nhận cụ thể trong Hợp đồng, hợp đồng sẽ ghi nhận cụ thể về thẩm quyền
của Tòa án giải quyết và pháp luật áp dụng, trừ trƣờng hợp hợp đồng không quy
định thì hai vấn đề này đƣợc giải quyết căn cứ vào quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài phát sinh ngoài
Hợp đồng
Trong hoạt động kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài thì đây là các
tranh chấp phát sinh khi giữa các bên tranh chấp không có Hợp đồng. Đó là những

tranh chấp về bồi thƣờng thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng, về thực hiện công việc
không có ủy quyền… gắn với lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại mà khi phát sinh Tòa
án không thể căn cứ vào Hợp đồng để xem xét. Trong những trƣờng hợp đặc biệt,
tranh chấp phát sinh ngoài Hợp đồng còn có thể phát sinh từ những quan hệ gắn với
Hợp đồng nhƣ vấn đề trách nhiệm tiền Hợp đồng, bồi thƣờng thiệt hại liên quan đến
trách nhiệm sản phẩm sau khi Hợp đồng chấm dứt.
Khác biệt lớn nhất giữa tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng với tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng trong lĩnh vực Kinh doanh thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài
là cơ sở làm phát sinh trách nhiệm của các bên trong tranh chấp không dựa trên các
quy định của Hợp đồng mà dựa trên các quy định của pháp luật. Ngoài ra trong quá
trình giải quyết loại tranh chấp này, Tòa án sẽ phải lƣu ý đến vấn đề khác biệt của
yếu tố chủ thể: Ngƣời thực hiện hành vi vi phạm, ngƣời bị thiệt hại, ngƣời không
thực hiện hành vi trái pháp luật nhƣng theo quy định của pháp luật là đối tƣợng phải
chịu trách nhiệm bồi thƣờng (thí dụ nhƣ pháp nhân đối với ngƣời của pháp nhân
gây ra thiệt hại…).
Việc xác định đúng chủ thể trong tranh chấp sẽ thúc đẩy việc giải quyết tranh
chấp nhanh chóng và kịp thời. Ngoài ra việc giải quyết thƣờng mang tính phức tạp
vì sự đồng thuận giữa các bên liên quan đến việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh
chấp và luật áp dụng thƣờng khó khăn. Mỗi một đất nƣớc lại đƣa ra tiêu chí không
giống nhau khi xác định thẩm quyền của Tòa án và luật áp dụng cho loại hình tranh
chấp này, có nơi đƣa ra tiêu chí tƣơng tự nhƣ đối với tranh chấp phát sinh từ hợp

19


×