Tải bản đầy đủ (.docx) (167 trang)

Chính sách phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 167 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào
khác.
Tác giả

Lê Anh Tài


2

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS Phan Thị Thu Hoài,
người đã toàn tâm, toàn ý hướng dẫn tôi về mặt khoa học để tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo; các cán bộ, nhân viên Khoa Sau
đại học - Trường Đại học Thương mại về những ý kiến đóng góp thẳng thắn, sâu sắc
và giúp đỡ tận tình để tôi hoàn thành bài luận văn thạc sỹ của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới lãnh đạo và cán bộ nhân viên tại
Ban Quản lý khu công nghiệp tỉnh Hà Nam, Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Hà Nam
đã tạo điều kiện, cung cấp thông tin phục vụ cho việc phân tích cũng như những lời
góp ý để tôi hoàn thành bài luận văn.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn gia đình, đồng nghiệp, những người bạn thân thiết đã
thường xuyên động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi những lúc khó khăn nhất để tôi
vượt qua và hoàn thành khóa học đào tạo thạc sỹ.


3



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BQL các KCN

: Ban quản lý các Khu công nghiệp

2. BVMT

: Bảo vệ môi trường

3. CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4. CN

: Công nghiệp

5. GTSX

: Giá trị sản xuất

6. HĐND

: Hội đồng nhân dân

7. KCN

: Khu công nghiệp


8. KCNC

: Khu công nghệ cao

9. KCX

: Khu chế xuất

10. KKT

: Khu kinh tế

11. Nxb

: Nhà xuất bản

12. PTBV

: Phát triển bền vững

13. UBND

: Ủy ban nhân dân


4

MỤC LỤC



5

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BẢNG

Tên hình, sơ đồ, bảng

Tran
g

Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Hà Nam.

49

Sơ đồ 2.1. Các mốc thời gian thành lập các KCN

60

Bảng 2.1: Tổng vốn đầu tưu phân theo ngành, lĩnh vực được thu hút tại

62

KCN Đồng Văn I
Bảng 2.2. Cơ cấu các dự án đầu tư vào các KCN tỉnh Hà Nam đến hết

64

năm 2016
Bảng 2.3. Số dự án FDI đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam

66


theo năm từ 2013 – 2015
Bảng 2.4: Dự án FDI đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam

66

chia theo khu vực tính đến năm 2016
Bảng 2.5. Cơ cấu vốn đầu tư đăng ký trong và ngoài nước đến hết năm

67

2016
Bảng 2.6. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện trong và ngoài nước đến hết năm

67

2016
Bảng 2.7: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

70

nghiệp trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 2014-2016
Bảng 2.8: Tình hình nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong các KCN

72

tỉnh Hà Nam giai đoạn 2014 - 2016.
Bảng 2.9: Bảng tổng hợp số lượng và cơ cấu lao động trong các KCN tỉnh

73


Hà Nam giai đoạn năm 2014 - 2016.
Bảng 2.10: Bảng tổng hợp các chỉ tiêu môi trường không khí năm 2014

77

tại các KCN đang hoạt động trên địa bàn tỉnh
Bảng 2.11: Bảng tổng hợp các chỉ tiêu nước mặt năm 2015 tại các KCN
đang hoạt động trên địa bàn tỉnh

77


6

Sơ đồ 2.1: Thủ tục đầu tư theo quy trình “một cửa và một cửa liên

87

thông

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tình hình thu hút các dự án trong các KCN tỉnh Hà Nam.
Biểu đồ 2.2: Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong
các KCN của tỉnh Hà Nam qua các năm.
Biểu đồ 2.3: Giá trị xuất khẩu công nghiệp của các doanh nghiệp trong
các KCN của tỉnh Hà Nam qua các năm.
Biểu đồ 2.4: Đóng góp ngân sách của các doanh nghiệp trong các KCN
của tỉnh Hà Nam qua các năm.
Biểu đồ 2.5: Tổng số lao động của các doanh nghiệp trong các KCN của

tỉnh Hà Nam qua các năm.

Trang
65
71
71
73
74


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua đã tạo
những bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam. Để chuẩn bị hội nhập nền
kinh tế nước ta với khu vực và thế giới, đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp phục
vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước thì việc xây
dựng các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) là một trong những biện
pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của nước ngoài,
đẩy mạnh xuất khẩu. Tính đến 2015, cả nước đã có 289 KCN, KCX và KKT được
thành lập tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước với tổng diện tích đất tự nhiên 81.000ha
(diện tích đất công nghiệp 52.838ha, chiếm 65,17%/tổng diện tích đất tự nhiên), trong
đó có 191 KCN (đạt 66,09%) đã đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp
đạt 45% và 98 KCN đang trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng và xây
dựng hạ tầng; tổng số dự án đã thu hút, bao gồm: 5.463 dự án đầu tư trong nước với
tổng số vốn đăng ký 524.213 tỷ đồng và 5.075 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài với vốn đăng ký 75,87 tỷ USD, [14].
Thực hiện chủ trương phát triển công nghiệp, lấy công nghiệp làm đòn bẩy
thúc đẩy kinh tế địa phương, sớm đưa Hà Nam thành một tỉnh công nghiệp trước

năm 2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh, thấy rõ được vai trò quan trọng của các
KCN đối với việc thu hút đầu tư, giải quyết việc làm cho người lao động, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; đồng thời nhận thấy Hà Nam là một tỉnh có vị
trí địa lý thuận lợi, có nguồn lao động dồi dào và hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối
đảm bảo để phát triển công nghiệp. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
tỉnh Hà Nam đã xác định: Xây dựng, phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam
là một nhu cầu hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Những năm qua với những chính sách thông thoáng, phù hợp và tạo những
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, nhiều địa phương trong đó có Hà Nam đã
tạo nên sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào làm ăn đã đem lại
những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đưa Hà
Nam trở thành một trong mười địa phương dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp


8

nước ngoài. Tuy nhiên quá trình xây dựng và phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh
Hà Nam cũng bộc lộ một số hạn chế như: Vị trí quy hoạch một vài KCN chưa hợp
lý, một số dự án còn gây ô nhiễm môi trường, kết cấu hạ tầng trong hàng rào và
ngoài hàng rào một vài KCN chưa được đầu tư đồng bộ, hiệu quả kinh tế - xã hội
tạo ra từ một vài KCN chưa tương xứng với mức độ sử dụng tài nguyên, đặc biệt là
tài nguyên đất, việc tuyển dụng lao động còn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh
nghiệp,...
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu hoàn thiện các chính sách phát triển các KCN
là vấn đề thiết thực, cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn không chỉ đối với tỉnh Hà
Nam. Là người làm việc trong tỉnh Hà Nam, trực tiếp theo dõi các KCN trên địa
bàn tỉnh, với mong muốn góp phần bé nhỏ của mình vào sự nghiệp phát triển bền
vững các KCN trên địa bàn, đưa Hà Nam sớm trở thành một tỉnh công nghiệp trước
năm 2020 theo Nghị Quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, học viên đã lựa chọn đề tài:
“Chính sách phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam” làm đối

tượng nghiên cứu trong luận văn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Với mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi lấy sự nghiệp CNH – HĐH làm
trọng tâm, vì vậy việc phát triển công nghiệp rất được Đảng và Nhà nước ta chú
trọng, quan tâm. Trong những năm gần đây việc nghiên cứu các đề tài liên quan đến
chính sách phát triến các KCN được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu
với mức độ, phạm vị khác nhau nhằm tìm ra những giải pháp để hoàn thiện chính
sách phát triển các KCN trong cả nước một cách nhanh chóng và bền vững, góp
phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và địa
phương nói riêng. Cụ thể có một số đề tài và công trình nghiên cứu sau:
Lê Thế Giới (2008), “ Hệ thống đánh giá phát triển bền vững các KCN Việt
Nam”, Tạp chí khoa học và công nghệ, đại học Đà Nẵng- số 4(27).2008. Nội dung
bài viết: Tóm tắt sự Phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội và bảo vệ môi trường là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển các ngành
và vùng. Bài viết này tập trung luận giải những vấn đề cốt lõi của phát triển bền


9

vững khu công nghiệp (KCN), đề xuất hệ thống các tiêu chí đánh giá sự phát triển
bền vững KCN và các giải pháp tăng cường tính bền vững trong phát triển bền vững
các KCN Việt Nam, [29].
Nguyễn Thị Bình (2011), “Xây dựng một số tiêu chí đánh giá phát triển bền
vững tại các KCN Đồng Nai”, Tạp chí khoa học đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh số 26 năm 2011. Nội dung bài viết: Bài viết này tập trung luận giải những vấn
đề cốt lõi của phát triển bền vững KCN, từ đó đề xuất hệ thống các tiêu chí đánh giá
sự phát triển bền vững KCN Đồng Nai, [33].
Bùi Thế Cử, Hoàng Ngọc Việt (2014), “Phát triển các KCN trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên”, Tạp chí kinh tế và phát triển. Nội dung bài viết: Khái quá trình

xây dựng và phát triển các KCN trong 10 năm qua tại tỉnh Hưng Yên, những đóng
quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh: kinh tế tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của người dân.
Tuy nhiên, sự phát triển của các KCN đã làm giảm diện tích đất trồng lúa, ảnh
hưởng đến an ninh lương thực; thay đổi kết cấu cơ sở hạ tầng; còn gây ô nhiễm môi
trường; hiệu quả sử dụng đất và hoạt động thu hút dự án đầu tư chưa cao…; đặt ra
nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Bài viết này đánh giá tình hình phát triển các KCN,
các tác động tích cực, tiêu cực đến kinh tế - xã hội và một số đề xuất nhằm phát
triển các KCN ở tỉnh Hưng Yên theo hướng bền vững, [23].
Nguyễn Ngọc Dũng (2014), “Phát triển các KCN đồng bộ trên địa bàn Hà
Nội”, Luận án tiến sỹ. Nội dung cơ bản của luận án: Trên cơ sở lý luận cơ bản và
thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn Hà Nội trong thời gian vừa qua (20102015), dựa trên những đặc thù kinh tế-xã hội của Thủ đô Hà Nội, tác giả đã đề xuất
9 định hướng và 5 nhóm giải pháp để xây dựng và phát triển KCN đồng bộ trên địa
bàn Hà Nội. Trong đó nhóm giải pháp hoàn thiện quy hoạch KCN, nhóm giải pháp
hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nhóm giải pháp thu hút đầu tư là những nhóm giải pháp
chủ yếu đảm bảo cho sự thành công của việc phát triển KCN đồng bộ trên địa bàn
Hà Nội. Ngoài ra nhóm giải pháp phát triển và đào tạo nguồn nhân lực; giải pháp
tăng cường quản lý nhà nước và hoàn thiện cơ chế, chính sách là những nhóm giải


10

pháp có tác dụng hỗ trợ nâng cao nhằm phát triển bền vững các KCN trong tương
lai, [31].
Phan Mạnh Cường (2015) “Phát triển bền vững các KCN trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên”, Luận án Tiến sỹ. Nội dung cơ bản của đề tài nghiên cứu: Xây dựng
được khái niệm về phát triển bền vững các KCN, khái niệm về quản lý nhà nước
KCN. Từ đánh giá thực trạng phát triển bền vững các KCN trên địa bàn tỉnh, Luận
án đã đề xuất được quan điểm, mục tiêu, phuơng hướng, các nhóm giải pháp và các
đề xuất kiến nghị để tiếp tục phát triển bền vững các KCN trên địa bàn tỉnh Thái

Nguyên trong giai đoạn đến năm 2020, trên các giác độ: kinh tế, hiệu quả huy động
và sử dụng các nguồn lực về vốn, công nghệ, đất đai và lực lượng lao động; xây
dựng mối quan hệ lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, các doanh nghiệp trong KCN và
người dân trong vùng dự án các KCN, mức độ phổ biến về tiếp cận và sử dụng các
dịch vụ tiện ích xã hội của người lao động và nhân dân trong vùng dự án các KCN;
môi sinh, môi trường sống, môi trường làm việc của công nhân và nhân dân trong
vùng dự án được cải thiện rõ rệt, [34].
Các bài viết và luận án tiến sỹ trên đã đưa ra được các tiêu chí đánh giá về sự
phát triển các KCN, đồng thời cũng đã đánh giá được thực trạng phát triển các KCN
ở địa phương mình và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển bền vững các KCN trên
địa bàn tỉnh mình. Tuy nhiên các giải pháp nhằm phát triển các KCN mà những bài
viết và luận án tiến sỹ trên đưa ra chưa sát thực và phù hợp với tỉnh Hà Nam do vị
trí địa lý cũng như những lợi thế riêng của tỉnh Hà Nam trong phát triển các KCN
khác so với các tỉnh mà các bài viết và luận án đã nêu. Vì vậy để đánh giá đúng thực
trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam những năm gần đây và đưa ra
những giải pháp sát thực đối với Hà Nam nhằm phát triển các KCN trên địa bàn
tỉnh một cách nhanh chóng và bền vững sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự
phát triển các KCN Hà Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận văn là đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện chính sách phát triển KCN tỉnh Hà Nam đến năm 2030 theo hướng phát triển


11

bền vững và khai thác tốt nhất các cơ hội và nguồn lực của địa phương đóng góp
cho sự phát triển của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách phát triển các KCN, những nhân tố
ảnh hưởng đến chính sách phát triển các KCN, kinh nghiệm thực tiễn về chính sách
phát triển các KCN tại một số địa phương tiêu biểu và rút ra bài học kinh nghiệm
cho phát triển các KCN của tỉnh Hà Nam.
- Phân tích chính sách phát triển các KCN tỉnh Hà Nam trong giai đoạn vừa
qua, đặc biệt trong giai đoạn 2012-2016, từ đó đánh giá sự phát triển các KCN tỉnh
Hà Nam, tìm ra các điểm mạnh và điểm yếu trong các chính sách phát triển các KCN
của tỉnh Hà Nam.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển các KCN tỉnh Hà Nam
trong thời gian tới và có một số kiến nghị với Trung ương hỗ trợ các địa phương nói
chung và Hà Nam nói riêng phát triển hơn nữa các KCN trong đóng góp vào sự phát
triển của địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và năng lực nghiên cứu, luận văn giới hạn phạm vi
nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu như sau:
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách phát triển các KCN tỉnh Hà
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu chính sách phát triển các KCN tỉnh Hà Nam
với góc độ chính sách của chính quyền tỉnh Hà Nam.
- Phạm vi thời gian: Thu thập số liệu đánh giá thực trạng chính sách, hoạt
động, sự phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2013 đến nay và đề
xuất các giải pháp cho tới 2025.


12

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Sau khi hệ thống hóa một cách chọn lọc những nội dung kiến thức lý luận
cơ bản về chính sách phát triển KCN, làm nền tảng xuyên suốt quá trình nghiên
cứu; tác giả phân tích, đánh giá chính sách phát triển KCN tỉnh Hà Nam, từ đó đề
xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển KCN tỉnh Hà Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể về thu thập và phân tích thông tin dữ liệu
Về nguồn số liệu sử dụng: Bao gồm nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp.
- Nguồn số liệu sơ cấp: Các chính sách phát triển KCN tỉnh Hà Nam như
được thu thập từ các nghị định của Chính phủ, Quyết định của Ủy ban nhân dân
(UBND) tỉnh Hà Nam như sau: Quyết định số 1226/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm
2011 của Thủ tướng về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Hà Nam đến năm 2020 (Quyết định số 1226/QĐ-TTg); Quyết định số 1742/QĐUBND ngày 29 tháng 12 năm 2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam về phê duyệt
Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Hà Nam giai đoạn 2011-2020; Quyết định số
359/QĐ-UBND ngày 17 tháng 02 năm 2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam về phê
duyệt Quy hoạch phát Công nghiệp – Thương mại tỉnh Hà Nam giai đoạn 2011-2020,
tầm nhìn đến năm 2030; Nghị quyết số 29/2013/NQ-CP ngày 26 tháng 02 năm 2013
của Chính phủ về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm kỳ đầu (2011-2015) tỉnh Hà Nam; Quyết định số 550/QĐ-UBND ngày 28 tháng
05 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam về phê duyệt Quy hoạch phát triển
bền vững tỉnh Hà Nam đến 2020.
- Nguồn số liệu thứ cấp: Báo cáo tổng kết của Ban quản lý các KCN, các Sở,
Ban ngành trong tỉnh về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN tỉnh
Hà Nam; tình hình xây dựng và phát triển KCN, phương hướng, nhiệm vụ năm
2017; kết quả công tác quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư... Dữ liệu thứ
cấp dùng cho mục đích nghiên cứu định tính nhằm xác định: Các yếu tố cấu thành
về sự phát triển một KCN bằng việc phân tích kinh nghiệm phát triển các KCN ở


13


một số địa phương tiêu biểu trong nước; các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển các
KCN tỉnh Hà Nam
Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu được tập hợp, phân tổ thống kê và xử
lý trên máy tính, với chương trình Excel.
Phương pháp phân tích:
Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh số liệu qua các năm tạo cơ sở phân
tích, đánh giá thực trạng phát triển KCN tỉnh Hà Nam và thực trạng chính sách phát
triển KCN tỉnh Hà Nam. Đồng thời kết hợp thống kê tập hợp các nguồn dữ liệu thứ
cấp có liên quan, trong một khoảng thời gian cần thiết; từ đó phân tích, đánh giá
thực trạng, kết hợp đối chiếu so sánh các hiện tượng có liên quan. Trên cơ sở kết
quả phân tích, tiến hành tổng hợp nhận định để rút ra các vấn đề tồn tại, cùng với
những nguyên nhân của những tồn tại đó. Đây cũng chính là căn cứ xuất phát, để
tìm giải pháp khắc phục những vấn đề tồn tại được phát hiện từ quá trình phân tích.
6. Những đóng góp của luận văn
Thứ nhất, bên cạnh việc làm rõ nội dung chính sách phát triển KCN, luận
văn chỉ ra những tác động của phát triển KCN đối với sự phát triển kinh tế, phân
tích những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển KCN.
Thứ hai, trên cơ sở khái quát về tiềm năng và nguồn lực phát triển các KCN
tại Hà Nam, luận văn phân tích và đánh giá về thực trạng chính sách phát triển các
KCN tỉnh Hà Nam thời gian qua tác động của nó tới phát triển các khu công nghiệp
và các vấn đề đặt ra đối với chính sách phát triển các khu công nghiệp của Hà Nam.
Thứ ba, Luận văn đã đề xuất giải pháp và kiến nghị, đặc biệt là 05 nhóm giải
pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển các KCN tỉnh Hà Nam đến năm 2025.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chính sách phát triển các khu công
nghiệp của một địa phương
Chương 2. Nghiên cứu và đánh giá thực trạng chinh sách phát triển các khu
công nghiệp tỉnh Hà Nam thời gian qua
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển các khu công nghiệp

tỉnh Hà Nam trong thời gian tới


14

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở MỘT ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Khái quát về khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm về khu công nghiệp và phát triển các khu công nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
Từ những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, KCN đã được hình thành và
phát triển ở các nước tư bản phát triển. Ban đầu các KCN được xem như một mô
hình quy hoạch công nghiệp. Với quá trình phát triển, KCN đã đem lại nhiều lợi ích
thiết thực, do vậy KCN được xem như một công cụ để phát triển kinh tế. KCN xuất
hiện ngày càng nhiều dưới những hình thức khác nhau và lợi ích thiết thực của việc
phát triển KCN đã được nhiều nước trên thế giới thừa nhận. Khái niệm về KCN
cũng được bàn cãi trong một thời gian dài, đến nay vẫn chưa đi đến thống nhất.
Các KCN Việt Nam được ra đời vào những năm đầu thời kì đổi mới, tiền
thân phát triển các KCN, KCX, khu công nghệ cao (KCNC) là khu kỹ nghệ Biên
Hòa (nay là KCN Biên Hòa I) được thành lập năm 1963 nơi này có vị trí địa lý
thuận lợi cho phát triển công nghiệp, đây cũng là KCN lớn nhất và phát triển nhất
sau ngày miền Nam giải phóng năm 1975. Song song đó, tại miền Bắc cũng đã bắt
đầu xây dựng nhiều khu liên hợp, cụm công nghiệp lớn nhằm phát triển công
nghiệp tạo cơ sở phát triển các KCN, KCX, KCNC sau này, điển hình là khu công
nghiệp gang thép Thái Nguyên.
Nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của việc hình thành xây
dựng, phát triển và quản lý KCN, KCX, ngày 18/10/1991 Chính phủ Việt Nam đã
ban hành quy chế KCX kèm theo Nghị định 322/HĐBT và năm 1994 Chính phủ
ban hành quy chế KCN kèm theo Nghị định 192/CP. Đánh dấu cho bước mở đầu
của việc phát triển KCN, KCX của nước ta cho đến ngày 24/4/1997 Chính phủ ban

hành Nghị định 36/CP thống nhất các quy chế KCN, KCX nhằm kiện toàn và đẩy
nhanh tốc độ đầu tư xây dựng và phát triển các KCN, KCX. Tạo một hành lang
pháp lý đặc biệt cho loại hình kinh tế còn khá mới mẻ lại có điểm xuất phát thấp,
chúng ta chưa có kinh nghiệm lại thiếu tiềm lực về nguồn vốn đầu tư các cơ sở vật


15

chất hạ tầng trong cũng như ngoài địa bàn KCN. Hơn nữa lại chịu sự cạnh tranh rất
gay gắt về thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực như: Trung Quốc,
Thái Lan, Indonesia. Tuy nhiên với đường lối chính trị đúng đắn, Đảng ta đã lãnh
đạo công cuộc đổi mới và thu được những thành công nhất định, đã khẳng định
được vị trí của đất nước trên trường quốc tế. Với các chính sách kinh tế mở, thông
thoáng đã hấp dẫn được các nhà đầu tư và các quốc gia trên thế giới vào nước ta đầu
tư.
Việt Nam là nước đi sau trong lĩnh vực xây dựng phát triển KCN nên có điều
kiện tiếp thu những kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Trên cơ sở phân tích
những nguyên nhân về thành công, thất bại để rút ra những phương thức, điều kiện
để hoạch định những bước đi thích hợp cho việc xây dựng và phát triển các KCN ở
nước ta. Từ khi có quy chế KCX đầu tiên từ năm 1991, đến năm 1992 KCX Tân
Thuận (TP. Hồ Chí Minh) đi vào hoạt động. Tính hết năm 2015, cả nước đã có 295
KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 84 nghìn ha, trong đó diện
tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 56 nghìn ha, chiếm khoảng 66% tổng diện
tích đất tự nhiên. Hiện nay cả nước đac có 212 KCN đã đi vào hoạt động với tổng
diện tích đất tự nhiên 60 nghìn ha và 83 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải
phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 24 nghìn
ha.Trong năm 2015, các KCN đã cho các nhà đầu tư thuê mới 2 nghìn ha, nâng tổng
diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN đạt 26 nghìn ha, tỷ lệ lấp đầy
các KCN đạt 48%, riêng các KCN đã đi vào hoạt động, tỷ lệ lấp đầy đạt trên 65%,
tăng 2% so với năm 2014.

Đến nay, các KCN đã và đang làm thay đổi cơ bản đời sống kinh tế xã hội của
những khu vực trước đây còn là những vùng hoang hóa nay trở thành những vùng
công nghiệp, vùng sản xuất hàng hóa phát triển, những trung tâm văn hóa ngang tầm
với các nước trong khu vực. Công tác quản lý và hoạt động của các KCN được thực
hiện nghiêm túc theo quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định số
164/2013/NĐ-CP và tiếp tục theo định hướng của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số
07/CT-TTg ngày 12/3/2012, trong đó tuân thủ chặt chẽ các điều kiện mở rộng, thành
lập mới KCN, thường xuyên rà soát quy hoạch và thắt chặt việc thành lập mới và bổ


16

sung quy hoạch KCN.
Tại Khoản 10 Điều 3 Luật số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 do
Quốc Hội ban hành Luật đầu tư (Luật đầu tư 2014) ghi rõ: “KCN là khu vực có ranh
giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp”.
Tại Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ có
nêu rõ khái niệm về KCN như sau: “KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này”.
Từ các khái niệm trên và thực tế quá trình phát triển các KCN ở Việt Nam,
có thể hiểu một cách tổng quát về KCN như sau: “KCN là khu vực lãnh thổ có ranh
giới địa lý xác định, có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật-xã hội đồng bộ đảm bảo
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà ở và các điều kiện sinh hoạt của người lao
động và các tiêu chuẩn về môi trường; là nơi tập trung các doanh nghiệp hoạt động
trong các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp
(dịch vụ xuất nhập khẩu, hoạt động thương mại, tín dụng, ngân hàng, bưu chính
viễn thông…); nằm trong danh mục quy hoạch tổng thể các KCN được Chính phủ
phê duyệt, được cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư quyết định thành lập theo quy

định của pháp luật về đầu tư và quy định về KCN, KCX của Chính phủ”.
1.1.1.2. Khái niệm phát triển các khu công nghiệp
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, sự phát triển là quá trình một xã hội đạt
đến trình độ thỏa mãn các nhu cầu xã hội coi là cơ bản. Phát triển kinh tế được xem
xét trên ba khía cạnh cơ bản: một là sự thay đổi GDP, GNP, năng suất, hiệu quả và
thu nhập đầu người; hai là mức độ thỏa mãn các nhu cầu xã hội cơ bản của con
người như sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục; ba là đạt tới cơ cấu kinh tế hợp lý.
Mặc dù khái niệm phát triển đã phản ánh được nhiều hơn các mục tiêu mã xã
hội mong muốn, nhưng nhiều nhà xã hội và môi trường học chưa thỏa mãn với nội
hàm của nó. Họ cho rằng, tăng trưởng và phát triển mà không chú ý tới các tiến bộ
xã hội (nhất là đến mức độ công bằng trong hưởng thụ các thành quả kinh tế) và bảo
vệ môi trường thì kết quả tăng trưởng và phát triển hôm nay là vật cản trở cho tăng


17

trưởng và phát triển trong tương lai. Với những bằng chứng ngày càng có sức thuyết
phục hơn về cản trở của các quan hệ xã hội lạc hậu và tác động bất lợi từ tình trạng
môi trường bị tàn phá đến phát triển kinh tế đã khiến ngày càng có nhiều người ủng
hộ cách nhìn nhận về phát triển kinh tế đặt trong sự tiến bộ xã hội và bảo vệ môi
trường. Vì thế, xuất hiện khái niệm mới là phát triển bền vững.
Theo từ điển Wikipedia: Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm
định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm
sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng
tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã
hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với
quốc gia đó.
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các KCN, KCX, KKT trong thu
hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong thời gian qua. Qua 25 năm xây dựng và phát triển, thành tựu của các KCN,

KCX đã được minh chứng sống động bằng những đóng góp quan trọng trong phát
triển kinh tế đất nước, thể hiện trên các mặt kinh tế, môi trường và xã hội như:
KCN, KCX đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Hàng năm, vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào KCN, KCX chiếm từ 35-40% tổng vốn đăng ký
tăng thêm của cả nước; riêng lĩnh vực công nghiệp chiếm trên 80%. KCN, KCX
cũng đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài,
góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. Đặc biệt, KCN, KCX
có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng ngành sản xuất công nghiệp, nâng cao giá
trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của các địa phương và cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, việc phát triển các KCN,
KCX, KKT cũng tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục, đòi hỏi phải có những giải
pháp đồng bộ để phát triển bền vững KCN, KCX.
Theo tác giả, phát triển KCN, KCX là phát triển theo quan điểm phát triển
bền vững: quy mô phát triển KCN phù hợp với định hướng phát triển chung, quy


18

hoạch phát triển các KCN gắn với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư; các KCN
được kết nối với các cụm liên kết trong sản xuất công nghiệp, thu hút được nhiều
doanh nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp mũi nhọn; hệ thống hạ tầng kỹ thuật
còn đồng bộ, công tác bảo vệ môi trường trong KCN được cải thiện, các KCN đáp
ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định.
1.1.2. Phân loại và đặc điểm các loại khu công nghiệp
Đối với nước ta có các loại hình KCN như sau: Khu công nghiệp; Khu chế
xuất; Khu công nghệ cao.
1.1.2.1. Khu công nghiệp
- “KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ

cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều
kiện, trình tự và thủ tục quy định”, [24].
- Đặc điểm của KCN:
+ KCN là một khu vực được quy hoạch mang tính liên vùng, liên lãnh thổ,
có phạm vi ảnh hưởng sang các vùng lân cận, xung quanh.
+ Ngoài ra, trong KCN không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài KCN phải
có hệ thống dịch vụ phục vụ nguồn nhân lực làm việc ở KCN.
+ KCN được quy hoạch riêng biệt để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước để thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp, cũng như hoạt động
hỗ trợ, dịch vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp.
+ Các doanh nghiệp trong KCN sản xuất ra những sản phẩm để cung cấp cho
thị trường trong nước và cả thị trường xuất khẩu.
+ Đơn vị chủ đầu tư KCN thuê đất Nhà nước, đầu tư hạ tầng và thu phí.
+ Được quản lý bởi một cơ quan chuyên trách là Ban quản lý KCN cấp tỉnh
theo cơ chế ủy quyền của các bộ ngành, với cơ chế một cửa, một đầu mối, ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.1.2.2. Khu chế xuất
- KCX là “KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản
xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được


19

thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với KCN quy định tại Nghị
định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ”, [24]
- Đặc điểm KCX:
+ KCX được quy hoạch phân tách khỏi phần nội địa xung quanh bằng tường
rào kiên cố, để ra vào KCX cần thông qua sự kiểm soát của hải quan và cơ quan
chức năng.
+ Các doanh nghiệp trong KCX chỉ được bán tối đa 20% giá trị sản phẩm

của mình vào thị trường nội địa. Chủ yếu sản xuất ra sản phẩm để phục vu thị
trường xuất khẩu.
+ Ngoài ra, các doanh nghiệp trong KCX cũng được hưởng những ưu đãi dặc
biệt về các lại thuế như: miễn thế xuất khẩu, nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, được hưởng thế thu nhập doanh nghiệp ở mức ưu đãi là 10%
và không phải chịu thuế chuyển lợi nhuận về nước của chủ đầu tư.
1.1.2.3. Khu công nghệ cao:
- KCNC là “ khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kĩ thuật cao và các
đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu, triển khai
Khoa học – Công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác
định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Trong KCNC có thể có doanh nghiệp chế xuất.
- Đặc điểm KCNC:
+ Các doanh nghiệp trong KCNC hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực có
hàm lượng công nghệ và chất xám cao như: nghiên cứu, triển khai khoa học công
nghệ, đào tạo và thực hiện các dịch vụ có liên quan.
+ Các doanh nghiệp trong KCNC đều đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát
triển, có năng suất lao động cao, được điều hành bởi các nhà khoa học và những
công nhân có trình độ tay nghề cao.
+ Công nghệ được sử dụng trong KCNC là những công nghệ mang tính tiên
phong đi trước thời đại.


20

Có thể thấy rằng, giữa ba khái niệm này có liên quan với nhau. Nếu như khái
niệm về KCN truyền thống mang tính chất đặc trưng, thì KCX và KCNC mang tính
chất là những hình thái đặc thù của KCN:
+ KCX là KCN mà theo đó hàng hóa sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu.
+ KCNC là KCN gắn với các hoạt động kỹ thuật, công nghệ cao.

- KCN, KCX, KCNC là các loại hình khác nhau của khu công nghiệp tập
trung. Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu về KCN truyền thống là loại hình
duy nhất phát triển trên địa bàn tỉnh Hà Nam hiện nay.
1.1.3. Tác động của phát triển các khu công nghiệp
đến phát triển kinh tế của địa phương
1.1.3.1. Tác động tích cực
Tác động tích cực đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
KCN, KCX hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới, mở cửa
nền kinh tế được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt
Nam lần thứ VI (năm 1986). Các Nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm
1986 đến nay đã hình thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát
triển KCN, KCX; khẳng định vai trò của KCN, KCX là một trong những nền tảng
quan trọng để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, phát huy lợi thế
về địa kinh tế, tiềm năng thế mạnh của địa phương, các địa phương đã thực hiện
quy hoạch xây dựng và phát triển các KCN, coi đây là khâu đột phá trong việc đẩy
nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc CNH –
HĐH nhằm thực hiện mục tiêu trang bị cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đẩy
nhanh quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam cần phải thực hiện một số tiền đề cần
thiết: vốn tích lũy, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật, công nhân lành nghề
và cán bộ quản lý kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng và nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, vai trò điều hành của Nhà nước.
Để thu hút đầu tư vào các KCN, tạo điều kiện cho nhà đầu tư triển khai nhanh dự
án, ngoài các chính sách ưu đãi về tài chính. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng


21


rào đồng bộ và hiện đại (bao gồm cả hệ thống điện nước, bưu chính viễn thông), hạ tầng
giao thông, hạ tầng thương mại không chỉ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các
DN hoạt động mà còn có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế của địa phương nơi có
KCN.
KCN thu hút rất nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp, góp phần làm gia tăng
chất lượng nguồn nhân lực kể cả lao động quản lý và kỹ năng lao động trực tiếp,
giải quyết việc làm người lao động. Với lực lượng lao động lớn, máy móc thiết bị
hiện đại, trình độ quản lý cao của các doanh nghiệp trong KCN, nó sẽ tạo áp lực cho
các cơ quan Nhà nước tăng cường đào tạo nguồn nhân lực trong nước đáp ứng được
yêu cầu của các KCN và bản thân doanh nghiệp lúc đó cũng có nhiều cơ hội lựa
chọn lao động có tay nghề cao cho mình. Ngoài ra, các donah nghiệp trong KCN
mà đặt biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đào tạo được đội ngũ
lao động tiên tiến, có tác động lan tỏa và nâng cao nền tảng trình độ lao động của
đội ngũ lao động Việt Nam.
KCN với đặc điểm là nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại
và thu hút các nhà đầu tư cùng đầu tư trên một vùng không gian lãnh thổ, là nơi tập trung
và kết hợp sức mạnh nguồn vốn trong và ngoài nước. Với quy chế quản lý thống nhất và
các chính sách ưu đãi, các KCN đã tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, có
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước; hơn nữa việc phát triển các
KCN cũng phù hợp với chiến lược kinh doanh của các tập đoàn công ty đa quốc gia
trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tranh thủ ưu đãi thuế quan từ phía nước
chủ nhà, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận và khai thác thị trường mới ở các nước đang
phát triển. Do vậy, KCN giúp cho việc tăng cường huy động vốn và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội và là đầu mối quan trọng trong việc thu hút
nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
trong những nhân tố quan trọng giúp quốc gia thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH HĐH đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, sự hoạt động của đồng vốn có
nguồn gốc từ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã tác động tích cực thúc đẩy sự lưu thông
và hoạt động của đồng vốn trong nước. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, hiện đại từ



22

nước ngoài là chủ yếu, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Phát triển KCN là một trong những giải pháp để tạo dựng các tiền đề nói
trên, phát triển KCN là giải pháp tổng hợp, mang tính toàn diện giải quyết đồng thời
các yêu cầu về vốn, lao động, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý, là con đường
tối ưu để tiến tới mục tiêu trang bị cơ sở kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tích cực và có lợi
Cơ cấu kinh tế thì phải xác định được về chất lượng thu hút được các lĩnh
vực và ngành nghề đâu tư vào KCN là phù hợp, tận dụng thế mạnh của địa phương
và khai thác và phối hợp được với nguồn lực của các địa phương lân cận và các địa
phương khác - thúc đẩy sự phát triển chung qua phát triển các lĩnh vực dịch vụ hỗ
trợ cho hoạt động của các KCN.
Theo thống kê của Vụ Quản lý các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính
đến cuối tháng 7/2016, các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các KCN, KKT đều
tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2015:
- Tổng doanh thu của các KCN, KKT đạt hơn 79,3 tỷ USD, tăng hơn 16% so
với cùng kỳ năm 2015. Đóng góp vào ngân sách nhà nước hơn 66 nghìn tỷ đồng,
tăng 10% so với cùng kỳ năm 2015.
- Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp đạt gần 53,5 tỷ USD, đóng góp
gần 51% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (tăng gần 15% so với cùng kỳ năm
2015).
- Kim ngạch nhập khẩu đạt 52,8 tỷ USD, đóng góp 49% tổng kim ngạch
nhập khẩu cả nước (tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2015).
- Năm 2016, các KCN, KKT đã tạo thêm hơn 550 ngàn việc làm mới. Tổng
số lao động trong KCN, KKT lũy kế đến hết 2016 là hơn 6 triệu lao động.
Như vậy, các KCN, KKT ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp, thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước
ngoài, thúc đẩy xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tạo công ăn việc làm như nêu trên.


23

Không những thế, các KCN, KKT đã thu hút được một số dự án đầu tư có
quy mô lớn và rất lớn trong lĩnh vực công nghiệp nặng, công nghiệp điện tử, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, KKT, từng bước khẳng định Việt
Nam như là một cứ điểm sản xuất công nghiệp toàn cầu.
Bên cạnh đó, đối với cơ cấu theo thành phần sở hữu thì phát triển KCN làm
tăng tỷ trọng thành phần ngoài quốc doanh, trong đó đầu tư nước ngoài là một nguồn
đáng kể, điều này phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường.
Thúc đẩy việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng và tác động mạnh đến
quá trình đô thị hóa
Xây dựng và phát triển các KCN trong phạm vi từng tỉnh, thành phố, vùng
kinh tế và quốc gia là hạt nhân thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và hiện đại hóa kết
cấu hạ tầng rong và ngoài KCN tại các địa phương: Cùng với quá trình hình thành
và phát triển KCN, kết cấu hạ tầng của các KCN được hoàn thiện; kích thích phát
triển kinh tế địa phương thông qua việc cải thiện các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng
trong khu vực, gia tăng nhu cầu về các dịch vụ phụ trợ, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh, dịch vụ trong khu vực; góp phần rút
ngắn khoảng cách xây dựng và phát triển các KCN trong phạm vi từng tỉnh, thành
phố, vùng kinh tế và quốc gia là hạt nhân thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và hiện
đại hóa kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN tại các địa phương, cụ thể:
Cùng với quá trình hình thành và phát triển KCN, kết cấu hạ tầng của các
KCN được hoàn thiện; kích thích phát triển kinh tế địa phương thông qua việc cải
thiện các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực, gia tăng nhu cầu về các dịch
vụ phụ trợ, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh, dịch
vụ trong khu vực; góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch phát triển giữa nông

thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các
dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để
tăng năng lực sản xuất, tăng cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân
cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi
trường đô thị, tái tạo và hình hành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng


24

đồng trong khu vực; Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào
KCN còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát
triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp
phụ trợ, dịch vụ... các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và
cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí, khu thể thao,
nhà văn hóa...; Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút đầu tư vào các ngành
như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động
dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, phát triển thị trường địa ốc.đáp ứng nhu cầu
hoạt động và phát triển của các KCN; Phát triển KCN là hạt nhân hình thành đô thị
mới, mang lại văn minh đô thị góp phần cải thiện đời sống kinh tê, văn hóa, xã hội
cho khu vực rộng lớn được đô thị hóa.
Phát triển khu công nghiệp góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy
việcđổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế
Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải khai thác và
sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Hiện nay, đa số
các doanh nghiệp ở nước ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nếu để một doanh nghiệp
đơn lẻ xây dựng các công trình xử lý chất thải rất tốn kém. KCN là nơi tập trung số
lượng lớn nhà máy côngnghiệp, do vậy có điều kiện đầu tư tập trung trong việc
quản lý, kiểm soát, xử lýchất thải và bảo vệ môi trường. Việc xây dựng các KCN là
tạo thuận lợi để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, khu dân cư đông

đúc, hạn chế một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, cải thiện môi trường theo hướng
thân thiện với môi trường phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
Ngoài ra, KCN còn là động lực thúc đẩy việc đổi mới, hoàn thiện thể chế
kinh tế, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, góp phần cơ cấu lại lĩnh vực phân
phối, lưu thông và dịch vụ xã hội; tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế
mạnh đặc thù của mình, đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ phát triển sản xuất
trong từng vùng, miền và cả nước; từ đó tạo ra những năng lực sản xuất, ngành
nghề và công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu


25

vực toàn tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển biến theo hướng một
nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới.
Kích thích phát triển các loại hình dịch vụ
Sự phát triển các KCN tạo điều kiện cho sự xuất hiện các loại hình dịch vụ:
điện, nước, dịch vụ ngân hàng – tài chính, xử lý chất thải, dịch vụ kho bãi, các dịch
vụ cung ứng đảm bảo đời sống cho công nhân trong KCN. Các loại dịch vụ này là
điều kiện tất yếu khách quan để phát triển KCN.
Tác động thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế
Chính KCN là nơi thử nghiệm đầu tiên chính sách thông thoáng với các nhà đầu
tư nước ngoài; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có môi trường thông thoáng thuận lợi
để kinh doanh, từ đó tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Kim
ngạch xuất nhập khẩu đạt được tại các KCN Việt Nam đã chiếm khoảng 1/3 tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tạo uy tín thương mại của Việt Nam trên thị
trường thế giới.
Do có môi trường thông thoáng, các doanh nghiệp hoạt động trong KCN có
khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ và góp phần tăng nguồn
thu ngân sách

Sự phát triển các KCN có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH - HĐH theo hướng xuất khẩu. Hàng hóa sản xuất ra từ các
KCN chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số lượng hàng hóa xuất khẩu của địa
phương và của cả nước. Khi các KCN mới bắt đầu đi vào hoạt động, các doanh
nghiệp phải dùng ngoại tệ để nhập khẩu công nghệ, dây chuyền, máy móc thiết bị...
Khi các doanh nghiệp đi vào sản xuất ổn định, có hiệu quả thì lúc đó nguồn thu
ngoại tệ bắt đầu tăng lên nhờ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN.
Ngoài ra, hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua việc cung ứng nguyên vật liệu của
các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp chế xuất hoạt động trong KCN
và việc một số doanh nghiệp chế xuất tổ chức gia công một số chi tiết, phụ tùng,
một số công đoạn tại các doanh nghiệp trong nước góp phần vào quá trình nội địa


×