Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận môn Hệ thống chính trị Cao học xây dựng Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.99 KB, 21 trang )

1
A. MỞ ĐẦU
Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được thể
hiện thông qua tổ chức và hoạt động của hệ thống tổ chức quyền lực chính trị,
bao gồm các đảng chính trị, thể chế nhà nước, thể chế và các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội dân sự, xã hội - nghề nghiệp... Các bộ phận này tham
gia vào quá trình chính trị nhằm thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền trong xã hội.
Ở bình diện chung trên thế giới, nhà nước là thể chế giữ vai trò trung tâm
trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia. Còn các đảng phái chính trị hoạt động
ở hậu trường nhưng luôn luôn có vai trò chi phối tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Tuỳ thuộc vào truyền thống và thể chế chính trị của mỗi quốc gia,
các đảng phái chính trị có các phương pháp, cách thức khác nhau để thể hiện ý
chí chính trị của đảng và tích cực tham gia vào các công việc của nhà nước.
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ
thống chính trị. Trong một hệ thống chính trị, đảng chính trị nói chung và đảng
chính trị cầm quyền nói riêng có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ và sâu sắc đến
sự hình thành, tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Nhằm mục đích nâng cao nhận thức về đảng chính trị cầm quyền, vai trò
của nó trong việc tác động đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và
liên hệ với vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, em xin
chọn đề tài: “Vai trò của Đảng chính trị cầm quyền trong tổ chức và hoạt
động của nhà nước” làm tiểu luận kết thúc môn học Hệ thống chính trị và thể
chế chính trị.


2
B. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận chung về đảng chính trị cầm
quyền và nhà nước
1.1. Khái niệm đảng chính trị


Trong xã hội hiện nay, một nền dân chủ hiện đại cần các thiết chế và tổ
chức đại diện cho ý chí và quyền lợi của công dân càng chân thực nhất càng tốt.
Đó có thể là các hiệp hội, các nhóm không chính thức hoặc các tổ chức phi chính
phủ. Đặc biệt, thực hiện chức năng đại diện đó là các đảng chính trị. Đảng phái
chính trị là một hình thức đặc biệt của tổ chức xã hội. Cho đến nay, tuỳ thuộc vào
các cách tiếp cận có rất nhiều quan niệm khác nhau về đảng chính trị.
Chẳng hạn, G.Duverger nhìn nhận đảng chính trị với tư cách là một tổ
chức chính trị hướng đến giành chính quyền thông qua bầu cử. Cùng chung quan
niệm này, tác giả Trần Thị Huyền Trân cho rằng: “Đảng là một nhóm người cùng
chung một lý tưởng chính trị, kết hợp lại thành một tổ chức để chinh phục chính
quyền hay để tham gia vào chính quyền”.
Theo quan niệm của H.J.Wiauch (Mỹ), đảng là tổ chức đam mê lợi ích
chính trị nhất, nhưng đó là lợi ích của cộng đồng, xã hội… Đảng là tổ chức của
những người đoàn kết với nhau, được lập ra để thực hiện lợi ích chung của quốc
gia thông qua những nguyên tắc riêng mà họ đã thỏa thuận.
Theo quan niệm của các cử tri: đảng là một tổ chức nhằm biểu lộ thái độ
đối với các chính sách công của chính phủ.
Qua các quan niệm trên, có thể thấy những điểm chung của đảng chính trị
là: Đảng chính trị là một nhóm cá nhân, được tổ chức lại nhằm giành chiến thắng
trong các cuộc bầu cử để điều hành chính phủ và quyết định chính sách công.
Các đảng như vậy gọi là đảng bầu cử. Mục tiêu là giành ghế trong nghị viện và
các vị trí quyền lực.


3
Quan niệm của chủ nghĩa Mác thì cho rằng: đảng chính trị là bộ phận tiên
tiến nhất, có tổ chức của một giai cấp (hay một tầng lớp nào đó), đại biểu cho lợi
ích của giai cấp, tầng lớp đó. Đảng chính trị do vậy phải hội tụ được ba tiêu chí
quan trọng: Tiêu biểu về trí tuệ, tư tưởng; Đại diện cho lợi ích của giai cấp; Tính
tiên phong chính trị.

Từ các quan điểm với các cách tiếp cận khác nhau đã cho thấy một số
khác biệt về cách hiểu các đảng chính trị, tuy nhiên các quan điểm đó đều nhấn
mạnh sự tham gia vào bầu cử và quan tâm nhằm giành được các chức vụ và
nhiệm vụ dân cử là yếu tố quan trọng đặc trưng cho các đảng chính trị. Từ đó, có
thể đưa ra một quan niệm chung rằng: đảng chính trị là tổ chức chính trị đại diện
của một giai cấp (một lực lượng xã hội), gồm những người có cùng chính kiến,
tự nguyện tham gia nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước theo mục
tiêu chính trị của đảng.
Trong đó, khả năng vươn tới quyền lực của đảng tuỳ thuộc vào nhiều nhân
tố: Tính đúng đắn trong đường lối, quan điểm, phương pháp của đảng, sự thống
nhất trong tư tưởng, tổ chức, tương quan so sánh lực lượng... và cuối cùng, nhân
tố quyết định là sự ủng hộ của cử tri.
1.2. Khái niệm đảng chính trị cầm quyền
Đảng chính trị cầm quyền hay đảng cầm quyền là một khái niệm được sử
dụng rộng rãi ở các nước phương Tây ngay khi xã hội bắt đầu hình thành các
đảng chính trị. Ở nước Liên Xô trước đây, V.I.Lênin cũng đã đề cập nhiều các
vấn đề liên quan đến đảng cầm quyền. Theo ông, đảng cầm quyền được hiểu là
“đảng nắm chính quyền” bằng những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện
công việc quản lý trong bộ máy nhà nước. Những cán bộ, đảng viên đó phải hoạt
động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người đại diện cho Đảng thực hiện việc
tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo Đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”, vừa
với tư cách là người đại diện cho Đảng, đồng thời là đại biểu của nhân dân thực


4
hiện công việc quản lý nhà nước, tức là hoạt động “cầm quyền”. Đảng cầm
quyền là khái niệm gắn với quyền lực, mà cụ thể là ở việc “nắm chính quyền”.
Cho tới nay có nhiều cách quan niệm, lý giải khác nhau về đảng cầm
quyền. Trong đó có thể kể đến một số quan niệm sau: Thứ nhất, khái niệm đảng
cầm quyền dùng để phân biệt đảng ở thời kỳ đã nắm chính quyền với thời kỳ

đảng đó chưa nắm chính quyền; Thứ hai, đảng cầm quyền là khái niệm chỉ một
đảng (hoặc liên minh các đảng) nắm trong tay chính quyền (theo nghĩa rộng bao
gồm cả ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp); Thứ ba, đảng cầm quyền (liên
minh các đảng cầm quyền) là đảng (hoặc liên minh đảng đó) nắm trong tay
quyền hành pháp; Thứ tư, đảng cầm quyền phải là đảng đa số trong nghị viện.
Khi nói tới bộ máy chính quyền, trước hết vẫn là bộ máy hành pháp, bất kể
chính thể đó là gì, nguyên tắc hình thành các cơ quan quyền lực nhà nước như thế
nào. Muốn trở thành đảng cầm quyền thì ý chí của đảng phải trở thành ý chí chung
của xã hội. Nhưng muốn ý chí của đảng trở thành ý chí chung của xã hội thì đảng
đó phải là đảng đa số (ở nghị viện trong mô hình nghị viện), hoặc phải giành chiến
thắng trong bầu cử tổng thống (ở mô hình tổng thống và mô hình hỗn hợp).
Các dấu hiệu của đảng cầm quyền: Đảng chiếm đa số trong quốc hội ở các
nước theo mô hình nghị viện, chi phối quyền hành pháp; Đảng nắm giữ những vị
trí chủ chốt nhất của bộ máy hành pháp (các nước cộng hoà - tổng thống);
Trường hợp đặc biệt khác: đảng cầm quyền chính là đảng, tổ chức hay lực lượng
nắm trong tay quyền quyết định những chính sách quan trọng của quốc gia.
Như vậy, có thể quan niệm đảng cầm quyền là đảng duy nhất (hay liên
minh các đảng) nắm quyền đại diện ý chí chính trị chung trong xã hội, do đó,
đảng này (hay liên minh các đảng) nắm quyền chi phối hoạt động của bộ máy
chính quyền.
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng thường dùng nhiều đến
cụm từ “đảng lãnh đạo”. Khái niệm đảng lãnh đạo nhấn mạnh tới sự lãnh đạo,


5
dẫn dắt của đảng bằng quyền lực mềm thông qua vận động, thuyết phục, làm
gương. Do vậy ngay cả đảng không cầm quyền vẫn có khả năng trở thành đảng
lãnh đạo. Trong khi đó đảng cầm quyền vừa có thể lãnh đạo bằng chính quyền
lực nhà nước, hoặc kết hợp với việc sử dụng quyền lực mềm của đảng. Tuy
nhiên cũng có khả năng đảng cầm quyền nhưng không trở thành đảng lãnh đạo

nếu việc cầm quyền chỉ đơn thuần là sử dụng công cụ cưỡng chế một cách thô
bạo, chủ yếu là đe dọa và trừng phạt để có được sự tuân thủ của nhân dân. Nói
cách khác, đó là sự thống trị xã hội chứ không phải là lãnh đạo xã hội.
Từ đây có thể dễ dàng phân biệt quyền lực của đảng và quyền lực nhà
nước. Ở các nhà nước đa đảng, sự phân biệt này là khá rõ ràng khi so sánh quyền
lực giữa đảng cầm quyền và đảng không cầm quyền. Các đảng không cầm quyền
chỉ có quyền lực của đảng, thể hiện bằng năng lực hiện thực hóa mục tiêu chính
trị của đảng ở mức độ nhất định trong xã hội. Chỉ có đảng cầm quyền mới có
quyền lực nhà nước, tức là có khả năng áp đặt ý chí, mục tiêu chính trị của đảng
đối với toàn xã hội (tất nhiên, trong phạm vi, khuôn khổ của hiến pháp và luật
lệ), quyền lực chính trị của của đảng lúc này cũng được huy động, sử dụng để hỗ
trợ và kết hợp với quyền lực nhà nước, tạo nên sức mạnh và làm tăng hiệu lực,
hiệu quả của việc thực thi quyền lực nhà nước.
1.3. Khái niệm nhà nước
Theo cách tiếp cận chung nhất, khi con người sống chung với nhau thành
cộng đồng, xã hội sẽ nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột. Để giải quyết những giải
quyết xung đột này, có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau (đấu tranh giai cấp
chính là một cách thức giải quyết xung đột). Việc hình thành nên nhà nước, giải
quyết xung đột bằng quyền lực nhà nước là một cách thức căn bản và có hiệu quả
trong xã hội. Nói cách khác chính trị chính là quá trình con người và xã hội tìm
kiếm những cách thức, biện pháp giải quyết xung đột của việc sống chung thành
cộng đồng, xã hội. Ở phương Tây nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia
thành giai cấp và đấu tranh giai cấp điển hình trở thành nhũng mâu thuẫn đối kháng


6
không thể điều hòa được; còn ở phương Đông, nhà nước xuất phát từ nhu cầu hình
thành quyền lực chung của xã hội để trị thủy, chống giặc ngoại xâm.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm nhà nước, nhưng có thể đưa ra
quan điểm chung nhất, đó là một thể chế chính trị, ra đời trong một giai đoạn nhất

định của lịch sử. Với tư cách và nhân danh là một cơ quan quyền lực của nhân
dân, nhà nước thực hiện chức năng xã hội (công quyền) và chức năng chính trị.
Do độc quyền công cụ cưỡng chế và pháp luật, nhà nước điều chỉnh hành vi của
toàn xã hội trong một lãnh thổ xác định, được thừa nhận là chủ quyền quốc gia.
Nhà nước là một định chế chính thức để thông qua đó các chủ thể quyền
lực đưa ra các quyết định buộc xã hội phải thi hành. Trong đời sống chính trị - xã
hội hiện nay, cần phân biệt nhà nước và chính phủ.
Nhà nước là một thực thể chính trị có chủ quyền cao nhất, chịu trách nhiệm
cao nhất đối với các vấn đề trong lãnh thổ của mình. Nhà nước được xác định bởi
các yếu tố như: Chủ quyền trên một lãnh thổ xác định; Có một dân cư nhất định,
những dân cư khác muốn gia nhập, trở thành người dân sống trên lãnh thổ quốc
gia hay dân cư trong nước muốn thôi không làm công dân của đất nước cũng phải
tuân thủ theo những luật lệ, quy trình và thủ tục nhất định; Độc lập, tính toàn vẹn,
chủ quyền quốc gia chỉ được đảm bảo khi nhà nước có sự độc lập trong quyết định
các vấn đề của mình, không bị sự can thiệp, quyết định từ bên ngoài.
Chính phủ là bộ phận quan trọng nhất của nhà nước, chính phủ là một
nhóm người có thẩm quyền cao nhất đưa ra các quyết định dưới danh nghĩa nhà
nước. Chính phủ là một nhóm duy nhất trong nhà nước có thẩm quyền đưa ra các
quyết định mà mọi người dân sống trong đất nước đó phải chấp hành và tuân thủ.
Trên thực tế, đôi khi người ta thường dùng từ nhà nước và chính phủ là đồng
nghĩa với nhau và cùng có nghĩa là bộ máy nhà nước (bao gồm cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp). Ở một số nước, chính phủ đôi khi lại được dùng để chỉ
nhánh hành pháp.


7
Sự khác nhau khi dùng từ nhà nước là muốn nới tới môt thực thể chính trị
có chủ quyền, độc lập trên một lãnh thổ với một dân cư nhất định (có thể tồn tại
hàng nghìn năm) còn chính phủ có hàm ý bộ máy nhà nước trong một giai đoạn,
thời kỳ nhất định theo lát cắt ngang, chẳng hạn khi sử dụng nhà nước Mỹ và khi

nói về chính phủ Trump hoặc chính phủ Obama là dùng theo nghĩa khác nhau này.
2. Tác động của đảng chính trị cầm quyền đối với tổ chức và hoạt
động của Nhà nước
2.1. Tác động của đảng chính trị cầm quyền đối với Nhà nước
Nhìn chung trên thế giới, các đảng phái chính trị là lực lượng hoạt động ở
hậu trường nhưng có vai trò chi phối hoạt động của nhà nước. Tùy vào truyền
thống và thể chế chính trị của mỗi quốc gia, các đảng phái chính trị có các phương
thức khác nhau để thể hiện ý chí chính trị của đảng và tích cực tham gia vào các
công việc của nhà nước. Dấu ấn của các đảng phái chính trị trong việc tham gia
vào các công việc của nhà nước thể hiện rõ nét trên những phương diện sau:
Thứ nhất, thông qua bầu cử, các đảng phái chính trị tham gia tích cực vào
sự hình thành bộ máy nhà nước thông qua việc các đảng viên của đảng tranh cử
vào các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Thứ hai, tác động đến hoạt động của cơ quan lập pháp, hành pháp. Các
đảng phái chính trị kiểm soát và tác động đến các đảng viên của đảng trong hoạt
động của cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp.
Một đảng chính trị sau khi thắng cử trở thành đảng cầm quyền, thông qua
các nghị sĩ là đảng viên của đảng, nắm quyền kiểm soát các hoạt động của bộ
máy nhà nước. Hoạt động của nhà nước luôn tuân thủ theo sự lãnh đạo của đảng
cầm quyền, cụ thể hóa các mục tiêu, ý chí và quyền lợi của đảng vào chính sách
của quốc gia.
Để thực hiện những mục tiêu của đảng cầm quyền, đảng phải thực hiện
phương thức hay cách thức cầm quyền nhất định. Đó là những hình thức, phương


8
pháp, cách thức mà đảng tác động vào nhà nước để hiện thực hóa ý chí, mục tiêu
của đảng. Trong thực tiễn, các đảng có những phương thức cầm quyền khác
nhau, tuy nhiên sẽ có những điểm khác biệt giữa phương thức cầm quyền ở các
nước tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa.

Phương thức đảng cầm quyền ở các nước tư bản chủ nghĩa: Ở các nước
này, đảng cầm quyền sẽ nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước theo các nguyên
tắc đã được xác định. Đó là các nguyên tắc tổ chức và các cơ chế vận hành đã
được xác định rõ trong thiết kế và hoạt động của hệ thống chính trị. Bất kể đảng
nào khi ở vị trí cầm quyền cũng phải tuân thủ những nguyên tắc này.
Trên cơ sở đó, đảng cầm quyền đưa người của đảng vào bộ máy nhà nước
theo quy định của pháp luật. Những lãnh đạo của đảng cũng đồng thời là những
người nắm các vị trí quan trọng của nhà nước, trực tiếp thực hiện các mục tiêu
chính trị của đảng thông qua việc hoạch định chính sách của nhà nước. Chuyển ý
chí của đảng thành ý chí chung xã hội, ý chí nhà nước thông qua các thủ lĩnh của
đảng, các đảng viên trong các cơ quan công quyền.
Đảng cũng có những biện pháp giám sát để đảm bảo cho các đảng viên
trong bộ máy nhà nước đi đúng đường lối, cương lĩnh của đảng. Tuy nhiên,
đường lối, mục tiêu, cương lĩnh của đảng là những định hướng lớn và mang tính
khái quát chung. Do đó nó giành lại không gian khá rộng cho quyền chủ động, tự
quyết của các đảng viên trong việc hoạch định, thể chế hóa thành các mục tiêu,
chính sách của nhà nước. Bên cạnh đó, đảng cũng có những bộ phận hoạt động
để truyền bá đường lối, chính sách của đảng, nhà nước, tìm kiếm sự ủng hộ và
huy động nguồn lực xã hội cho việc thực thi các chính sách.
Phương thức cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa: Về cơ bản cũng
giống với phương thức cầm quyền của các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên do
cách thức tổ chức đảng thành các bộ phận khá song trùng với tổ chức bộ máy
nhà nước đóng vai trò lãnh đạo các cơ quan nhà nước, nên trong thực tế đôi khi


9
đảng can thiệp vào hoạt động của bộ máy nhà nước, làm giảm tính chủ động,
thực quyền của đội ngũ đảng viên ở các vị trí quyền lực nhà nước. Mặt khác, một
phần còn do đường lối, cương lĩnh, chính sách của đảng đôi khi lại khá cụ thể,
nên việc thể chế hóa thành chính sách nhà nước giống như là chấp hành một nghị

quyết, quyết định của đảng.
Phương thức cầm quyền này có những ưu điểm nhất định, đó là quá trình
phối hợp đơn giản, thống nhất và tập trung. Tuy nhiên những bất cập của nó trên
thực tế đang đòi hỏi cần phải có sự đổi mới, cải cách để có thể đáp ứng được
những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển xã hội.
Tóm lại, điều có ý nghĩa quyết định của đảng cầm quyền đối với nhà nước
là đưa tư tưởng, ý chí và lợi ích của đảng thâm nhập vào chính sách, quyết sách
của nhà nước. Nguồn lực để đảng cầm quyền duy trì hoạt động của mình là công
tác đào tạo và sử dụng cán bộ. Công tác này phải được làm một cách thường
xuyên, liên tục, có kế hoạch, hiệu quả và chất lượng cao. Từ đó, để đạt được mục
đích của việc cầm quyền là tác động vào nhà nước nhằm xây dựng một bộ máy
nhà nước phù hợp để bảo vệ lợi ích mà đảng cầm quyền đại diện và quản lý xã
hội phát triển phù hợp với mục đích và mong muốn của đảng mình.
2.2. Tác động của đảng chính trị cầm quyền đối với cơ quan lập pháp
Sự tác động của đảng cầm quyền vào cơ quan lập pháp bắt nguồn từ vai
trò, vị trí của cơ quan lập pháp.
Đây là cơ quan có chức năng đại diện, là cầu nối giữa chính phủ và người
dân, là một kênh quan trọng không chỉ chuyển tải ý chí, nguyện vọng của cử tri
và của nhân dân vào trung tâm thảo luận và hình thành chính sách mà còn là
người truyền đạt, cung cấp thông tin và giải thích chính sách, các vấn đề của nhà
nước cho nhân dân. Mọi dự án, đề xuất luật, chính sách của cơ quan hành pháp,
của các nghị sĩ… đều phải thông qua hoạt động xem xét, thảo luận, chỉnh sửa,
thông qua ở nghị viện mới có thể trở thành luật.


10
Cơ quan lập pháp cũng quyết định các vấn đề chung quan trọng của quốc
gia như: thu thuế; chi ngân sách; chiến tranh và ký kết các điều ước; quyết định
trưng cầu dân ý, đại xá; thành lập các cơ quan nhà nước, nhánh lập pháp thường
thực hiện chức năng thành lập chính phủ (ở mô hình nghị viện, mô hình hỗn

hợp); phê chuẩn các chánh án, thẩm phán của tòa án tối cao. Đồng thời giám sát
các nhánh quyền lực khác, như: nghe báo cáo của chính phủ, các thành viên
chính phủ; chất vấn các thành viên chính phủ; giám sát hoạt động của chính phủ;
bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ, các thành viên chính phủ (cộng hòa đại nghị) hay
luận tội người đứng đầu cơ quan hành pháp (cộng hòa tổng thống).
Xuất phát từ vai trò quan trọng của cơ quan lập pháp, cho nên đây là
hướng tác động chủ yếu nhất của đảng chính trị cầm quyền đối với nhà nước.
Bởi vì trong xu hướng hiện đại, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, và chỉ
có thông qua pháp luật thì lợi ích, ý chí, mục tiêu của đảng chính trị mới được cụ
thể hóa trên thực tế. Do đó, để tác động đến cơ quan lập pháp, đảng chính trị cầm
quyền cần phải thực hiện một số cáh thức sau:
Thứ nhất, tác động vào hoạt động bầu cử. Do các cơ quan lập pháp được
hình thành bằng con đường bầu cử, nên đảng chính trị luôn có sự can thiệp và
định hướng vào quá trình bầu cử thông qua hệ thống đảng viên của mình. Sự tác
động này có thể thông qua các hoạt động như: lựa chọn và đưa ra các ứng cử
viên cho cuộc bầu cử; tài trợ và vận động tài trợ cho hoạt động bầu cử; sử dụng
vai trò ảnh hưởng của các phương tiện thông tin đại chúng... Thông qua các hoạt
động này, đảng chính trị có thể lựa chọn các ứng viên và đưa các ứng viên của
mình vào tổ chức của nhà nước.
Thứ hai, tác động vào quá trình xây dựng hệ thống pháp luật về tổ chức và
hoạt động của cơ quan lập pháp.
Thứ ba, tác động vào cơ quan lập pháp thông qua hệ thống các tổ chức
đảng và các đảng viên trong cơ quan lập pháp.


11
Thứ tư, tác động thông qua các tổ chức quần chúng, các tổ chức chính trị;
các tổ chức chính trị - xã hội… để đưa ra ý kiến theo ý chí của đảng cầm quyền
nhằm xây dựng cơ quan lập pháp.
2.3. Tác động của đảng chính trị cầm quyền đối với cơ quan hành pháp

Đảng cầm quyền tác động vào cơ quan hành pháp do vai trò quan trọng
của cơ quan hành pháp (chính phủ). Chức năng chủ yếu của cơ quan hành pháp
là thực thi pháp luật và quản lý hành chính nhà nước (lập quy).
Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm
triển khai thực hiện các đạo luật đã được nghị viện thông qua sao cho có lợi nhất
cho quốc gia, đó là những văn bản dưới luật. Những văn bản này không chỉ bổ
sung cho pháp luật mà còn cụ thể hóa để tham gia điều chỉnh những vấn đề khác
nhau của đời sống xã hội và đảm bảo pháp luật được thực thi trên thực tế. Bằng
cách này, các cơ quan hành pháp cũng có thể đưa ra các luật lệ riêng phản ánh
quan điểm của mình.
Hành pháp trong các mô hình tổ chức bộ máy nhà nước cũng có mức độ
quyền hạn khác nhau. Thông qua một số quyền hạn và nhiệm vụ được Hiến pháp
quy định, cơ quan hành pháp có thể tác động đến nghị viện như: quyền đưa ra
sáng kiến lập pháp, ngân sách, yêu cầu triệu tập họp nghị viện bất thường, đề
nghị giải tán nghị viện (ở các nước theo mô hình nghị viện). Ở các nước theo mô
hình tổng thống, tổng thống có quyền phủ quyết đối với các đạo luật mà quốc hội
đã thông qua.
Mặt khác, cơ quan hành pháp có hệ thống tổ chức bộ máy rộng lớn nhất và
có đội ngũ nhân sự đông đảo và phức tạp nhất. Mỗi một sự thay đổi trong tổ
chức này đều ít nhiều có ảnh hưởng tới xã hội. Đồng thời, các cơ quan hành pháp
là cơ quan tổ chức thực hiện việc chi tiêu ngân sách, nắm nguồn ngân sách đã
được duyệt. Do đó, cơ quan hành pháp là cơ quan trực tiếp điều hành, quản lý


12
mọi mặt trong đời sống xã hội bằng pháp luật và dựa trên pháp luật. Định hướng
xã hội phát triển theo mong muốn của đảng chính trị cầm quyền.
Vì vậy, đảng chính trị cầm quyền cần thực hiện những cách thức tác động
đến cơ quan hành pháp như sau:
Thứ nhất, lãnh đạo việc thành lập cơ quan hành pháp bằng cách thức như

giới thiệu ứng cử viên vào hệ thống cơ quan hành pháp; định hướng cơ cấu tổ
chức của cơ quan hành pháp.
Thứ hai, thông qua hệ thống cơ quan lập pháp, đảng chính trị cầm quyền
gián tiếp tác động và hành pháp thông qua hệ thống pháp luật, điều chỉnh về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan hành pháp.
Thứ ba, đảng chính trị thông qua hệ thống tổ chức đảng và đảng viên trong
cơ quan hành pháp tác động vào cơ quan hành pháp.
Thứ tư, gián tiếp thông qua các tổ chức quần chúng, các tổ chức xã hội,
các nghiệp đoàn, câu lạc bộ để tác động và cơ quan hành pháp bằng các hoạt
động như kiến nghị, yêu cầu, đề nghị… đối với cơ quan hành pháp.
Thứ năm, tác động lên chính quyền địa phương bằng các hoạt động như:
định hướng cho hoạt động xây dựng pháp luật về chính quyền địa phương; can
thiệp vào quá trình hình thành bộ máy chính quyền địa phương thông qua hệ
thống tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy chính quyền địa phương và thông
qua hệ thống tổ chức quần chúng của địa phương.
2.4. Tác động của đảng chính trị cầm quyền đối với cơ quan tư pháp
Cơ quan tư pháp là các cơ quan thực hiện quyền tư pháp; là việc các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật vào việc phát hiện, xem xét
đánh giá các hành vi vi phạm pháp luật hoặc các sự kiện, tranh chấp pháp luật để
phán xét về tính chất pháp lý của hành vi hay sự kiện, tranh chấp đó, đưa ra các
phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với những cá nhân, tổ chức có liên quan, qua
đó góp phần bảo vệ, duy trì công lý về trật tự pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp


13
lý cho công dân, sự ổn định và phát triển của đất nước và xã hội. Các chức năng,
nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan tư pháp gồm có:
- Bảo vệ hiến pháp và pháp luật thông qua hoạt động xét xử mọi hành vi vi
phạm hiến pháp và pháp luật. Tòa án là cơ quan có quyền ra các phán quyết về các
hoạt động vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức và các cơ quan nhà nước.

- Phối hợp hoạt động với các ngành, các cơ quan khác (trong đó cả giám
sát, kiềm chế...).
- Giải thích hiến pháp, các đạo luật. Ở nhiều nước, việc giải thích pháp luật
không được ghi thành một chức năng chính thức. Nhưng qua thực tế xét xử, ngành
tư pháp đương nhiên đã đảm nhiệm chức năng này. Bởi vì để xét xử được, tư pháp
phải hiểu những điều luật rất chung, giải thích luật, áp dụng luật như thế nào.
Nguyên tắc hoạt động: khi bảo vệ hiến pháp và pháp luật, ngành tư pháp
chỉ dựa vào pháp luật, không được vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Tư pháp
xét xử phải công minh.
Như vậy, cơ quan tư pháp có vai trò quyết định trong đảm bảo công lý,
bảo vệ các quyền, tự do của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, đảng chính
trị cầm quyền cần phải có những biện pháp, cách thức tác động lên các cơ
quan tư pháp theo những hướng sau:
Thứ nhất, gián tiếp thông qua các cơ quan Lập pháp và Hành pháp, Đảng
chính trị tác động vào cơ quan Tư pháp. Phương thức tác động này có thể thông
qua nhiều biện pháp như ban hành chủ trương, chính sách, hệ thống luật pháp về
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Thứ hai, thông qua cơ quan lập pháp để lựa chọn và bổ nhiệm hệ thống
quan chức cho bộ máy của các cơ quan tư pháp.
Thứ ba, định hướng bằng chủ trương, quan điểm về tội phạm chính trị.
Thứ tư, tác động trực tiếp vào hoạt động của cơ quan tư pháp thông qua hệ
thống đảng viên là người tham gia vào quá trình công tố, xét xử.


14
Như vậy, có thể nói, khi một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền thì
đảng này sẽ vai trò, tác động lớn đến tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
theo những cách thức khác nhau lên các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thông qua sự tác động của đảng chính trị cầm quyền vào tổ chức và hoạt động
của nhà nước các ý chí, lợi ích của đảng chính trị cầm quyền được thể hiện toàn

diện, đầy đủ và sâu sắc nhất.
3. Liên hệ vai trò và tác động của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước ở nước ta hiện nay
Ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới hiện nay, hệ thống
chính trị gồm hai thành phần cơ bản là nhà nước và các chính đảng (đảng chính
trị). Khác với hệ thống chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa, hệ thống chính trị
ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay,
ngoài nhà nước và các chính đảng còn có một số tổ chức chính trị - xã hội đặc
biệt khác, được thành lập để thực hiện các hoạt động chính trị đặc biệt.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội,
đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là
người lãnh đạo, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Đó là vai trò đặc biệt
của Đảng trong hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo đó được quy định tại Khoản
1, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.


15
Do điều kiện lịch sử cụ thể, đặc thù nên trong xã hội Việt Nam chỉ tồn tại
quy nhất một đảng và cũng là đảng cầm quyền. Vai trò cầm quyền và lãnh đạo đó
đã được lịch sử Việt Nam khẳng định trong gần 90 năm qua, từ khi giành được
chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cho nên Đảng Cộng sản Việt

Nam là yếu tố cơ bản của hệ thống chính trị, là công cụ tập hợp, lãnh đạo giai
cấp công nhân và nhân dân lao động để giành, giữ, sử dụng quyền lực Nhà nước
và định hướng chính trị đi lên chủ nghĩa xã hội cho đất nước.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là các vấn đề của
đất nước, trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội
ở các cấp, các ngành; trong các mối quan hệ với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập
trung nhất là lãnh đạo về chính trị và tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn
khổ chính trị để Nhà nước Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình
theo quy định của pháp luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong nội dung của cương lĩnh
chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng
chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ
hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị ở nước ta hiện nay, được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), bao gồm:
- Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.


16
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động
trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.
- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các
tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là

người đứng đầu.
Trong các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói
trên, các quyết sách chính trị và việc tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị
của Đảng cũng có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng, chỉ đạo và tác động
trực tiếp đến hoạt động quản lý Nhà nước. Các quyết sách chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam là cơ sở chính trị, định hướng cho hoạt động quản lý nhà
nước, nên hoạt động quản lý Nhà nước mang tính chính trị sâu sắc, gắn bó chặt
chẽ với chính trị, có cơ sở chính trị vững chắc. Cụ thể là:
- Nhà nước ban hành và và tổ chức thực thi các chính sách, pháp luật dựa
trên các quyết sách chính trị của Đảng để đưa các mục tiêu chính trị của Đảng
vào cuộc sống.
- Các cơ quan hành chính Nhà nước tổ chức thực hiện các chính sách,
pháp luật đã ban hành dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng trong mỗi cơ quan.
- Các hoạt động quản lý Nhà nước được triển khai thực hiện với sự tham
gia tích cực của đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước.
- Hoạt động quản lý Nhà nước chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
Thông qua những hoạt động này, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện một cách rõ ràng, sâu
sắc và toàn diện. Những thành tựu to lớn của nước ta trong việc xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua đã thể hiện rõ điều này.


17
Tuy vậy, trong thực tế nguy cơ quyết sách chính trị và hoạt động quản lý
Nhà nước tách rời nhau vẫn có xu hướng phát sinh. Sự tách rời giữa quyết sách
chính trị của Đảng với hoạt động quản lý của Nhà nước thể hiện trên hai mặt:
- Thứ nhất, các quyết sách của Đảng không phù hợp với yêu cầu thực tế,
làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, làm tổn hại đến vai trò
và uy tín của Đảng.
- Thứ hai, hoạt động quản lý Nhà nước không tuân thủ quyết sách và không

bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, không đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Từ đó dẫn đến những nguy cơ to lớn:
- Đảng mắc phải sai lầm, chủ quan, duy ý chí trong việc hoạch định và tổ
chức thực hiện các quyết sách chính trị.
- Trong lãnh đạo, Đảng có thể mắc bệnh tả khuynh trong việc áp đặt ý chí
của mình đối với Nhà nước, tự đặt mình lên trên Nhà nước và pháp luật, bao biện
làm thay công việc của Nhà nước mà nhiều khi lại không chịu trách nhiệm pháp
lý về các quyết định của mình. Trong không ít trường hợp, sự bao biện làm thay
của Đảng đã làm cho hoạt động của cơ quan Nhà nước trì trệ, ỷ lại, thiếu sự chủ
động và kém hiệu quả.
- Thể chế hóa quyết sách chính trị của Đảng thành chính sách, pháp luật của
Nhà nước không rõ ràng, dẫn đến những bất cập trong pháp luật và thực thi pháp
luật, gây bức xúc trong nhân dân và sự mất lòng tin vào chế độ.
- Một số quyết định cụ thể và hoạt động của các cấp chính quyền, của hệ
thống công chức không tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng, đưa đến hậu
quả tiêu cực.
Những nguy cơ này nếu không được khắc phục sẽ dẫn đến tình trạng tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước gặp nhiều hạn chế và bất cập. Do đó,
cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.


18
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước luôn là một
vấn đề lớn, khó và phức tạp bởi nó gắn chặt với một đối tượng lãnh đạo luôn
biến đổi. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, do vậy, có nhiều phương
án có thể được lựa chọn. Vấn đề là tìm ra một phương thức tối ưu nhất. Nói cách
khác, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có liên quan
đến nhiều nội dung: Từ nhận thức lý luận đến yêu cầu về tính hiệu quả hoạt động
trong thực tiễn. Từ xây dựng thể chế, cơ chế đến quan điểm, chính sách. Từ môi
trường xã hội đến con người với tư cách là chủ thể của các quá trình biến đổi xã

hội; thậm chí còn liên quan đến vấn đề truyền thống dân tộc, nhu cầu, lợi ích và
tâm lý. Vì vậy, để nhằm đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước cần quán
triệt một số phương hướng cụ thể như sau:
- Bảo đảm chủ trương, đường lối của Đảng phù hợp với thực tế khách
quan trong hoạt động quản lý nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động quản
lý nhà nước.
- Cơ quan quản lý Nhà nước thể chế hóa đúng và đầy đủ chủ trương,
đường lối của Đảng.
- Cơ quan quản lý Nhà nước tổ chức, điều hành hoạt động thực tế phù hợp
với chủ trương, đường lối của Đảng.
Thực tế quản lý Nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua đã chứng
minh tư tưởng của V.I.Lênin: “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của
nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm
vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”. Sự vận dụng trong thực tế quan điểm nói
trên đã khẳng định vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với hoạt động quản lý Nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước ta đạt được những


19
thành công to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong hơn nửa thế kỷ qua.


20
C. KẾT LUẬN
Đảng cầm quyền bao giờ cũng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ
thống chính trị, đặc biệt và trực tiếp nhất là nhà nước; bằng nhà nước và thông
qua nhà nước để thực hiện mục tiêu, chiến lược của mình. Giành, giữ và thực thi

quyền lực nhà nước là một hoạt động cơ bản của các đảng chính trị. Tùy theo
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng nước cũng như mục tiêu
theo đuổi mà mỗi đảng cầm mục tiêu là giành, thực thi và chi phối quyền lực nhà
nước, từ đó chi phối và thực thi quyền lực của đảng mình đối với các đảng khác
và với toàn xã hội.
Các đảng chính trị khi đã cầm quyền đều tuân theo những nguyên tắc
chung là lãnh đạo, chi phối, sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh, các
phương tiện vật chất đã được thiết chế hóa của nhà nước để thực hiện mục tiêu
của đảng mình, của giai cấp mình. Song, mỗi đảng cầm quyền khác nhau đều có
những phương thức lãnh đạo và cách thức tổ chức thực hiện khác nhau tùy thuộc
vào quan điểm, tư tưởng, tương quan lực lượng trong hệ thống chính trị và tùy
thuộc vào điều kiện khách quan của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước và cả nhân tố chủ quan của chính đảng cầm quyền.
Ở Việt Nam chỉ tồn tại duy nhất một đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản
Việt Nam, sự cầm quyền của Đảng thể hiện ở vai trò lãnh đạo của Đảng được
quy định cụ thể trong Hiến pháp. Từ đó, vai trò lãnh đạo của Đảng là toàn diện
đối với cả Nhà nước và các thể chế khác của hệ thống chính trị ở nước ta./.


21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), http://tulieuvankien.
dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linhxay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-triennam-2011-1528
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016
4. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,
/>5. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo

trình học phần Hệ thống chính trị và thể chế chính trị.
6. PGS, TS. Nguyễn Hữu Đổng và TS. Ngô Huy Đức, Nhận thức khái
niệm “Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm quyền” theo Tư tưởng Hồ Chí Minh,
/>7. TS. Nguyễn Danh Châu, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước, />5&mzid=777&ID=1833



×