Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tieu luan mon Tu tuong ho chi minh ve xay dung chu nghia xa hoi Cao học xây dựng Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.37 KB, 21 trang )

1
MỞ ĐẨU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho cách mạng Việt Nam một giá trị
tinh thần vô giá. Đó là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống quan điểm đó, tư tưởng về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội có giá trị và ý nghĩa quan trọng
trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, là nền tảng tư tưởng để Đảng ta phát triển
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Chủ nghĩa xã hội, theo Người “là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “mục
đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”.
Có thể nói, chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước
mạnh, mọi người ai cũng có công ăn, việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành, được phát triển toàn diện. Để đạt mục tiêu đó, Người đã
đưa ra nhiều quan điểm có giá trị trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đổi mới hiện nay. Trong đó có quan điểm: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa nói riêng, cũng như sự
vận dụng của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển con
người Việt Nam, em lựa chọn đề tài: “Sự vận dụng quan điểm xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta vào
việc xây dựng và phát triển con người Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận kết
thúc môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chương
trình Cao học chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.


2
B. NỘI DUNG


1. Một số vấn đề chung về quan điểm xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bắt đầu hình thành từ khi
Nguyễn Ái Quốc phát hiện ra đường lối giải phóng dân tộc, đặt cách mạng Việt
Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa xã hội. Từ đó, trong cuộc đời cách mạng phong phú vừa đấu tranh, vừa
nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, nhận thức của Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ hơn. Người đã tiếp
cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc. Đó
là từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc; phương diện đạo
đức; truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Chính từ các cách
tiếp cận này đã tạo nên bản sắc đặc thù về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó, có các điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất về
bản chất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, nhưng được Việt Nam
hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; Thứ hai, tư tưởng của Người về chủ
nghĩa xã hội lại rất phong phú và đa dạng; Thứ ba, chủ nghĩa xã hội mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói tới đó là chủ nghĩa xã hội thực tế, gần gũi với đời sống,
vì con người, do con người và cho con người; Thứ tư, chủ nghĩa xã hội theo
Người là dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, thấm nhuần truyền thống văn
hóa dân tộc và kết tinh những giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại.
Từ việc xác định được các đặc điểm nổi bật và mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đề ra quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam thể hiện ở các nội dung cơ bản:
Một là, quan điểm về thời kỳ quá độ và đặc điểm xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Qua đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đặc điểm nổi bật và nhiệm



3
vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người nhấn
mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lê chủ nghĩa xã hội,
chỉ rõ tính chất phức tạp và khó khăn của nó: Thứ nhất, đây thực sự là cuộc
cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nó đặt ra và đòi
hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau; Thứ hai, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có
kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ
đối với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể vấp váp và thiếu sót;
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn bị các thể lực
phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Hai là, quan điểm về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
quá độ. Người đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực: Trên lĩnh
vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng; Trên lĩnh vực kinh tế, Người đề cập đến các mặt lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế quản lý kinh tế; Trên lĩnh vực văn
hoá - xã hội, Hồ Chí Minh nhấ mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới,
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xác định bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chỉ ra cách làm phù hợp với Việt Nam qua hai nguyên tắc có tính chất phương
pháp luận: Thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến
mang tính quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ ản của chủ nghĩa MácLênin về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước
anh em, những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng không được sao
chép, máy móc, giáo điều; Thứ hai, xác định bước đi và biện pháp xây dựng
chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát từ thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và
khả năng thực tế của nhân dân.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin chính là nền tảng



4
tư tưởng để Đảng ta phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
1.2. Cơ sở hình thành quan điểm xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tại Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội, ngày 20/6/1960, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đưa ra quan điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con
người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”1. Quan điểm đó có ý
nghĩa quan trọng, không những thể hiện tư tưởng chỉ đạo về mục tiêu xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa mà còn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của
con người xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Con người xã hội chủ nghĩa theo Hồ Chí Minh là con người mới để
phân biệt với con người sống trong xã hội cũ, con người chưa giác ngộ con
đường cách mạng theo lập trường giai cấp công nhân, chưa được làm chủ,
chứ tuyệt nhiên không có ý phân biệt con người theo đẳng cấp trên - dưới,
trước - sau, sang - hèn, nhất là không đối lập con người mới với con người
sống trong chế độ cũ. Mới là khác cũ, nhưng con người mới hoặc con người
sống trong xã hội cũ đều có chung nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đều có xuất
phát điểm về văn hóa, xã hội của một nước nông nghiệp chưa qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, nhất là phải chịu áp bức, bóc lột tàn bạo của chế
độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân trong nhiều thập kỷ.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới chiếm một vị
trí trung tâm, là chiều sâu nhất trong tư duy lý luận của người, chứa đựng
những giá trị khoa học vô cùng to lớn. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh “là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và giải phóng con
người”; trong đó, vấn đề Con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Bởi
lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội chính là con người.

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 604.


5
Tiếp nối truyền thống tư tưởng của dân tộc và tiếp thu, vận dụng sáng
tạo những quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người, suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh chỉ có một “…ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”2. Như chúng ta đã biết, sự thối nát, bạc nhược của chế độ phong kiến
Việt Nam, sự xâm lược và bóc lột tàn tệ của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX làm cho dân tộc ta mất độc lập, nhân dân mất tự do, đồng bào
ta phải sống trong cảnh tối tăm, tủi nhục của kiếp người nô lệ. Hồ Chí Minh
đau xót khi thấy “chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người
ta lại vi phạm mọi quyền làm người một cách độc ác trơ tráo đến thế”3.
Thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, kết hợp với kinh nghiệm
thực tiễn phong phú của mình và đặc biệt được soi sáng bởi lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng, để giải phóng con
người, cần phải đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội. Các cuộc đấu tranh này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và chỉ có như
vậy, con người mới được giải phóng hoàn toàn. Với khát vọng giải phóng con
người, với cách nhìn sáng suốt và khoa học về thời cuộc cùng tài năng phân
tích thực tiễn một cách biện chứng, Hồ Chí Minh đặt mục tiêu giải phóng dân
tộc lên hàng đầu vì Người hiểu rằng, nếu dân tộc không được giải phóng,
không có độc lập thì cũng không giải phóng được các giai cấp cần lao.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập cho dân tộc là điều vô cùng
quý giá, song đó mới chỉ là tiền đề tiên quyết để giải phóng con người. Thực
vậy, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp mới chỉ mang lại độc lập cho dân

tộc, tự do cho nhân dân, con người thoát khỏi ách nô lệ, bóc lột, thống trị.
Người cho rằng, giành được độc lập dân tộc rồi thì phải xây dựng chủ nghĩa
xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ là xu hướng phát triển tất yếu của thời
2
3

Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 161.
Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 383.


6
đại, mà còn tạo cơ sở để hiện thực hoá các quyền con người một cách toàn
diện hơn. Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa chính là để cho nhân dân lao
động có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hưởng công bằng, văn minh;
con người thực sự được giải phóng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội, có điều kiện để thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, có cơ hội để
phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, đức dục; đồng thời, có thể phát huy mọi
khả năng để cống hiến được nhiều nhất cho xã hội.
Bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới, con người ít nhiều còn mang
những tàn dư tư tưởng của chế độ xã hội cũ. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng,
cần phải giáo dục con người, tẩy rửa những thói hư tật xấu mà xã hội cũ đã
tiêm nhiễm nhằm làm cho phần tốt của họ “nảy nở như hoa mùa xuân”, phần
xấu mất dần đi. Có thể khẳng định rằng, giải phóng con người là một biểu
hiện sinh động trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là mục tiêu của sự
phát triển xã hội. Coi con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội, Hồ Chí
Minh không dừng lại ở việc giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc
lột, mọi trói buộc bởi những quan niệm cũ kỹ, lạc hậu của xã hội cũ, mà còn
luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân. Trong mọi hoàn cảnh, mọi trường
hợp, Người luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.
Với lòng yêu nước và lòng nhân ái cao cả, với việc tiếp thu tinh thần

nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm
đặc biệt đến việc chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao
động. Trong tư tưởng của Người, việc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa,
xét đến cùng, cũng chính là xuất phát từ con người, vì lợi ích của con người.
Người từng nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói,
chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” 4. Những lợi ích của con
người, như được tự do, được độc lập, được “ăn no, mặc đủ”… chỉ được hiện
thực hoá và đảm bảo vững chắc thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kiên
4

Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 152.


7
định nguyên tắc lấy dân làm gốc, trong điều kiện đất nước vừa giành được
độc lập lại phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài và muôn vàn khó khăn
khác, Hồ Chí Minh vẫn dành sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề dân sinh.
Như vậy, cơ sở hình thành quan điểm xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò, vị trí của quần chúng trong lịch sử; đồng thời xuất phát
từ hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam cũng như sự chủ
động tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại của Hồ Chí Minh trong
cuộc đời và sự nghiệp hoạt cách mạng của Người.
2. Nội dung quan điểm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
trong tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Về xây dựng con người mới
Con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là con người xã hội chủ
nghĩa, con người phát triển toàn diện để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa là để

phân biệt con người sống trong xã hội cũ, con người chưa được giác ngộ cách
mạng, chưa được trang bị lý luận cách mạng đúng đắn theo lập trường của
giai cấp công nhân. Con người mới xã hội chủ nghĩa không phải tự nhiên mà
có, nó được gắn với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, gắn với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Hồ Chí Minh luôn xem xét con người trong mối quan hệ với xã hội.
Người đưa ra một định nghĩa về con người rất mộc mạc mà độc đáo: “Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người” 5. Với nghĩa đó, khái niệm con
người đã mang trong nó bản chất xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội. Khi
bàn về con người, trong tư tưởng của Người không có con người trừu tượng
mà chỉ có con người cụ thể, đó là mỗi một con người đều có cuộc sống, mối
5

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 644.


8
quan hệ riêng của họ. Đối với Người, khái niệm con người được nhắc tới như
một mục tiêu thiêng liêng, cao cả của cách mạng.
Tư tưởng về con người, giải phóng con người và con người phát triển
toàn diện là nhân tố quyết định thành công của cách mạng được Người vận
dụng và phát triển trong suốt cả cuộc đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Khi
nói về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh tới việc chăm lo con người, sao cho người lao động có công ăn
việc làm, sao cho ai cũng được ấm no hạnh phúc. Người nói: “Nói một cách
tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và sống một cuộc đời hạnh phúc”6.

Sau khi đến được với chân lý cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm
no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình
hạnh phúc”7. Cũng từ đó, Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc ở
Việt Nam. Đó là con đường cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội, giải phóng con người để
đảm bảo cho con người cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng xã hội.
Quan điểm về con người mới xã hội chủ nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn gắn với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người vận dụng
quan điểm mác xít về con người để xây dựng con người mới, những con
người mang thế giới quan và nhân sinh quan của chủ nghĩa Mác-Lênin, con
người thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh. Theo Người, để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa phải chú ý
cả hai phương diện. Một mặt, là sự phấn đấu vươn lên không ngừng của mỗi
người theo hướng tự giác đấu tranh với những mặt lạc hậu, mặt xấu vốn tồn
6
7

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 17.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 461.


9
tại như mặt bản năng tự nhiên của con người, đồng thời học tập, tu dưỡng đạo
đức cách mạng được xem như tinh hoa văn hóa của nhân loại. Mặt khác, đó là
sự tham gia tích cực của con người vào việc cải tạo xã hội theo hướng xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đối với nước ta là thực hiện cách mạng giải phóng dân
tộc, kết hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là hai mặt luôn gắn kết với
nhau và “muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ

nghĩa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định một điều kiện có tính
quyết định đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta mà còn chỉ rõ vị trí, vai trò
quan trọng của con người mới xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Về xây dựng con người phát triển toàn diện
Nói tới con người Việt Nam phát triển toàn diện là nhằm tới mục tiêu
xây dựng xã hội mới, thực hiện công bằng xã hội, dân chủ trong quản lý đất
nước, đó là bản chất của chế độ xã hội mới mà chúng ta đang hướng tới. Xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh
phải thực hiện từng bước, từng nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, chiến lược con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ chỗ ý thức được vị trí, vai trò quyết định của con người đến sự
nghiệp cách mạng ở nước ta, Người đã có tư duy rất sớm về chiến lược con
người. Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc năm
1958, Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người”. Trồng người theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau, chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh
niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng”, vừa “chuyên”. Người không chỉ quan tâm sâu sắc tới thế hệ cùng thời
với mình, mà người còn quan tâm tới thế hệ tiếp sau; chú ý tới công tác thanh,
thiếu niên và nhi đồng với một thái độ yêu thương, độ lượng, nghiêm túc và


10
thận trọng. Người căn dặn phải uốn cây từ lúc cây non, đừng để tâm hồn các
cháu bị vẩn đục vì chủ nghĩa cá nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm thấy những biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân phát sinh từ lớp người còn trẻ, đó là nguyên nhân xuất hiện những thanh,
thiếu niên hư hỏng. Cho đến lúc sắp từ giã cõi đời, Người vẫn không quên
việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Điều đó cho thấy Người coi vấn đề

đạo đức cách mạng và việc chống chủ nghĩa cá nhân có tầm rất quan trọng
trong việc “trồng người”. Hồ Chí Minh luôn nâng niu, trân trọng những tài
năng, tạo điều kiện để phát triển, vì đây là những hạt giống đỏ của đất nước.
Thứ hai, vai trò của giáo dục, đào tạo trong việc xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức trong chiến lược con người thì công
tác giáo dục, đào tạo con người mới là quan trọng hơn bao giờ hết. Ngay từ
lúc mới từ nước ngoài trở về, Người đã nghĩ đến đào tạo người cách mạng
bằng nhiều hình thức khác nhau như gửi đi đào tạo ở trường Phương Đông
(Liên Xô), tổ chức huấn luyện trực tiếp, viết sách làm tài liệu cho việc truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhờ đó, Bác đã xây dựng được nhiều thế hệ cán bộ
cách mạng thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước trên một tầm cao mới. Đó là
những chiến sĩ cách mạng có thế giới quan và nhân sinh quan mới, sau này
Người gọi đó là những con người mới xã hội chủ nghĩa, họ là những đảng
viên đảng cộng sản, những đoàn viên thanh niên lao động, những chiến sĩ
trong quân đội và công an nhân dân, những công nhân, nông dân trong sản
xuất và chiến đấu. Người đặc biệt chú trọng tới công tác đào tạo cán bộ, đảng
viên, gắn việc giáo dục lí luận với thực tiễn, lấy kết quả trong hoạt động thực
tiễn làm thước đo tác dụng của giáo dục, đào tạo. Những bài học quý giá về
công tác giáo dục, đào tạo con người mới đã được Người cô đọng trong hai
tác phẩm nổi tiếng là Đường Kách mệnh và Sửa đổi lối làm việc với việc trình


11
bày cặn kẽ từ kinh nghiệm công tác đến tư cách người cán bộ, đảng viên; từ
các vấn đề lý luận đến các bài học trong thực tiễn công tác và chiến đấu.
Thứ ba, phương pháp xây dựng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú ý tới phương pháp nêu
gương, thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa lý luận với thực tiễn. Gương
mẫu trong việc làm, trong cuộc sống, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu

trước quần chúng, nêu gương tốt để quần chúng noi theo. Người chủ trương
viết sách về người tốt, việc tốt nhằm nêu gương những chiến công nổi bật,
vang dội, những công việc ích nước lợi dân, từ đó lôi cuốn đông đảo nhân dân
kể cả các cụ già, cháu nhỏ thi đua làm việc tốt. Đó cũng là cách khơi dậy các
tiềm năng tốt đẹp như tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng, thuần phong
mỹ tục sẵn có ở người Việt Nam. Đây là những chất liệu để xây dựng con
người mới phát triển toàn diện.
Cùng với phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn có cách nhìn người vừa bao dung, vừa sâu sắc để luôn khai thác
những mặt tốt, tìm cách khơi dậy các mặt tốt. Người nói: “Mỗi con người đều
có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho mặt tốt của con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
con người cách mạng”8.
3. Sự vận dụng của Đảng ta về vấn đề xây dựng con người mới theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
3.1. Bối cảnh, một số vấn đề đặt ra với việc xây
dựng con người hiện nay
3.1.1. Bối cảnh
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá hiện nay, vấn đề xây dựng con người ở nước ta gặp một số điểm thuận lợi:

8

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 558.


12
Thứ nhất, đất nước đang tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
trong một xu thế toàn cầu hóa. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới; được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp

quốc (nhiệm kỳ 2 năm 2008 - 2009); năm 2010 Việt Nam làm Chủ tịch luân
phiên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN); gia nhập Hiệp định
CPTPP và nhiều tổ chức quốc tế khác nữa. Chắc chắn rằng, với việc tham gia
ngày càng nhiều và ngày càng tích cực vào các tổ chức quốc tế, thì Việt Nam
có nhiều cơ hội để phát triển, thu hẹp dần khoảng cách tụt hậu về phát triển
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, Việt Nam đang tiếp tục ổn định về nhiều mặt. Đây là một
trong những điều kiện tiên quyết, tạo ra môi trường bên trong và bên ngoài để
đất nước phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn, bởi vì không ít nước trong khu
vực và trên thế giới không dễ gì có được điều kiện này.
Thứ ba, hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến
nhằm đưa đất nước tiến nhanh và bền vững. Việt Nam đã thấu chịu thử thách
qua nỗi nhục bị nước ngoài đô hộ hàng nghìn, hàng chục năm, nay nỗi nhục
nghèo nàn và lạc hậu đang chích vào tâm trí của con người Việt Nam nói
chung, cứa vào lòng tự trọng của người Việt Nam. Chưa bao giờ ý chí vươn
lên thoát khỏi tình trạng kém phát triển lại mạnh như bây giờ trong con người
Việt Nam.
Thứ tư, trong tình hình quốc tế đang ở vào trạng thái vừa hợp tác vừa
đấu tranh bởi xu thế ngày càng mạnh của toàn cầu hóa, chúng ta gặp những
thuận lợi cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó
là xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; là sự phát triển nhanh hơn rất nhiều
của khoa học và công nghệ so với tất cả các thời kỳ cách mạng kỹ thuật trước
đây (thường được gọi là thời kỳ Cách mạng Công nghiệp 4.0), mà Việt Nam
là nước đi sau có thể có lợi thế rút ngắn các bước phát triển.
Bên cạnh những mặt thuận lợi nêu trên, việc xây dựng và phát triển con
người ở nước ta cũng gặp phải những khó khăn nhất định:


13
Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa đặt ra cho các nước đang phát triển

như nước ta những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn: vấn đề sinh thái, ô
nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khỏe cộng đồng,
sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế, đặc biệt
nguy hiểm là tội phạm có tổ chức. Về mặt chính trị, đó là những thách thức
nghiêm trọng đối với chủ quyền quốc gia. Điều này ảnh hưởng tới cả phẩm
chất và năng lực của con người. Điều đó được lý giải bằng sự tác động của
kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội
nhập về chính trị. Từ đó đặt ra thách thức khắc nghiệt là hội nhập nhưng
không hòa tan. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, người ta thường nói về
sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập
hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không thể có một quốc gia đứng
độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Vấn đề là ở chỗ, đứng như thế nào, thế đứng ra sao để hội nhập toàn cầu
hóa, trong đó quốc gia - dân tộc tham gia rất tích cực, rất sâu, rất rộng nhưng
“anh vẫn là anh”, đó quả thực là vấn đề của bản sắc văn hóa quốc gia - dân
tộc.
Thứ hai, những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới: vấn
đề xung đột dân tộc, khu vực, tôn giáo; ranh giới giữa chiến tranh chính nghĩa
và chiến tranh phi nghĩa nhiều lúc bị mờ đi và bị chuyển cực; giữa chủ quyền
và nhân quyền; giữa sự can thiệp cần thiết của các tổ chức quốc tế, kể cả tổ
chức lớn nhất là Liên Hiệp quốc, với việc vi phạm bốn yếu tố quyền dân tộc cơ
bản của mỗi quốc gia là độc lập - chủ quyền - thống nhất - toàn vẹn lãnh thổ,
trở nên mong manh khó phân biệt hơn bao giờ hết. Thế giới càng trở nên bất an
hơn bởi chủ nghĩa khủng bố và nguy cơ tiềm tàng vũ khí hạt nhân. Thế giới bị
tàn phá bởi chính con người trong nỗ lực/lòng tham tìm mọi cách tăng trưởng
kinh tế mà chưa chú ý đúng mức cũng như không giải quyết được các vấn đề
khác, trong đó có vấn đề môi trường sinh thái để phát triển bền vững.


14

Thứ bai, những nguy cơ, thách thức lớn đối với quá trình phát tiển của
đất nước. Điều này đã được Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (1994) của Đảng đã chỉ ra: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng
trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh
tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục
được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy
cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ diễn biến hòa bình của các thế
lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn
nhau”9. Việc chỉ ra bốn nguy cơ như vậy là rất chính xác. Đến các Đại hội sau
đó và gần đây nhất là Đại hội XII của Đảng (2016), Đảng đều khẳng định sự
nhận định đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị này. Trong giai đoạn hiện nay,
nguy cơ lớn nhất, nguy cơ của mọi nguy cơ là: nguy cơ mất chế độ chính trị
đang xây dựng; và như vậy, rất khó khăn cho việc xây dựng con người Việt
Nam.
3.1.2. Một số vấn đề đặt ra
Thứ nhất, con người là trung tâm. Khi hội nhập quốc tế diễn ra mạnh
mẽ và Việt Nam nằm trong dòng xoáy của toàn cầu hóa, bị chế định trong
“luật chơi” quốc tế đã định sẵn mà chúng ta không có quyền sửa. Sự nghiệp
xây dựng đất nước ta trong môi trường quốc tế sẽ diễn ra trong hoàn cảnh
cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết, nó đầy nghiệt ngã, quyết liệt gấp bội so
với trước đây, rất có thể mức độ và hệ số rủi ro sẽ rất lớn và dày hơn. Để chấp
nhận vượt qua thách thức, nguy cơ, đòi hỏi tất cả các thành viên hệ thống
chính trị, trong đó nổi rõ con người Việt Nam có những phẩm chất và năng
lực vượt trội so với thời kỳ trước.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm.
Chúng ta càng thấy rõ hơn, sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo đứng trước
thời cơ, thách thức và nguy cơ lớn, nếu Đảng ta biết nắm lấy thời cơ, vượt qua
9


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 25.


15
thách thức, đề phòng và khắc phục được những nguy cơ, thì đất nước ta sẽ
phát triển nhanh và bền vững trên con đường chủ nghĩa xã hội. Điều này
không có gì hơn là phụ thuộc vào chính yếu tố con người.
Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong toàn
cầu hóa đã trở thành yêu cầu, dung môi buộc con người Việt Nam phải vươn
lên về mọi mặt, đưa đất nước sánh vai cũng các cường quốc năm châu. Đảng
và nhân dân Việt Nam đã xác định tiến bước trên con đường phát triển ấy. Do
đó, hoàn cảnh này chính là cú hích tích cực, tạo động lực mạnh mẽ để xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hồ Chí Minh đã nêu lên
quan điểm rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa. Học cách nói của Người, chúng ta có thể nói rằng,
muốn có xã hội phát triển công nghiệp 4.0 thì phải có con người 4.0.
Muốn cạnh tranh thì phải có sức mạnh, có thế mạnh, biết nắm lấy mọi
cơ hội thuận lợi của Thiên - Địa - Nhân để có được thế chân vạc Thời - Thế Lực. Con người Việt Nam trong cuộc sinh tồn và phát triển phải bằng sức
mạnh cạnh tranh đúc từ sức mạnh nội tại kết hợp với yếu tố bên trong và bên
ngoài, biến ngoại lực thành nội lực. Để làm được những công việc vĩ đại đó
thì cần những con người có đủ phẩm chất và năng lực, phải là những người
bằng bàn tay khối óc của chính mình làm nên sự nghiệp lớn, đưa dân tộc tiến
vào xã hội đã được xác định: xã hội xã hội cộng sản, nơi mà ở đó con người
được phát triển tự do, toàn diện.
Thứ hai, cần phải chú trọng hơn về giáo dục. Giáo dục không chỉ là
quốc sách mà còn là sinh mệnh chính trị của dân tộc. Xét cho đến cùng,
những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của con người Việt Nam nói chung đều
là do những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực này mà ra. Có một triết lý được nhiều người thừa nhận: Muốn

dự đoán tương lai đất nước, hãy nhìn vào giáo dục, muốn đánh giá nền giáo
dục, hãy nhìn vào đãi ngộ đối với nhà giáo. Trên thế giới ngày nay, những


16
người giàu nhất thế giới chẳng có ai không tốt nghiệp phổ thông, không ai mù
chữ lại có thể trở thành chính khách.
Sự cố gắng của Đảng và Nhà nước ta đã được thể hiện cơ bản trong
Chiến lược Phát triển giáo dục, ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐTTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ cũng như trong Nghị quyết số
33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước, mà Chính phủ đã ra Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày
31/12/2014 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 9
khóa XI. Song, trên thực tế, việc thực hiện các nghị quyết cũng như Chiến
lược này còn rất lúng túng, trong đó có nguyên nhân từ những cán bộ chủ
chốt của ngành. Hàng chục năm qua, Nhà nước đã có cố gắng thực hiện quan
điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, mỗi năm đã chi khoảng 20% ngân
sách cho giáo dục. Đó là chưa kể kinh phí xã hội chi trả cho các dịch vụ giáo
dục. Đó là con số không nhỏ nếu đem so sánh với các ngành khác. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận về giáo dục, vẫn còn nhiều bất cập
và rào cản, trong đó phải kể đến cả sự bất cập về nhân sự cán bộ chủ chốt.
3.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người mới tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là mục
tiêu, là động lực của cuộc cách mạng. Quan điểm này đươc thể hiện thông qua
các kỳ đại hội, đặc biệt tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều
quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này
được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong hoạt
động thực tiễn và phát triển kinh tế - xã hội:

Một là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở
thành mục tiêu của chiến lược phát triển, là một trong những nhiệm vụ tổng
quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020, đó là xây dựng “con người phát


17
triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”10.
Đây là một bước tiến quan trọng của Đảng ta không chỉ coi trọng phát
triển con người về mặt nhận thức, về mặt lý luận, mà còn biến thành nhiệm vụ
cụ thể và hoạt động thực tiễn. Căn cứ để đưa ra nhiệm vụ tổng quát dựa trên
sự đúc kết những giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đảng tạo
điều kiện để con người giai đoạn hiện nay phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật một cách toàn diện. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức, ý thức tự hào dân tộc, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Đấu tranh phê
phán, đẩy lùi những hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng
nền văn hóa, làm tha hóa con người, sự xuống cấp về đạo đức xã hội, để xây
dựng thành công một xã hội tốt đẹp, văn minh và phát triển.
Hai là, gắn mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng con người.
Đại hội XII của Đảng khẳng định chủ trương gắn việc xây dựng văn
hóa, con người với xây dựng và phát triển đất nước. Đây là bước phát triển
trong tư duy lý luận của Đảng về lĩnh vực phát triển con người sau 30 đổi
mới. Đại hội XII khẳng định phương hướng phát triển văn hóa là: “Xây dựng,
phát triển văn hóa, con người... Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người
với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”11, bởi vì con người vừa là chủ
thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là sản phẩm của chính nền văn hóa do mình
sáng tạo ra. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, nói tới văn hóa
là nói tới con người, con người giữ gìn phát huy giá trị văn hóa, nhưng chính

con người cũng có thể làm mất đi giá trị tốt đẹp của văn hóa. Cho nên, việc
xây dựng, phát triển văn hóa không thể tách khỏi xây dựng, phát triển con
người. Qua cách diễn đạt này, Đảng đã khẳng định và nhấn mạnh vấn đề trọng
10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr. 78.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr. 123.


18
tâm, cốt lõi của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là xây dựng con người mới, con người phát triển toàn diện với nhân
cách, lối sống, đạo đức tốt đẹp.
Ba là, Đảng ta khẳng định, vấn đề xây dựng con người là bốn trong sáu
nhiệm vụ trung tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII.
Vấn đề xây dựng con người được xem là nhiệm vụ trọng tâm của
nhiệm kỳ này. Trong đó có hai nhiệm vụ đề cập tới phát triển năng lực cho
con người. Ngay ở nhiệm vụ đầu tiên về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, Đảng ta nhấn mạnh cần phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”12. Ở nhiệm vụ thứ ba, về tập trung các giải pháp nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền
kinh tế, Đảng ta yêu cầu tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược,
trong đó có: “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao”13, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với quan điểm nguồn nhân lực là vốn quý của đất nước, trong nhiệm

vụ thứ năm, Đại hội XII của Đảng xác định: “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân”14. Khi đề cập tới vấn đề đạo đức, lối
sống, nhân cách của con người để xây dựng con người phát triển toàn diện,
trong nhiệm vụ thứ sáu, Đảng ta khẳng định: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo
đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc” 15. Việc cụ thể hóa
những yêu cầu trong xây dựng và phát triển con người toàn diện là thể hiện sự

12

Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hà Nội, 2016, tr. 217.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hà Nội, 2016, tr. 218.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hà Nội, 2016, tr. 219.
15
Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hà Nội, 2016, tr. 219.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,


19
nhận thức đúng đắn của Đảng trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, của quá

trình hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Bốn là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện,
diễn ra trên mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện
bằng chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải
được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ
tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành
phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi người lao
động phát triển cả đạo đức và nhân cách. Đó là đạo đức trung thực, đạo đức
trong hành động, tự giác trong lao động. Biểu hiện của đạo đức cách mạng là
sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động, giữa
động cơ và hiệu quả. Đạo đức đó đáp ứng được chuẩn mực đạo đức của xã
hội mới, là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất
nước hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.


20
C. KẾT LUẬN
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, quan điểm xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa là một nội dung được Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên lĩnh vực văn hoá - xã hội. Con người mới xã hội chủ nghĩa
mà Hồ Chí Minh nói đến là để phân biệt con người sống trong xã hội cũ, con
người chưa được giác ngộ cách mạng, chưa được trang bị lý luận cách mạng
đúng đắn theo lập trường của giai cấp công nhân. Đó là con người xã hội chủ
nghĩa, con người phát triển toàn diện để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa, con người phát triển toàn diện còn nguyên giá trị
cho đến ngày nay, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa. Vấn đề xây dựng con người phát triển toàn diện đang
được đặt ra một cách cấp thiết, khi nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hòa chung với những khát vọng và nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng cán bộ, đảng viên
phải luôn trăn trở, suy nghĩ với mong muốn góp phần công sức nhỏ bé của
mình cho sự nghiệp chung của Tổ quốc. Bởi dân tộc có cường thịnh, hùng
mạnh hay không phụ thuộc vào sự quy tụ sức người, của khối đại đoàn kết
dân tộc. Qua việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
và sự vận dụng của Đảng ta, chúng ta càng thêm hiểu được vai trò to lớn của
con người trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong công cuộc xây dựng và
đổi mới đất nước hôm nay. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh là mỗi chúng ta phải nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện bản
thân, để trở thành những con người hiện đại mà văn minh./.


21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016,.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
3. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng - Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Giáo trình cao cấp lý luận chính
trị, Hà Nội, 2017.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 1995.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000.
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000.
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
9. GS. TS Mạch Quang Thắng, Một số vấn đề về xây dựng con
người Việt Nam, />


×