PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Hướng nghiệp là việc hết sức quan trọng, nhằm cung cấp cho mỗi cá
nhân một hệ thống kiến thức nghề nghiệp để có cơ sở tư vấn lựa chọn nghề
học phù hợp với năng lực bản thân. Ở nước ta đang thực hiện hai hình thức
hướng nghiệp.
Thứ nhất là hướng nghiệp là hoạt động hướng nghiệp giúp mỗi cá nhân
hình thành khả năng nhận thức nghề nghiệp và mối quan hệ khăng khít giữa
nhu cầu xã hội với khả năng phát triển bản thân
Hai là hướng nghiệp trong cơ sở dạy nghề. Với những kiến thức đã được
học trong nhà trường cũng như ngoài xã hội mỗi người đã khẳng định được
cho mình con đường lập nghiệp. Tuy nhiên họ vẫn chưa đủ hiểu biết và chưa
có nhiều cơ hội để thử sức với nghề đã chọn. Hướng nghiệp trong các cơ sở
dạy nghề chủ yếu tập trung giúp các cá nhân tìm hiểu sâu về nghề, giáo dục
lòng yêu nghề, tạo điều kiện để họ nhanh chóng thích ứng với nghề, hào hứng
trong quá trình học nghề và an tâm với nghề đã chọn.
Nước ta đang hướng nghiệp có các hình thức chính: Hướng nghiệp qua
dạy - học và môn khoa học cơ bản; qua dạy - học các môn khoa học công
nghệ, học nghề và lao động sản xuất; qua việc tổ chức các buổi sinh hoạt
hướng nghiệp; qua các hoạt động tham quan ngoại khóa, các phương tiện
thông tin đại chúng, gia đình và các tổ chức xã hội; tư vấn chọn nghề cho học
sinh.
1
Tổng cục Dạy nghề là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực dạy nghề sẽ
cung cấp thông tin để giúp xã hội nắm bắt được về xu hướng và các quy định
tuyển sinh đào tạo nghề.
Hướng nghiệp và tư vấn học đường cho thanh niên đã được ngành giáo
dục đào tạo chú trọng nhưng so với thực tế hiện nay nó vẫn chưa đáp ứng
được hết nhu cầu của thanh thiếu niên ở nước ta.
Đây là một trong những vấn đề cấp bách đặt ra đối với nhà trường, gia
đình và xã hội, trong khi đó các thông tin về tư vấn nghề nghiệp trên các
phương tiện thông tin đại chúng quá nhiều gây ra tình trạng “nhiễu thông tin”,
thậm chí nhiều thông tin không chính thống làm cho mọi người dân “hoang
mang” không biết nghe ai và chọn cho mình con đường nghề nghiệp phù hợp.
Có những người từ chối không vào bất cứ trường nghề nào vì mọi người
học xong vẫn thất nghiệp… Tư vấn, hướng nghiệp cho ,mỗi các nhân chọn
ngành đúng có ý nghĩa rất lớn vừa giúp người học sớm gặt hái thành công vừa
tiết kiệm được tiền bạc, thời gian công sức cho bản thân và gia đình.
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm đẩy mạnh hỗ
trợ học nghề, tạo việc làm cho lao động nói chung và thanh niên nói riêng,
trong đó ưu tiên thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Chính sách hỗ trợ
BĐXN học nghề là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm tạo ra lực lượng lao động có phẩm chất, chuyên môn và tay nghề vững
vàng, cung cấp nguồn nhân lực quan trọng đóng góp vào sự nghiệp CNHHĐH của đất nước. Bên cạnh đó, đào tạo nghề cho BĐXN thể hiện sự quan
tâm sâu sắc đối với chính sách hậu phương quân đội, khuyến khích thanh niên
hăng hái nhập ngũ. Quân nhân sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự sẽ có
nhiều sự lựa chọn hơn trong việc chọn nghề để học phù hợp với điều kiện,
2
hoàn cảnh của từng người và sau khi học xong có cơ hội tìm được việc làm,
ổn định cuộc sống.
Theo Sở LĐ-TB&XH TP, riêng TP.HCM hiện có khoảng 430 cơ sở đào
tạo nghề. Trong năm 2013, các cơ sở này đã tuyển sinh hơn 271.700 học viên
học nghề, với tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chiếm 66%. Tuy nhiên, Sở này
cho rằng chất lượng đào tạo nghề tại thành phố vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Dự kiến trong năm nay, ngành
LĐ-TB&XH phấn đấu đạt mục tiêu nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên
70%, cùng với việc tập trung đầu tư phát triển các nghề trọng điểm theo cấp
độ quốc tế, khu vực và quốc gia cho các cơ sở dạy nghề.
Hiện nay, các cơ sở dạy nghề trên địa bàn thành phố đã tổ chức tuyển
sinh nhiều ngành nghề phù hợp dành riêng cho đối tượng BĐXN. Trong đó,
đào tạo lái xe ô tô, đào tạo vệ sĩ, bảo vệ, công tác tư vấn giới thiệu việc làm
cho BĐXN tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp được chú
trọng.
Tuy nhiên hiện nay bộ đội xuất ngũ thường thiếu kỹ năng tìm kiếm
thông tin phù hợp về việc làm, học nghề. Trong khi đó, họ có thế mạnh về thể
lực, được rèn luyện và tính kỷ luật cao. Nếu được định hướng tốt, họ sẽ có
nhiều cơ hội việc làm phù hợp và bền vững. Tình trạng thiếu việc làm, thất
nghiệp đang là vấn đề được nhiều người quan tâm, tuy nhiên vẫn có nhiều sự
nghiên cứu tới nhu cầu tìm kiếm những thông tin về nghiệp cho các thanh
nhiên Việt Nam, mà đặc biệt hơn là những nam thanh niên đang tham gia
nghĩa vụ quân sự. Chính vì vậy tác giả lựa chọn đề tài: “Nhu cầu tiếp cận
thông tin nghề nghiệp của nam thanh niên hiện nay” " nhằm mục đích
nghiên cứu thực trạng, nhu cầu tiếp cận những thông tin về nghề nghiệp của
3
các chiến sĩ đóng quân tại hai Lữ đoàn Phòng Không 241 và Lữ đoàn Tăng
Thiết Giáp (thuộc quân đoàn 1 bộ quốc phòng- trên địa bàn tỉnh Ninh Bình).
2.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ lâu, Việt Nam đã xác định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nói
chung và chiến lược phát triển khoa học công nghệ nói riêng là hướng vào
việc tiếp cận, áp dụng những thành tựu khoa học tiên tiến của thế giới, đi tắt
đón đầu để bắt kịp trình độ phát triển chung của các nước trong khu vực và
trên thế giới. Đây là một chiến lược đúng đắn, phù hợp với điều kiện và vị thế
kinh tế của Việt Nam. Để thực hiện được điều này, chúng ta đã và sẽ phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn, cũng như đang nắm trong tay không ít cơ hội.
Trở ngại lớn nhất mà chúng ta gặp phải chính là chất lượng nguồn nhân
lực. Câu hỏi đặt ra là: liệu chúng ta đã sẵn sàng để tiếp cận công nghệ mới, tri
thức mới? Thật khó mà khẳng định điều này, bởi lẽ thực trạng ngành giáo dục
Việt Nam, nhất là giáo dục đại học, đang gặp nhiều vấn đề. Dễ nhận thấy nhất
những thông ti, nội dung về nghề nghiệp chưa được đưa đầy đủ cũng như một
cách có hệ thống. Điều này dẫn đến sản phẩm đầu ra của các cơ sở đào tạo
phần nhiều là thiếu khả năng thích ứng với môi trường làm việc mới, hiện
tượng tái đào tạo diễn ra khá phổ biến tại các cơ quan tuyển dụng. Đối với các
cơ quan nghiên cứu, điều này cũng diễn ra khá thường xuyên. Có thể thấy
rằng, những người mới hoàn thành quá trình học tập, do ảnh hưởng từ phương
pháp giảng dạy và học tập thụ động, thường rất hạn chế trong khả năng tiếp
cận nguồn thông tin, tri thức mới, không chủ động trong việc tự nghiên cứu
để đào sâu và mở rộng kiến thức chuyên môn.
Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể giải quyết được vấn đề này nếu có
một chiến lược đào tạo định hướng nghề nghiệp một cách hợp lý. Điều mà
chúng ta cần làm là trang bị cho sinh viên tốt nghiệp những kỹ năng và kiến
4
thức để làm chủ thế giới thông tin. Tức là giúp họ rèn luyện kỹ năng nhận
dạng nhu cầu thông tin bản thân, định vị nguồn thông tin phù hợp với những
nhu cầu đó, tổ chức nguồn thông tin tìm được một cách hợp lý, thẩm định
nguồn thông tin đã được lựa chọn, và sử dụng thông tin đó một cách hiệu quả
và hợp pháp. Có thể thấy rằng, những kiến thức và kỹ năng như trên không
chỉ là thiếu đối với sinh viên mới tốt nghiệp, mà chúng có thể còn đóng vai trò
đặc biệt quan trọng đối với công việc của người cán bộ nghiên cứu. Nói cách
khác, người đi học cần được trang bị kiến thức thông tin. Kiến thức thông tin
chính là chìa khóa quan trọng mở ra những cơ hội tri thức và nghề nghiệp cho
mỗi cá nhân, góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học, công nghệ và giáo dục
của đất nước.
Nhu cầu thông tin nghề nghiệp của con người là một vấn đề không chỉ
của riêng Việt Nam mà nó là vấn đề chung của các nước trên thế giới vì vậy
có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này:
Những thông tin về nghề nghiệp lần đầu tiên được đề cập vào đầu thế kỉ
19 trông một số tác phẩm văn học. Năm 1849 ở Pháp lần đầu tiên xuất hiện
cuốn sách “ Hướng dẫn chọn nghề” nội dung cuốn sách nói về vai trò quan
trọng của hoạt động cung cấp những thông tin về nghề nghiệp đang có trong
xã hội, đó là những thông tin không thể thiếu trong xã hội phát triển. Vào thế
kỉ 20 vấn đề cung cấp thông tin nghề nghiệp được đặt ra ở nhiều nước:
Trong tác phẩm “ Những suy nghĩ của thanh niên khi chọn nghề” của
C.Mác, nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2000 ông viết: “ Nếu ta chọn
nghề trong đó ta có thể làm việc được nhiều hơn cho nhân loại khi đó ta thấy
được niềm tin vui chứ không phải tội nghiệp” Theo đó ông coi việc nhà nước
cung cấp những thông tin về nghề nghiệp là một việc quan trọng và cao cả
trong cuộc sống của mỗi người. Nó không chỉ có ý nghĩa với sự phát triển của
xã hội mà còn có ý nghĩa trong mỗi cá nhân từng người. Khi nói đến quyền tự
5
do chọn nghề C. Mác viết: “Việc lựa chọn nghề cần đắn đo suy nghĩ và đó là
trách nhiệm đầu tiên của Thanh niên khi bước vào đời”
Trên cơ sở những luận điểm của C. Mác, các nhà Giáo dục học và Tâm
lý học đã hết sức coi trọng công tác cung cấp thông tin về nghề nghiệp cho
thanh niên không chỉ trong giáo dục quốc dân mà còn trong hoạt động xã hội.
Một số tác giả nghiên cứu về vấn đề tư vấn nghề nghiệp phải kể đến N.K
Crupxkaia, V.A Broden, K.K Platonop…
Trong tác phẩm “ Cẩm nang hướng nghiệp trong nhà trường Minxo”
năm 1973 của V.A Broden và Z.I.Procopieva cho rằng: “ Tốt nhất nên thực
hiện dần những biện pháp hướng nghiệp tùy theo đặc điểm lứa tổi, trình độ
kiến thức, kiến thức, kĩ năng thực hành và trình độ phát triển chung ở các lớp
đầu phổ thông qua quá trình dạy học. Qua quá trình dạy học giáo viên cần
phải phát triển ở học sinh năng khiếu tư duy sáng tạo, mở rộng tầm nhìn, sự
tham gia hiểu biết của học sinh lòng yêu lao động và sự kính trọng.
Cuốn sách “ Những vấn đề về năng lực”, K.K. Platonop, năm
1972, nhà xuất bản Khoa học, đã khẳng định vai trò của công tác cung cấp
những thông tin về nghề nghiệp bằng nhiều con đường, bằng nhiều hình thức
khác nhau. Thông qua những con đường hướng nghiệp đó học sinh có những
thông tin về giá trị nghề nghiệp, những đặc điểm, yêu cầu của nghề và những
nghề triển vọng trong xã hội.
Trong cuốn sách: “ Chuẩn bị cho học sinh bước vào cấp lao động” của
R.N. Conhiadeva, năm 1979, nhà xuất bản Sư phạm, có viết: Công tác cung
cấp thông tin nghề nghiệp cho học sinh THPT được đặc trưng bởi những húng
thú và xu hướng nghề nghiệp được hình thành ở học sinh qua quá trình này
giáo viên có nhiều khả năng đi sâu mở rộng tri thức về nghề nghiệp, ứng dụng
tri thức bài học mới với thực tiễn. Giáo viên có thể cho học sinh làm quen với
tiền lương, bảo hộ lao động, triển vọng của một số nghề…
Trong cuốn sách: “Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho
thanh niên” của T.S Nguyễn Tiến Dũng xuất bản năm 2005 của nhà xuất bản
6
giáo dục, đã đề cập đến nhiều vấn đề trong đó tác giả cũng đề cập đến thực
trạng những nhu cầu về thông tin nghề nghiệp của Thanh niên. Dựa trên cuộc
điều tra của Viện khoa học lao động và xã hội năm 2003 thực hiện với 580
học sinh THPT ( lớp 9 và lớp 12), 1050 sinh viên CĐ, ĐH, Dạy nghề, 1041
thanh niên đang thất nghiệp đang đi tìm việc ở 7 tỉnh tác giả đã chỉ ra được
những nhu cầu về thông tin nghề nghiệp của học sinh THPT, sinh viaan CĐ,
ĐH, Dạy nghề, thanh niên đang thất nghiệp. Đặc biệt tác giả cũng đề cập đến
những thông tin cần cung cấp về nghề nghiệp của học sinh lớp 9 và lớp 12.
Trong cuốn sách này gần như tác giả đã bao quát được nhiều vấn đề. Song
như nhận định ở trên nhu cầu về thông tin nghề nghiệp hiện nay đã thay đổi
rất nhiều so với thời điểm đang nghiên cứu năm 2003. Đồng thời còn các
nhóm Thanh niên đặc biệt như đang tham gia NVQS chưa được nghiên cứu
trong đề tài.
Trong đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học năm 2007 tác giả Hoàng Thị
Hải Phượng thuộc khoa Xã hội học, Học viện Báo Chí và Tuyên Truyền đã có
đề tài: “ Nhu Cầu thông tin nghề, tư vấn nghề của học sinh THPT” nghiên cứu
khảo sát tại 1 số trường tại Hải Phòng, tác giả cũng đã mô tả được thực trạng
hoạt động thông tin tư vấn nghề ơt trường phổ thông. Trong đề tài tác giả
cũng đã chỉ ra rằng đa số học sinh phổ thông đều được cung cấp thông tin
nghề, tư vấn nghề bởi nhiều kênh khác nhau trong đó có sự tư vấn của nhà
trường nhưng nội dung tư vấn mà các em nhận được là thông tin về các
trường CĐ, ĐH và nội dung các em được tư vấn là chọn nghề, các trường đào
tao. Và hình thức được tư vấn chủ yếu là hoạt động ngoại khóa nhưng thời
gian tư vấn lại quá ít. Trong số học sinh được hỏi thì có 31,3 % học sinh chưa
bao giờ được tư vấn về nghề nghệp và có tới 54% thỉnh thoảng được tư vấn
nghề. Như vậy qua đề tài tác giả cũng chỉ ra được một số điểm trong hoạt
động tư vấn nghề nhưng do đề tài của tác giả nghiên cứu về nhu cầu thông tin
7
nghề nghiệp của học sinh nên nội dung hoạt động hướng nghiệp chưa được
nói rõ. Tiếp thu những nghiên cứu của các đề tài trên tác giả sẽ làm rõ nhu cầu
về thông tin nghề nghiệp của thanh niên đang tham gia nghĩa vụ quân sự hiện
nay.
Những chính sách của nhà nước về ưu tiên cho bộ đội sau khi xuất ngũ
Ngày 18-2-2009, Thường trực Chính phủ cùng các Bộ: Công Thương,
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Kế hoạch - Đầu tư, Lao động
– Thương binh và Xã hội, Quốc phòng… họp bàn về những giải pháp cấp
bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
an sinh xã hội. Sau khi nghe báo cáo của các bộ, ngày 23-2-2009, trong kết
luận phiên họp, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt lưu ý đến việc triển khai dạy
nghề theo cơ chế đặt hàng đối với bộ đội xuất ngũ có nhu cầu học nghề. Theo
đó, đối với bộ đội xuất ngũ (BĐXN) học nghề có trình độ sơ cấp và ở cơ sở
dạy nghề thường xuyên được cấp “Thẻ học nghề” có giá trị tương đương 12
tháng tiền lương tối thiểu để tự lựa chọn cơ sở học nghề. Nhà nước thanh toán
cho cơ sở dạy nghề khoản chi phí đào tạo này theo “Thẻ học nghề”.
Tại buổi làm việc sáng 21-8, ông Đào Văn Tiến, Chánh văn phòng Tổng
cục Dạy nghề (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) : Ngay sau khi nhận
được kết luận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội đã phối hợp với các cơ quan liên quan tiến hành xây dựng dự thảo Quyết
định ''Về cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và
chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề” trình Thủ tướng Chính phủ. Đến
nay, dự thảo đã được các bộ, ngành có liên quan thống nhất các nội dung trình
Thủ tướng Chính phủ như sau: Đối với trường hợp BĐXN học nghề ở trình
độ sơ cấp: Mỗi người được cấp một “Thẻ học nghề”. “Thẻ học nghề” có giá
trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức
Nhà nước tại thời điểm học nghề. “Thẻ học nghề” có giá trị sử dụng trong
thời hạn một năm kể từ ngày cấp. Thẻ được cấp cho bộ đội trước khi xuất ngũ
8
để nộp cho cơ sở dạy nghề khi tham gia học nghề. Nhà nước thanh toán chi
phí cho cơ sở đào tạo dựa trên 3 căn cứ: “Thẻ học nghề”, chứng chỉ nghề, chi
phí đào tạo thực tế của nghề học, nhưng tối đa không quá giá trị theo quy định
của “Thẻ học nghề”. Trong trường hợp chi phí thực tế của nghề học thấp hơn
giá trị của “Thẻ học nghề” người học nghề không được nhận phần chênh lệch
còn lại. Trường hợp chi phí thực tế của nghề học cao hơn giá trị của “Thẻ học
nghề”, người học phải tự chi trả phần kinh phí chênh lệch này. “Thẻ học
nghề” sử dụng không đúng quy định sẽ bị thu hồi và xử lý theo quy định của
Pháp luật…
“Thẻ học nghề” là chính sách ưu đãi của Chính phủ nhằm hỗ trợ, khuyến
khích BĐXN học nghề, không ảnh hưởng đến các chế độ, chính sách mà
BĐXN đang được hưởng theo Luật Nghĩa vụ quân sự (như hỗ trợ phụ cấp 6
tháng học nghề, miễn giảm học phí học nghề tại một số địa phương, cơ sở đào
tạo)-Ông Tiến khẳng định.
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
a.
Mục đích nghiên cứu
- Mô tả thực trạng tiếp cận thông tin nghề của thanh niên đang tham gia
NVQS và các yếu tố tác động đến việc tiếp cận thông tin nghề.
- Tìm hiểu về nhu cầu thông tin nghề và các yếu tố tác động đến nhu cầu
thông tin nghề của thanh niên đang tham gia NVQS
- Đề xuất khuyến nghị, giải pháp góp phần thay đổi tình trạng tiếp cận
thông tin nghề nghiệp của thanh niên đang tham gia nghĩa vụ quân sự hiện .
b.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra thực trạng và các yếu tố tác động đến tiếp cận thông tin nghề
nghiệp của thanh niên đang tham gia nghĩa vụ quân sự hiện nay.
- Chỉ ra nhu cầu và các yếu tố tác động đến nhu cầu thông tin nghề
nghiệp của của thanh niên đang tham gia nghĩa vụ quân sự hiện nay.
- Từ kết quả nghiên cứu có thể đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp
đáp ứng nhu cầu thông tin nghề nghiệp cho thanh niên đang tham gia NVQS
hiện nay.
9
4.
Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
a.
Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu tiếp cận thông tin nghề nghiệp
b.
Khách thể nghiên cứu
Thanh niên đang tham gia nghĩa vụ quân sự
c.
Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Lữ đoàn phòng không 241; Lữ đoàn tăng thiết giáp 202
thuộc quân đoàn 1 quốc phòng
- Thời gian: Từ 3/2/2015 đến 30/4/2015
5.
a.
Giả thuyết, khung lý thuyết, hệ thống các biến số
Giả thuyết nghiên cứu
- Nguồn thông mà thanh niêm tham gia nghĩa vụ quân sự cho là quan
trọng nhất là từ cán bộ chỉ huy đơn vị.
- Nhu cầu tìm hiểu các thông tin về nghề nghiệp phù hợp với hứng thú
của bản thân được cho là rất cần thiết đối với TN đang TGNVQS
- Thông tin về các nghề đang có trong xã hội và đặc điểm của ngành
nghề đó là những thông tin mà thanh niên đang tham gia NVQS mong muốn
nhận được hàng ngày
- Lý do mà thanh niên đang tham gia NVQS muốn tìm hiểu các thông tin
nghề chủ yếu là do thấy bạn bè và nhiều người lựa chọn nghành nghề đó
b.
Khung lý thuyết
HìnhThông
thức tin về
Đặc điểm cá
về thông
nghềtin
đang
nhân:
nghềcó
nghiệp
- Độ tuổi
- Trình độ
học vấn
Đặc điểm gia
đình:
- Nghề
nghiệp
của bố mẹ
Nhu cầu tiếp cận thông tin
nghề nghiệp của thanh
niên đang tham gia NVQS
Các chính sách
của nhà nước
- Điều kiện
kinh tế
10
Nguồn
thông tin
Thông
tin
Thông
tin
MụcThông
đích tin
lựa đào
về
cáctrường
lớp
tiếp cách
cận
chọn
nghề
CĐ,ĐH
tạo
thông
tinnghề
nghiệp phù
với bản
Thờihợp
điểm
thâncác
tiếp cận
thông tin
c.
Hệ thống các biến số
Biến độc lập:
- Độ tuổi: đo lường bằng thang tỷ lệ, ghi rõ năm sinh
- Quê quán: Đo lường bằng 2 giá trị 1.Nông thôn và 2. Đô thị bằng thang
định danh
- Trình độ học vấn: Đo lường ở 3 giá trị: 1.THCS trở xuống; 2.THPT; 3.
Trung cấp trở lên bằng thang thứ tự
- Nghề nghiệp của bố mẹ: đo lường bằng một số giá trị thông thường như
nông nghiệp, công nhân, buôn bán, dịch vụ, cán bộ công nhân viên
chức….bằng thang định danh
- Điều kiện kinh tế gia đình: được đo theo mức độ thu nhập bình quân
đầu người theo tháng của gia đình theo thang tỷ lệ
- Thời gian đã phục vụ quân ngũ tính đến thời điểm điều tra: sử dụng
thang tỷ lệ tính theo tháng
- Thời hạn phục vụ quân ngũ: sử dụng thang khoảng theo các mốc phục
vụ nghĩa vụ quân sự theo quy định: 36 tháng; 24 tháng; 18 tháng
Biến phụ thuộc: nhu cầu tiếp cận thông tin nghề được xem xét
trên các khía cạnh thực trạng tiếp cận và nhu cầu tiếp cận thông tin nghề
nghiệp:
- Hình thức thông tin
- Nguồn thông tin
- Mục đích tiếp cận thông tin
- Thời điểm tiếp cận thông tin
Biến can thiệp: Các chính sách, quan điểm của nhà nước
11
6.
Phương pháp nghiên cứu
a.
Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở các nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, những chủ trương của
Đảng, chính sách của nhà nước về thanh niên đang thma gia nghĩa vụ quân sự
và nghề nghiệp việc làm cho thanh niên nói chung và thanh niên tham gia
nghĩa vụ quân sự nói riêng.
b.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định lượng
Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu chính là nghiên cứu định
lượng với phương pháp thu thập thông tin thông quan bảng hỏi Anket.
- Phương pháp anket:
Đây là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp được sử dụng rất
rộng rãi trong điều tra xã hội học. Phương pháp này, về thực chất, là hình thức
hỏi – đáp gián tiếp dựa trên bảng hỏi đã được soạn từ trước. Điều tra viên tiến
hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống nhất cách thức trả lời các câu hỏi.
Nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin với 200 bảng hỏi anket đối với
nam thanh niên đang tham gia nghĩa vụ quân sự. Phần mềm hỗ trợ xử lý số
liệu định lượng SPSS16.0 được sử dụng để xử lý số liệu, triết xuất các kết quả
phân tích cho khóa luận.
- Phương pháp phân tích tài liệu
Tác giả tìm hiểu một số tài liệu có liên quan để hiểu các khái niệm của
vấn đề, đồng thời đi sâu vào một số khía cạnh trong quá trình nghiên cứu…
+ Những chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay về lao
động việc làm cho thanh niên xuất ngũ
+ Những tổ chức, cơ quan có những hoạt động hướng nghiệp cho thanh
niên sau khi tham gia NVQS
+ Thu thập, xử lý và phân tích những thông tin có sẵn gồm: những báo
cáo, luật, sách, bài báo, công trình khảo sát đã hoàn thành có liên quan đến
Luật NVQS.
c.
Chọn mẫu
12
Sử dụng phương pháp chon mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Cá thể đầu tiên
được lựa chọn ngẫu nhiên trong quần thể, các cá thể tiếp theo được lựa chọn
theo một khoảng cách xác định (10th) so với cá thể trước đó. Khoảng cách
xác định được gọi là khoảng cách mẫu k = Tổng số khách thể nghiên cứu/ cỡ
mẫu.
“Nhu cầu tiếp cận thông tin nghề nghiệp của thanh niên đang tham gia
nghĩa vụ quân sự” tương đương với số lượng mẫu là 200 thanh niên (nam)
đang tham gia NVQS( tương đương với 200 phiếu hỏi).
Khảo sát tại 2 doanh trại quân đội trên địa bàn tỉnh Ninh Bình là: Lữ
đoàn phòng không 241; Lữ đoàn tăng thiết giáp 202 thuộc quân đoàn 1 quốc
phòng.
+ Lập danh sách chọn mẫu gồm 100 thanh niên đang tham gia NVQS tại
mỗi doanh trại.
+ Khung chọn mẫu bao gồm tất cả các nam thanh niên tại hai doanh trại
+ Lập khung chọn mẫu bằng cách liên hệ ban quân lực để lấy danh sách
toàn bộ thông tin cá nhân của các chiến sỹ.
7.
a.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:
Bằng phương pháp nghiên cứu xã hội học, đề tài đã góp phần làm phong
phú thêm kho tàng lý luận xã hội học, nâng cao nhận thức về vai trò chức
năng của lý thuyết xã hội học cho bản thân và những người quan tâm. Đồng
thời đề tài còn vận dungj một số lý thuyst phạm trù cơ bản của xã hội học làm
sáng tỏ một số khía cạnh về nhu cầu thông tin nghề nghiệp của con người. Cụ
thể là vận dụng lý thuyết về nhu cầu thông tin, lý thuyết về lao động- việc
làm… để nghiên cứu những ngu cầu về thông tin nghề nghiệp cho các nam
thanh niên đang thực hiện nghĩa vụ quân sự hiện nay.
b.
Ý nghĩa thực tiễn:
Vai trò của những thông tin về nghề nghiệp là một vấn đề nghiên cứu có
ý ý nghĩa xã hội to lớn. Nó nhằm nâng cao nhận thức của mọi người, thấy
được tầm quan trọng của những thông tin về nghiệp trong cuộc sống.
13
Đề tài cũng chỉ ra được những khó khăn, hạn chế của việc cung cấp
những thông tin về nghề nghiệp hiện nay.
Qua nghiên cứu nhu cầu thông tin nghề của những thanh niên đang tham
gia nghĩa vụ quân sự, đã chỉ ra được những nhân tố chủ quan, khách quan,
giúp cho các nhà quản lý, những cơ quan chính quyền sở tại các cấp, các
ngành có những chính sách và giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng
các thông tin về nghề nghiệp cho lực lượng lao động là các thanh niên sau khi
họ xuất ngũ.
8.
Kết cấu khóa luận
Phần mở đầu
Phần nội dung và kết quả nghiên cứu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu nhu cầu tiếp cận thông
tin nghề của nam thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự
Chương 2. Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận thông tin
nghề của nam thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự
Chương 3. Nhu cầu và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tiếp cận thông
tin nghề của nam thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự
Phân kết luận và khuyến nghị
14
PHẦN NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu nhu cầu tiếp cận
thông tin nghề của nam thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự
1.1.
Thao tác hóa một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm Nhu cầu
Trong khoa học có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề
“nhu cầu”. Tuy nhiên mỗi nhà nghiên cứu, mỗi tác giả lại sử dụng thuật ngữ
này với những ý nghĩa và cách tiếp cận khác nhau.
Theo từ điển xã hội học Nguyễn Khắc Viện (chủ biên) thì nhu cầu được
quan niệm như sau: “Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của
những nhu cầu nào đó. Nhu cầu thể hiện sự phụ thuộc của cơ thể vào môi
trường bên ngoài, thể hiện thành những ứng xử tìm kiếm khi cơ thể thiếu
những điều kiện để tồn tại và phát triển”. Tuy nhiên nhu cầu không phải chỉ
nảy sinh khi cơ thể thiếu những điều kiện tồn tại để phát triển mà “luôn luôn
nảy sinh nhu cầu mới theo năng lực (tức là những đòi hỏi) về thể chất, trí tuệ
và tâm hồn ngày càng tăng lên của con người”. Và khi được thỏa mãn nhu
cầu. con người cảm thấy thích thú, hài lòng. Không thỏa mãn được, con người
bị hẫng hụt và có thể đi tới những hành vi chống lại những trở ngại trong việc
tìm kiếm sự thỏa mãn nhu cầu [20,211].
TrongTtừ điển Bách khoa Việt Nam thì khái niệm nhu cầu được định
nghĩa như sau: “Nhu cầu là sự phản ảnh một cách khách quan các đòi hỏi về
vật chất tinh thần và xã hội của đời sống con người phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế cua từng thời kỳ. Nhu cầu hình thành và phát triển trong quá
trình lịch sử. Mức độ nhu cầu và phương thức thỏa mãn nhu cầu về cơ bản
phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, trước hết là trình độ phát triển
kinh tế. Nhu cầu là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất và toàn xã hội phát
triển. Đặc điểm nhu cầu của các tầng lớp nhân dân hình thành tùy thuộc vào
địa vị của họ trong nề sản xuất xã hội, tùy thuộc vào dặc trung nhân khẩu,
15
chủng tộc dân tộc…và các điều kiện kinh tế xã hội, tự nhiên. Và “ Nhu cầu
được phân thành nhiều loại theo những tiêu chí khác nhau. Cơ cáu nhu cầu
biến động khác nhau theo giai caaos theo các tầng lớp dân cư, theo vùng lãnh
thổ, tùy theo thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Xác đinh nhu cầu là vấn đề có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế và
quản lý kinh tế”. Đây là quan niệm về nhu cầu đầy đủvà mang tính xã hội học
hơn cả.
Như vậy, nhu cầu là sự thôi thúc của cơ thể đòi hỏi phải đáp ứng một
điều mong muốn của con người. Nó xuất hiện khi cơ thể mất cân bằng nào đó.
Con người phải bằng cách này hay cách khác tái tạo lại sự cân bằng và bằng
cách ấy thỏa mãn nhu cầu của mình.
Nhu cầu mạng tính sinh học nhằm đáp ứng những đòi hỏi của sự phát
triển sinh học con người. Nhưng mặt khác nhu cầu lại mạng tính xã hội. Tính
xã hội của nhu cầu được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, dù là của riêng mỗi cá nhân
nhưng nhu cầu chỉ có thể đưuọc đáp ứng nhờ nền sản xuất xã hội, bị nền sản
xuất đó quy định và vì vậy chúng mạng tính xã hội rõ nét. Thứ hai, cũng
những nhu cầu như nhay nhưng mỗi thời đại, mỗi xã hội lại đápứng theo
những cách khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử và mức độ phát triển xã
hội. Thứ ba nhu cầu còn được đáp ứng trong khuôn khổ của phong tục tập
quán của cộng đồng và bị quy định bởi văn hóa cộng đồng.
Nhu cầu thông tin nghề với tư cách là một nhu cầu của con người cũng
hà chứ hai khía cạnh:
- Khía cạnh sinh học: Sự thỏa mãn nhu cầu thông tin giúp thanh niên
đang tham gia NVQS tìm được nghề phù hợp với sức khỏe, phát huy được
khả năng của mình.
- Khía cạnh xã hội: Mọi hoạt động của con người đều có mục đích và bởi
vậy việc tiếp cận với thông tin nghề của các thanh niên chính là nhằm mục
16
đích lựa chọn cho mình một nghề phù hợp với trình độ của bản thân, đáp ứng
nhu cầu lao động của xã hội.
Trong khoa học có một cách phân loại tương đối phổ biến được công
nhận rộng rãi là sự phân loại nhu cầu của Maslow. Ông sắp xếp các loại nhu
cầu theo một sơ đồ bậc thang có trật tự từ thấp đến cao, phụ thuộc vào mức độ
thiết yếu của nó, goi là “thang nhu cầu”.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Nhu cầu sinh học – Nhu cầu thấp nhât
Nhu cầu an toàn – Nhu cầu an sinh
Nhu cầu xã hội – Nhu cầu giao tiếp xã hội
Nhu cầu uy tín – Nhu cầu được tôn trọng hay có địa vị cao
Nhu cầu cân bằng và chân, thiện, mỹ
Nhu cầu tự hoàn thiện – Nhu cầu ở bậc thang cao nhất
Sự sắp xếp các nhu cầu theo dạng thang bậc của Maslow gợi ý cho ta ý
tưởng phải trèo lên từ nấc thang dưới lên trên của bậc thang nhu cầu. Nói cách
khác chỉ khi nào nhu cầu cấp thấp được đáp ứng đủ thì mới xuất hiện các nhu
cầu cấp cao hơn. Ngược lại khi đã ở những nấc cao của nhu cầu con người
không phải bận tam về mhu cầu cấp thấp nữa. Nhu cầu thông tin của thanh
niên đang tham gia NVQS nảy sinh khi các thanh niên chưa được thỏa mãn
thông tin về nghề để có thể chọn cho mình một nghề phù hợp với năng lực và
sở trường của mình cũng như đáp ứng được nhu cầu lao động xã hội sau khi
xuất ngũ. Nhu cầu thông tin nghề của thanh niên cũng có thể nảy sinh các
thang bậc của nhu cầu khi đã thỏa mãn những nhu cầu thấp hơn nhu cầu này.
Các quan điểm trên sẽ được vận dụng tổng hợp trong quá trình nghiên
cứu. Và trong đề tài này nhu cầu được định nghĩa như sau: Nhu cầu là sự
mong muốn được tiếp cận với thông tin nghề của thanh niên đang tham gia
NVQS nhằm hiểu rõ về các nghề đnag tồn tại từ đó lựa chọn được nghề phù
hợp với sức khỏe, trình độ của bản thân, đáp ứng nhu cầu lao động xã hội”.
1.1.2. Khái niệm Thông tin
17
Thông tin bắt nguồn từ tiếng Latinh “informatio”, gốc của từ
thông
tin hiện đại “information” có nghĩa là cắt nghĩa, trình bày, loan báo. Cụm từ
“Thông tin” được sử dụng với nghĩa khác nhau trong những tình huống cụ
thể.
1.1.3. Khái niệm Thông tin nghề
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo
con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm
vật chất hay tinh thần nào đó đáp ứng được những nhu cầu xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục chuyên
môn. Muốn nhận thức một cách khoa học về nghề người ta tiến hành phân
loại nghề theo nhiều cách khác nhau: Dựa trên thời gian lao động, dựa trên
thu nhập và dựa trên trình độ chuyên môn.
Đối với đề tài này tác giả phân loại nghề dựa theo trình độ, chuyên môn.
Như vậy thông tin nghề được hiểu đó là việc giới thiệu cho các bạn thanh niên
về những nghề đang có hiện nay, giới thiệu về hệ thống các trường CĐ, ĐH
và các lớp đào tạo nghề ở trung ương và địa phương cách lựa chọn nghề phù
hợp với bản thân.
1.1.4. Thanh niên
Thanh niên là nhóm lớn nên có rất nhiều cách tiếp cận về nhóm xã hội
này. Tùy vào nội dung nghiên cứu mà có thể hiểu khái niệm thanh niên dưới
nhiều góc đọ khác nhau:
Về mặt sinh học: Các nhà khoa học coi tuổi thanh niên trước hết là giai
đoạn xá định trong quá trình tiến hóa của cơ thể. Họ cho rằng, chính sự
trưởng thành của quá trình sinh học quyết định tất cả các yếu tố khác phụ
thuộc vào mỗi người.
Về mặt tâm lý học: Các nhà tâm lý lại tập trung chú ý tới những quy luật
phát triển tâm lý, những nét đặc trưng của thế giới tâm hồn, đăck biệt là sự tự
18
ý thức ở lứa tuổi này và coi nó là yếu tố cơ bản để phân biệt với các thời kỳ
lứa tuổi khác nhau.
Theo quan điểm Xã hội học: Thanh niên là một giai đoạn xác định của
quá trình xã hội hóa – thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang hoạt
động độc lập và bắt đầu có trách nhiệm công dân. Dưới góc độ này, thanh
niên được quan tâm với vai trò xã hội, sự hình thành những định hướng giá
trị, những vấn đề có liên quan đến vice chuẩn bị cho thanh niên bước vào làm
việc và thực hiện các hoạt động sống.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Thanh niên là nhóm người từ 15
đến 24 tuổi. Tuy nhiên, thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự ở Việt Nam tính
từ 18 tuổi – 25 tuổi theo luật hiện hành của Nhà nước Việt Nam.
1.1.5. Khái niệm Hướng nghiệp
Theo giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Đường thì: “Hướng nghiệp là hệ
thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, giáo dục học, sinh lý học,
xã hội học và nhiều khoa học khác nhằm giúp thanh niên định hướng nghề
nghiệp một cách đúng đắn có thể lựa chọn nghề cho phù hợp với nhu cầu xã
hội. đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với năng lực sở trường
và điều kiện tâm lý cá nhân cũng như hoàn cảnh sống của mỗi người để họ có
thể phát triển đến đỉnh cao trong nghề nghiệp, cống hiến được nhiều cho xã
hội cũng như tạo lập được cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân”.
1.1.6. Khái niệm Việc làm
Việc làm hay hoạt động lao động sản xuất luôn gắn liền với con người và
xã hội loài người. Từ thủa khai thiên lập địa, con người đã biết tìm kiếm ở thế
giới xung quanh những sản phẩm để đáp ứng nhu cầu cho bản thân. Xã hội
loài người dần dần phát triển, các hoạt động lao động sản xuất dần được chia
thành các ngành nghề khác nhau và như vậy người lao động sẽ lựa chọn nơi
và lĩnh vực lao động phù hợp với bản thân mình.
19
Hiện nay, việc làm là mối quan tâm rất lớn của người lao động và giải
quyết VL là công việc quan trọng của cả quôc gia. Cuộc sống của bản thân và
gia đình người lao động phụ thuộc rất lớn vào việc làm của họ. Sự tồn tại và
phát triển của mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách
giải quyết VL. Với tầm quan trọng như vậy, VL được nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau như kinh tế, xã hội học, lịch sử… Khi nghiên cứu dưới góc
độ lịch sử thì VL liên quan đến phương thức lao động kiếm sống của con
người và xã hội loài người. Các nhà kinh tế coi sức lao động kiến sống của
con người và xã hội loài người. Các nhà kinh tế coi sức lao động thông qua
quá trình thực hiện việc làm của người lao động là yếu tố quan trọng hàng đầu
vào việc sản xuất bên cạnh đó cũng xem xét vấn đề thu nhập của người lao
động từ việc làm.
VL là vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, đây là công việc của mỗi cá nhân
nhưng lại gắn liền với xã hội và chính sách của Nhà nước, người lao động có
VL nghĩa là có thu nhập nuôi sống bản thân đồng thời cũng tạo ra một lược
của cải cho xã hội. C. Mác cũng khẳng định: “Với những diều kiện khác
khong thay đổi thì khối lượng và giá trị sản phẩm tăng lên tỷ lệ thuận với số
lượng lao động được sử dụng” .
Việt Nam trước đây trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp, người lao đông được coi là có VL và được xã hội thừa nhận, trân trọng
là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh tập
thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc thiếu việc làm, thất
nghiệp…
Ngày nay các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn
và khoa học hơn, đó là các hoạt động của con nuwoif nhằm tạo ra thu nhập
mà không bị pháp luật cấm. Điều 13, chương II Luật lao động Nước Cộng hòa
20
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [34,tr42].
Xuất phát từ các căn cứ trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm VL như
sau: VL là những hoạt động lao động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội, mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật
cấm.
Theo khái niệm trên, VL là các hoạt động được hiểu như sau:
Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật cho công
việc đó.
Làm những việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập
cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công
bằng hiện vật.
1.1.7. Khái niệm thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự
Nghĩa vụ quân sự hay còn gọi là quân dịch, theo định nghĩa đơn giản
nhất là nghĩa vụ mà một cá nhân hay một nhóm thanh niên thực hiện
trong quân đội hoặc lực lượng dân quân, cho dù họ phải thực hiện một công
việc đã được sắp xếp trước và không được lựa chọn.
1.2.
Lý thuyết nghiên cứu sử dụng trong khóa luận
1.2.1. Lý thuyết về lao động- việc làm
Lý thuyết tạo việc làm của John Maynard Keynes
J.M. Keynes (1883- 1946) là nhà kinh tế người Anh. Tác phẩm nổi tiếng
của ông là cuốn "Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" xuất bản năm
1936. Trong tác phẩm này, J.M Keynes xem xét việc làm trong mối quan hệ
giữa sản lượng - thu nhập - tiêu dùng - đầu tư - tiết kiệm- việc làm. Theo ông,
trong một nền kinh tế, khi sản lượng tăng, thu nhập tăng, đầu tư tăng thì việc
làm tăng và ngược lại. Tâm lý của quần chúng là khi tổng thu nhập tăng thì
cũng tăng tiêu dùng, nhưng tốc độ tăng tiêu dùng chậm hơn so với tăng thu
nhập và có khuynh hướng tiết kiệm một phần thu nhập, làm cho cầu tiêu dùng
21
có hiệu quả hay cầu tiêu dùng thực tế giảm tương đối so với thu nhập dẫn đến
một bộ phận hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng không có khả năng bán được.
Thừa hàng hóa là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, ảnh hưởng tới quy mô
sản xuất ở chu kỳ tiếp theo, nên việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Mặt khác,
trong nền kinh tế thị trường, khi quy mô đầu tư tư bản tăng thì hiệu quả giới
hạn của tư bản đầu tư có xu hướng giảm sút tạo nên giới hạn chật hẹp về thu
nhập của doanh nhân trong đầu tư tương lai. Doanh nhân chỉ tích cực mở rộng
đầu tư khi hiệu quả giới hạn của tư bản lớn hơn lãi suất. Còn khi hiệu quả giới
hạn của tư bản nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì họ không tích cực đầu tư nên
quy mô sản xuất bị thu hẹp, dẫn đến việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Theo
Keynes, để tăng việc làm, giảm thất nghiệp, phải tăng tổng cầu của nền kinh
tế. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng (tiêu dùng sản xuất và phi sản
xuất) để tăng tổng cầu thông qua tăng trực tiếp các khoản chi tiêu của chính
phủ, hoặc thông qua các chính sách của Chính phủ nhằm khuyến khích đầu tư
của tư nhân, của các tổ chức kinh tế xã hội. Keynes còn sử dụng các biện
pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp
phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu tư và bù đắp các khoản chi tiêu
của Chính phủ. Ông chủ trương tăng tổng cầu của nền kinh tế bằng mọi cách,
kể cả khuyến khích đầu tư vào các hoạt động ăn bám nền kinh tế như: sản
xuất vũ khí đạn dược, chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kinh tế.
Lý thuyết về việc làm của J.M Keynes được xây dựng dựa trên các giả
định đúng với các nước phát triển, nhưng không hoàn toàn phù hợp với các
nước đang phát triển. Bởi vì hầu hết các nước nghèo, nguyên nhân khó khăn
cơ bản để gia tăng sản lượng, tạo việc làm không phải do tổng cầu không đủ
cao. Ở các nước đang phát triển, khi tổng cầu tăng sẽ kéo theo tăng giá cả,
dẫn đến lạm phát. Vì thế, biện pháp tăng tổng cầu để tăng quy mô sản xuất,
tạo việc làm không đúng với mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ. Mặt khác, nếu
22
tạo việc làm cho khu vực thành thị và một số trung tâm công nghiệp bằng
cách tăng tổng cầu sẽ tạo ra làn sóng di dân từ nông thôn ra thành thị và tỷ lệ
thất nghiệp ở đô thị gia tăng. Điều này có thể làm suy giảm việc làm và sản
lượng quốc dân của cả nước.
Lý thuyết về tạo việc làm bằng chuyển giao lao động giữa hai khu
vực của nền kinh tế
Lý thuyết này của Athur Lewis - nhà kinh tế học Jamaica ra đời vào
những năm 50 của thế kỷ XX, được giải thưởng Nobel 1979. Tư tưởng cơ bản
của lý thuyết này là chuyển số lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp sang
khu vực công nghiệp hiện đại do hệ thống tư bản nước ngoài đầu tư vào các
nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Bởi vì
trong khu vực nông nghiệp, đất đai chật hẹp, lao động lại quá dư thừa. Ngoài
số lao động cần đủ cho sản xuất nông nghiệp, còn có lao động thừa làm các
ngành nghề lặt vặt, buôn bán nhỏ, phục vụ trong gia đình và lao động phụ nữ.
Số lao động dôi dư này không có công ăn việc làm. Nói cách khác, họ không
có tiền lương và thu nhập. Vì vậy, việc di chuyển lao động từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp có hai tác dụng. Một là, chuyển bớt lao
động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, chỉ để lại lượng lao động đủ để tạo ra sản
lượng cố định. Từ đó nâng cao sản lượng theo đầu người đồng thời tạo việc
làm cho số lao động dôi dư trong nông nghiệp. Mặt khác, việc di chuyển này
sẽ làm tăng lợi nhuận trong lĩnh vực công nghiệp, tạo điều kiện nâng cao sức
tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung.
Lý thuyết của Harry Toshima
Theo Harry Toshima, nhà kinh tế học Nhật Bản, ông nghiên cứu mối
quan hệ giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp dựa trên những đặc
điểm khác biệt của các nước đang phát triển châu Á- gió mùa. Đó là nền nông
nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao. Nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao
23
động lúc đỉnh cao của thời vụ và chỉ dư thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì
vậy, ông cho rằng cần giữ lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm
trong những tháng nhàn rỗi bằng cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật
nuôi...Đồng thời, sử dụng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành
sản xuất công nghiệp cần nhiều lao động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có
việc làm đầy đủ cho mọi thành viên gia đình nông dân trong những tháng
nhàn rỗi sẽ nâng cao mức thu nhập hàng năm của họ và sẽ mở rộng được thị
trường trong nước cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, lực lượng
lao động sẽ được sử dụng hết.
Lý thuyết về tạo việc làm bằng di chuyển lao động của Harris Todaro
Lý thuyết của Todaro ra đời vào thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX, nghiên
cứu việc làm bằng sự di chuyển lao động trên cơ sở thực hiện điều tiết thu
nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Theo ông, những người
lao động ở khu vực nông thôn có thu nhập trung bình thấp. Họ lựa chọn quyết
định di chuyển lao động từ vùng có thu nhập thấp sang khu vực thành thị có
thu nhập cao hơn. Như vậy, quá trình di chuyển lao động mang tính tự phát,
phụ thuộc vào sự lựa chọn, quyết định của các cá nhân. Điều này làm cho
cung cầu về lao động ở từng vùng không ổn định, gây khó khăn cho chính
phủ trong việc quản lý lao động và nhân khẩu.
Mô hình Harris Todaro cho phép giải thích được lý do tồn tại tình trạng
thất nghiệp ở các đô thị tại các nước đang phát triển, và tại sao người dân lại
chuyển tới các thành phố mặc dù đang tồn tại nan giải vấn đề thất nghiệp. Để
giải quyết vấn đề này, mô hình Harris – Todaro thừa nhận sự tồn tại của khu
vực kinh tế phi chính thức. Đó là khu vực kinh tế bao gồm các hoạt động,
không hoàn toàn là bất hợp pháp, nhưng thường cũng không được sự thừa
nhận chính thức của xã hội và hầu hết các hoạt động này đều không đăng ký
với nhà nước. Chẳng hạn như lao động phục vụ gia đình, hành nghề tự do, xe
24
ôm, bán hàng rong, mài dao kéo, dịch vụ ăn uống vỉa hè, thu lượm ve chai
đồng nát, đánh giày v.v...
Nhìn chung các lý thuyết về việc làm này đều tập trung nghiên cứu, xác
định mối quan hệ cung cầu lao động tác động đến việc làm. Những lý luận đó
tuy chưa làm rõ vai trò của Chính phủ thông qua hệ thống các chính sách kinh
tế kết hợp với chính sách xã hội để tạo việc làm ổn định cho nền kinh tế,
nhưng có tác dụng gợi mở cho chúng ta khi phân tích thực trạng việc làm và
đề ra những giải pháp phù hợp tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam.
1.
Lý thuyết động cơ của Maslow
Động cơ: Tại một thời điểm nhất định nào của con người cũng có nhiều
nhu cầu. Một số nhu cầu có nguồn gốc sinh học, chúng nảy sinh từ những
trạng thái căng thẳng về sinh lý như đói, khát, khó chịu. Một số nhu cầu khác
có nguồn gốc tâm lý. Chúng nảy sinh từ những trạng thái căng thẳng về tâm
lý, như nhu cầu được thừa nhận, được kính trọng hay gần gũi về tinh thần.
Hầu hết những nhu cầu có nguồn gốc tâm lý đều không đủ mạnh để thúc đẩy
con người hành động theo chúng ngay lập tức. Một nhu cầu nó sẽ trở thành
động cơ khi nó tăng lên mức độ đủ mạnh. Một động cơ là một nhu cầu đã có
đủ sức mạnh để thôi thúc người ta hành động. Việc thỏa mãn nhu cầu sẽ làm
giảm bớt căng thẳng. Các nhà tâm lý học đã phát triern các lý thuyết về động
cơ của con người. Trong số những lý thuyết nổi tiếng nhất có ba lý thuyết là
lý thuyết của Sigmund Freud của Abraham Maslow và của Frederick
Herzberg.
Lý thuyết động cơ của Maslow: Ông đã tìm cách giải thích tại sao những
thời điểm khác nhau, người ta bị thôi thúc bởi những nhu cầu khác nhau. Tại
sao có người đã giành ra nhiều thời gian và sức lực để đảm bảo an toàn cá
25