Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ thực tiến tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC

PHAN QUỐC CƯỜNG

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỪ
THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC
PHAN QUỐC CƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS ĐỖ NĂNG KHÁNH

HÀ NỘI – 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các kết luận, số liệu trong khóa luận tốt nghiệp là trung thực, đảm bảo độ
tin cậy và có nguồn gốc rõ ràng.

Hà Nội, ngày 10/9/2018
Tác giả luận văn

Phan Quốc Cường

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng biết ơn và cảm ơn các thầy, cô giáo giảng viên khoa Sau
Đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện
thuận lợi, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu viết đề tài luận
văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể lãnh đạo và cán bộ Bảo hiểm xã hội tỉnh
Vĩnh Phúc, các nhà quản lý và các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin, số liệu cũng như kinh
nghiệm trong quá trình nghiên cứu luận văn này của bản thân tôi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn toàn thể học viên cùng lớp, người thân trong gia
đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Năng Khánh, người đã
trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành luận
văn chuyên ngành Luật Kinh tế với đề tài “Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ

thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc”.
Tuy đã cố giắng hết mình trong khi nghiên cứu và hoàn thành luận văn
song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của hội đồng khoa học của trường, các thầy, các cô, đồng nghiệp và đặc
biệt những ý kiến phản biện đối với luận văn để luận văn được hoàn thiện hơn./.
Tác giả luận văn

Phan Quốc Cường

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN .........................................................................................................ii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................... v
DANH MỤC BẢNG .............................................................................................. vi
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ
HỘI ......................................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề về Bảo hiểm xã hội ................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 8
1.1.2. Đặc trưng .............................................................................................. 8
1.1.3. Vai trò của BHXH ............................................................................... 10
1.2. Quỹ Bảo hiểm xã hội .................................................................................. 12
1.2.1. Khái niệm ............................................................................................ 12
1.2.2. Vai trò của quỹ BHXH ........................................................................ 13
1.2.3. Đặc trưng ............................................................................................ 14
1.2.4. Khái quát nguồn hình thành quỹ BHXH .............................................. 15

1.2.5. Vấn đề về thu, chi và quản lý Quỹ BHXH ........................................... 19
Kết luận chương 1 ............................................................................................. 24
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỪ
THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC ......................................................................... 25
2.1. Thực trạng pháp luật về quỹ BHXH ........................................................... 25
2.1.1. Về công tác thu BHXH ....................................................................... 26
2.1.2. Về công tác chi trả quỹ BHXH ............................................................ 33
2.1.3. Về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm quỹ BHXH
..................................................................................................................... 43
2.2. Từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc........................................................................ 48
2.2.1. Về công tác thu quỹ BHXH ................................................................. 51
2.2.2. Về Chi quỹ BHXH giai đoạn 2015 - 2017 ........................................... 62
Kết luận chương 2 ............................................................................................. 65
iii


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BHXH
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC... 66
3.1. Hoàn thiện pháp luật về quỹ BHXH ........................................................... 66
3.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ........................... 69
3.2.1. Đối với công tác thu BHXH ................................................................ 69
3.2.2. Đối với công tác chi BHXH................................................................. 71
3.2.3. Đối với vấn đề nợ, trốn đóng BHXH ................................................... 71
3.2.4. Đối với thông tin tuyên truyền ............................................................. 73
Kết luận chương 3 ............................................................................................. 74
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77

iv



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

NSNN

Ngân sách nhà nước

SDLĐ

Sử dụng lao động

NLĐ

Người lao động


LĐTB&XH

Lao động -Thương binh và Xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân



Quyết định

LĐLĐVN

Liên đoàn Lao động Việt Nam

TW

Trung ương

ASXH

An sinh xã hội

CCVC


Công chức viên chức

v


DANH MỤC BẢNG
Stt

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1 Tỷ lệ đóng quỹ BHXH............................................................................ 17
Bảng 1.2 Tỷ lệ đóng BHXH theo nhóm đối tượng ................................................. 18
Bảng 2.1 Tỷ lệ đóng vào quỹ BHXH của NLĐ và người SDLĐ ............................ 27
Bảng 2.2 Tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH của NLĐ và người SDLĐ tại các quỹ
thành phần ............................................................................................. 28
Bảng 2.3 Tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH Tự nguyện ............................................ 28
Bảng 2.4 Tỷ lệ hưởng chế độ hưu trí...................................................................... 38
Bảng 2.10 Công tác thanh tra, kiểm tra việc tực hiện Luật BHXH, BHYT............. 46
Bảng 2.5 Cơ cấu lao động tham gia BHXH theo khối, loại hình tại BHXH tỉnh
Vĩnh Phúc.............................................................................................. 53
Bảng 2.6. Tình hình nợ đọng BHXH tại BHXH tỉnh Vĩnh Phúc năm 2016 - 2017 . 55
Bảng 2.7 Số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại BHXH tỉnh Vĩnh Phúc ....... 56
Bảng 2.8 Số đối tượng hưởng các chế độ BHXH thuộc cơ quan BHXH quản lý.... 62
Bảng 2.9 Tổng hợp số tiền chi trả các chế độ BHXH trong 3 năm ......................... 63

vi



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời điểm hiện nay khi mà tình trạng trốn đóng, nợ đọng, trục lợi, gian
lận về đối với quỹ BHXH có biểu hiện gia tăng trên phạm vi toàn quốc, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động, làm thất thoát quỹ ảnh
hưởng đến việc cân đối quỹ trong ngắn và dài hạn, đồng thời ảnh hưởng đến chính
sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta và trật tự an toàn xã hội thì các chế tài
hình sự quy định hình phạt, chế tài hành chính quy định về thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính của cơ quan BHXH thực sự là công cụ hữu hiệu để điều chỉnh và
có tính răn đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH,
BHYT, BHTN nói chung cũng như trong việc quản lý quỹ BHXH.
Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhất là quy
phạm pháp luật chứa đựng các chế tài bắt buộc có tính chất răn đe nhằm điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thực hiện các chính sách BHXH, BHYT,
BHTN là một yêu cầu cấp thiết. Để đáp ứng yêu cầu, Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 lần đầu
tiên quy định các nhóm tội danh về các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH,
BHYT, BHTN. Cá nhân, pháp nhân thương mại vi phạm phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định tại các Điều 214-Tội gian lận BHXH, BHTN; Điều 215-Tội gian
lận BHYT. Điều 216-Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động.
Theo đó mức án cao nhất đối với cá nhân, tổ chức có hành vi phạm tội thuộc lĩnh
vực BHXH, BHYT, BHTN là 10 năm tù giam, ngoài ra còn bị áp dụng hình phạt bổ
sung như: phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề trong thời hạn nhất
định…Bên cạnh đó Luật BHXH số 58/2014/QH13 (gọi tắt là Luật BHXH năm
2014) có hiệu lực từ 01/01/2016 cũng lần đầu tiên quy định thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN của Giám đốc BHXH cấp
tỉnh theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Nếu như trước khi Luật BHXH 2014 có hiệu lực, thẩm quyền thực hiện xử phạt các
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT thuộc Chủ tịch UBND
cấp tỉnh và Thanh tra chuyên ngành, trong khi cơ quan BHXH là đơn vị trực tiếp

thực hiện các chính sách về BHXH, BHYT, BHTN và quản lý đảm bảo các quỹ
1


được an toàn thì chỉ có chức năng kiểm tra việc ký hợp đồng, việc đóng, chi trả
BHXH, BHYT đối với cơ quan, đơn vị sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám chữa
bệnh; giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc có quyền khởi kiện vụ án dân sự đòi tiền nợ
BHXH …Trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT trong quá
trình kiểm tra chỉ có quyền đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử phạt mà không
có quyền trực tiếp xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, Luật BHXH năm 2014,
Nghị định 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 của Chính phủ quy định chức năng
thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN của cơ quan BHXH đã tạo sự
chủ động của cơ quan BHXH trong quá trình thực hiện thanh tra chuyên ngành về
đóng BHXH, BHYT, BHTN. Theo quy định tại Điều 121 Luật BHXH năm 2014,
Giám đốc BHXH cấp tỉnh (có thể giao cho cấp Phó thực hiện) có quyền xử phạt các
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN quy định tại
khoản 2 Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (tương tự như Chánh
Thanh tra Sở, ngành khác). Hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức phạt và biện
pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm các quy định về đóng BHXH,
BHTN được quy định cụ thể tại Điều 26 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày
22/8/2013 của Chính phủ, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 88/2015/NĐ-CP
ngày 07/10/2015 của Chính phủ.
Qua đó cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự qua tâm đặc biệt đến
chính sách an sinh xã hội nói chung cũng như công tác quản lý quỹ BHXH, để quản
lý quỹ BHXH đúng mục đích và đạt hiệu quả cao nhất thì vấn đề xây dựng hệ thống
pháp luật nhằm điều chỉnh các hành vi liên quan đến quỹ BHXH phải cụ thể, rõ
ràng, chặt chẽ và phù hợp với xu thế phát triển.
Ngay từ trước khi thành lập ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam năm
1995, Quốc hội khoá IX ngày 23/6/1994 đã thông qua Bộ Luật Lao động, trong đó
dành một chương về BHXH. Sau khi Bộ Luật Lao động có hiệu lực, Chính phủ đã

có Nghị định số 12/CP, ngày 26/01/1995, ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội áp
dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức (CCVC) Nhà nước, người lao động
(NLĐ) ở các thành phần kinh tế và lực lượng vũ trang. Đồng thời, hệ thống BHXH
Việt Nam (gồm 3 cấp được tổ chức theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa
phương) cũng được Chính phủ thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH
2


thuộc hệ thống lao động, thương binh, xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam. Để tạo tiền đề vững chắc, đưa chính sách BHXH tiếp tục chuyển biến rõ rệt
và tạo cơ sở cho ngành BHXH phát triển. Tại văn kiện Đại hội lần thứ VIII (1996 2000) của Đảng chỉ rõ: “...Thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định, từng bước được cải thiện. Xây dựng
Luật Bảo hiểm xã hội....”, “...Mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao
động thuộc các thành phần kinh tế, áp dụng bắt buộc đối với các cơ quan, các
doanh nghiệp....”. Để cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng ngày 26/5/1997, Bộ Chính
trị đã có chỉ thị số 15-CT/TW “Về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ bảo
hiểm xã hội”. Ngay sau Chỉ thị số 15-CT/TW của Bộ Chính trị, các cấp uỷ, chính
quyền ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nhanh chóng có văn bản chỉ
đạo dưới các hình thức như chỉ thị, thông tri, công văn… về tăng cường lãnh đạo
thực hiện các chế độ BHXH trên địa bàn.
Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội, kế thừa và
phát triển quan điểm lãnh đạo của các kỳ đại hội trước, Đại hội XII (2016-2020) đã
tiếp tục khẳng định sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng hướng tới thực hiện ASXH
toàn dân: “Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,…”, mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao
hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ
BHXH. Đây là những chủ trương lãnh đạo quan trọng, là định hướng để chính sách
bảo hiểm tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò giảm thiểu rủi ro trong chính sách
ASXH. Theo đó, phải mở rộng các loại hình bảo hiểm, mở rộng đối tượng tham gia,
đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm.

Vì vậy công tác BHXH nói chung đã có sự chuyển biến đáng kể; nhận thức
của cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng lên; số
người tham gia BHXH hàng năm đều tăng; quyền lợi của người tham gia được mở
rộng; các quỹ bảo hiểm cơ bản đảm bảo cân đối và có kết dư; thủ tục hành chính
giải quyết các chế độ BHXH được giải quyết nhanh chóng, chính xác, đáp ứng được
yêu cầu cơ bản của đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH.

3


Sau thời gian triển khai Luật BHXH các văn bản hướng dẫn Luật BHXH, hệ
thống các văn bản pháp luật đã đi vào cuộc sống, từng bước mở rộng đối tượng
tham gia và thụ hưởng BHXH, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NLĐ và người sử dụng lao động (SDLĐ), góp phần thực hiện có hiệu
quả mục tiêu ASXH của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, pháp luật
về quỹ BHXH cũng bộc lộ không ít các điểm bất hợp lý. Vì vậy cần phải đánh giá
một cách đầy đủ hơn về chính sách, chế độ BHXH, từ đó đề xuất những quy định
phù hợp, những vướng mắc trong thực tế thực hiện cần được nghiên cứu điều chỉnh,
bổ sung đáp ứng với các yêu cầu thực tế xã hội.
Để có đánh giá khách quan, khoa học về BHXH nói chung và BHXH ở tỉnh
Vĩnh Phúc, vấn đề “Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc”
được chọn làm đề tài nghiên cứu của Luận văn. Nhằm góp phần sáng tỏ hơn về mặt
lý luận, đánh giá khách quan khoa học về quỹ BHXH và bảo hiểm tỉnh Vĩnh Phúc
hiện nay. Từ đó đề xuất các giải pháp có hiệu quả để củng cố, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quỹ BHXH nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện tại địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học
pháp lý nói riêng ở nước ta hướng sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề triển khai
thực hiện các quy định trong Luật BHXH nhằm phân tích những ưu điểm và hạn
chế của chính sách, chế độ và đề ra những giải pháp hoàn thiện chính sách BHXH.

Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập
đến pháp luật BHXH bắt buộc nói chung và từng chế độ nói riêng, điển hình như:
1. Đỗ Văn Sinh (2005), Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Đỗ Văn Sinh (2015), Quản lý tài chính trong BHXH của Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Đặng Ngọc Liên (2004), Quản lý thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư
nhân tại Hà Nội, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
4. Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến (1996), Góp phần đổi mới và hoàn thiện

4


chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Thi K
̣ im Phụng (2006), Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
6. Nguyễn Hữu Vinh (2010), Giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng và
trốn đóng BHXH ở Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Trường ĐH kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
7. Nguyễn Dương (2010), Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý thu BHXH
tại Bảo hiểm xã hội Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường đại học
Kinh doanh và Công nghệ, Hà Nội.
8. Trần Đình Liệu (2012), Xây dựng quy định quản lý thu nợ BHXH,
BHYT, BHTN, Ban Thu BHXH Việt Nam.
9. Dương Xuân Triệu (2011), Hoàn thiện quy trình quản lý thu, quy trình cấp
và quản lý sổ BXHH, thẻ BHYT, Viện nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
Ngoài ra còn nhiều giáo trình giảng dạy môn Kinh tế Bảo hiểm của Trường
ĐH Kinh tế quốc dân; tài liệu giảng dạy của Trường đào tạo nghiệp vụ BHXH của
ngành, tài liệu nghiên cứu của Viện nghiên cứu khoa học BHXH; bài báo, tạp chí

chuyên ngành nghiên cứu đánh giá những vấn đề đang đặt ra như việc quản lý, bảo
toàn, tăng trưởng quỹ BHXH, mở rộng đối tượng tham gia BHXH, các giải pháp chi
trả BHXH. Cũng như biện pháp hành chính, chế tài đối với những đối tượng trốn
tránh trách nhiệm BHXH. Tuy nhiên, vấn đề BHXH ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
chưa có đề tài trùng lắp.
Với đề tài luận văn này, mong muốn từ thực tiễn đối với pháp luật về quỹ
BHXH nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm vừa qua.
Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về quỹ BHXH.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề
lý luận về quỹ BHXH và các quy định pháp luật liên quan cũng như thực tiễn trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
5


pháp luật về quỹ BHXH và nâng cao hiệu quả thực hiện trên địa bàn tỉnh. Với mục
đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những nội dung
chủ yếu sau:
- Quan điểm của Đảng về BHXH và quỹ BHXH của nước ta.
- Hệ thống các quy định của pháp luật về quỹ BHXH, từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lĩnh vực này.
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quỹ BHXH và nâng
cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Tác giả chọn Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc làm đối tượng nghiên cứu. Với
chặng đường 21 năm thành lập (1997-2018), BHXH tỉnh không ngừng phát triển,

ngày càng lớn mạnh và đạt được nhiều thành tựu góp phần ổn định kinh tế, chính trị
cũng như ASXH trên đại bàn.
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật về quỹ
BHXH và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thể hiện trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật về BHXH.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn từ năm 2015
đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng ta đã đề ra trong các kỳ Đại hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới kể từ Đại
hội VI đến nay về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, xã hội.

6


Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu tổng kết đánh giá thực trạng, kết hợp lý
luận với thực tiễn, thông qua việc phân tích, so sánh, logic.. để làm rõ đề tài cần
nghiên cứu của luận văn. Bên cạnh đó, tác giả cũng tiếp thu, kế thừa chọn lọc kết
quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu liên quan. Từ đó làm cơ sở cho
các đề xuất, kiến nghị, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ BHXH.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn sau đây:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quỹ
BHXH.
- Phân tích, đánh giá quy định pháp luật hiện hành về quỹ BHXH.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ
BHXH tại BHXH tỉnh Vĩnh Phúc, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quỹ BHXH nhằm góp

phần đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội bền vững
trên địa bàn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
chia thành 3 chương như sau:
Chương 1 - Một số vấn đề về BHXH và quỹ BHXH.
Chương 2 - Thực trạng pháp luật về quỹ BHXH từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3 - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quỹ BHXH và
nâng cao hiệu quả thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Một số vấn đề về Bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm
Theo Điều 3 Luật BHXH năm 2006 và Luật BHXH năm 2014 thì: “Bảo hiểm
xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Theo định nghĩa của tổ chức lao động quốc tế: “BHXH là sự bảo vệ của xã
hội đối với các thành viên của mình khi họ gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu
nhập gây ra bởi ốm đai, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa
BHXH còn bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi
cần thiết”. Định nghĩa này phản ánh một cách tổng quan về mục tiêu, bản chất và
chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối cùng của BHXH là
hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với
mọi người.
1.1.2. Đặc trưng

BHXH được lập ra là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của NLĐ. Có thể hiểu BHXH chính là quá trình tổ chức sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung được tồn tích dần, do sự đóng góp của NLĐ và người SDLĐ, dưới sự quản lý,
điều tiết của nhà nước để đảm bảo phần thu nhập thoả mãn những nhu cầu sinh sống
thiết yếu của NLĐ khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao
động. Bản chất của BHXH đươc thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội nhất là trong
xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê
mướn lao động phát triển ở một mức nào đấy. Kinh tế càng phát triển thì BHXH
càng đa dạng và hoàn thiện, có thể nói BHXH là nhu cầu cần thiết để đảm bảo các
tiêu chuẩn hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu.

8


- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH là mối quan hệ 3 bên: Bên tham gia
BHXH, bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và
bảo trợ. Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện cần thiết.
- Những rủi ro xảy ra trong BHXH có thể là rủi ro ngẫu nhiên trái với ý
muốn chủ quan của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…
hoặc là những trường hợp không hoàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản.
- Phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc bị mất đi khi gặp phải sự cố, rủi ro sẽ
bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn
quỹ này do bên tham gia bảo hiểm đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ
từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của NLĐ
trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập, mất việc làm để đảm bảo nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ, chăm sóc sức khoẻ và chống lại bệnh tật.
Như vậy BHXH không phải là loại hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự
bảo hiểm mà nó là sự bảo hiểm đặt trong những mối quan hệ nhất định trong cộng

đồng, BHXH không thể tách khỏi một chế độ chính trị nhất định và phải dựa trên
nền kinh tế cụ thể. Nó thể hiện đặc trưng cơ bản sau:
- Sự tồn tại của rủi ro đối với thu nhập của NLĐ là khó lường trước. Để bù
đắp những khoản thu nhập bị mất đi khi sự cố xảy ra nếu không tham gia BHXH thì
cách cơ bản nhất là phải tích luỹ cá nhân. Tuy nhiên, cách dự trữ cá nhân có nhiều
hạn chế, bởi vì nếu đòi hỏi phải dự trữ lớn ngay một lúc thì sẽ rất khó khăn, hơn nữa
nhiều lao động không có khả năng. Còn nếu tích luỹ dần thì khi rủi ro xảy ra sớm,
mức độ thiệt hại lớn thì không đủ nguồn tài chính để bù đắp, trang trải phần thu
nhập bị mất. Nhưng nếu thông qua BHXH, NLĐ chỉ cần đóng góp hàng tháng một
tỷ lệ nhỏ phần trăm so với tiền lương của mình cùng với sự hỗ trợ của Ngân sách
Nhà nước (NSNN) để tạo ra một quỹ BHXH, quỹ này là tập hợp của số đông NLĐ
tham gia BHXH để bù đắp cho số ít người tham gia bị rủi ro. Khi rủi ro xảy ra bằng
hình thức lấy số đông bù số ít người bị rủi ro sẽ giúp khắc phục những khó khăn
trong đời sống cá nhân từng lao động do bị mất hoặc giảm thu nhập.

9


Như vậy BHXH không phải là dịch vụ sản xuất mà nó là dịch vụ tài chính
nhằm phân phối lại nhưng khoản thu nhập bị mất của NLĐ khi gặp sự cố trong cuộc
sống.
- BHXH là lĩnh vực vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội và vừa
mang tính chất dịch vụ, nhưng trong đó tính xã hội được thể hiện rõ nhất. Nhờ có
BHXH khi NLĐ bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu,
chết làm cho thu nhập của họ bị mất hẳn hoặc giảm sút, họ sẽ được bù đắp lại một
phần hoặc tất cả từ quỹ BHXH, mà quỹ này là do số đông NLĐ đóng góp, cùng
trách nhiệm của người SDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước. Vậy có thể thấy rằng bản
chất của BHXH là sự san sẻ rủi ro giữa tập thể NLĐ. Qua đó cũng thể hiện rõ trách
nhiệm xã hội giữa chủ SDLĐ với NLĐ, của NLĐ với nhau và sự quan tâm của Nhà
nước tới sự cống hiến cho lợi ích xã hội của NLĐ.

- Mối quan hệ các bên tham gia BHXH được quy định, điều chỉnh thông qua
luật BHXH, hoặc các văn bản BHXH dưới luật hoặc phần quy định về BHXH ở bộ
luật khác, do đó nó rằng buộc chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi và các bên có liên
quan và ở đây trách nhiệm lớn nhất của NLĐ và của người SDLĐ là đóng phí
BHXH cho cơ quan BHXH, quyền lớn nhất của NLĐ là được chi trả BHXH khi có
sự cố theo quy định của pháp luật.
Vậy thực chất BHXH là bản cam kết giữa cơ quan BHXH, người SDLĐ và
NLĐ về trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên thông qua các quy định của pháp luật
điều chỉnh mối quan hệ về BHXH.
1.1.3. Vai trò của BHXH
Đối người lao động
Trong cuộc sống hàng ngày không ai dám chắc chắn rằng mình sẽ không gặp
phải rủi ro. Do vậy trong quá trình lao động, sản xuất kinh doanh phải đóng góp đầy
đủ, kịp thời vào quỹ BHXH theo mức chung, sau đó NLĐ có quyền được hưởng trợ
cấp về BHXH, căn cứ vào sự đóng góp và theo chế độ quy định, khi NLĐ gặp phải
những rủi ro như: ốm đau, tai nạn lao động hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp xẩy ra,
làm cho bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn đến nguồn thu nhập

10


của họ bị giảm đi hoặc không còn nữa; hoặc NLĐ bị chết trong khi con cái đang
tuổi vị thành niên, bố mẹ già không nơi nương tựa… Những rủi ro này không chỉ
làm giảm thu nhập của NLĐ mà còn làm giảm nguồn lực tài chính của họ và gia
đình họ. Vậy chính sách BHXH góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình
họ, tạo niềm tin cho NLĐ, góp phần nâng cao năng suất lao động.
Đối với doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, mối quan hệ giữa chủ SDLĐ và NLĐ là mối quan hệ
chặt chẽ, ràng buộc nhau bởi quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các doanh
nghiệp vừa phải tạo điều kiện làm việc tốt cho NLĐ, phải trả công cho họ và phải

có trách nhiệm giúp đỡ khi họ không may gặp phải rủi ro trong quá trình lao động,
sự quan tâm đó thể hiện qua việc tham gia, đóng góp đầy đủ BHXH cho NLĐ, khi
không may NLĐ gặp phải rủi ro thì cơ quan BHXH sẽ chi trả chế độ cho NLĐ. Vậy
BHXH góp phần ổn định sản xuất kinh doanh, giúp người SDLĐ đỡ phải bỏ ra một
khoản tiền lớn hoặc rất lớn để thực hiện trách nhiệm của mình đối với NLĐ khi họ
gặp phải những rủi ro.
Đối với Nhà nước và xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, nhiều trường
hợp đã đẩy một số doanh nghiệp vào tình trạng bất ổn, thậm trí phá sản dẫn đến
hàng loạt NLĐ bị mất việc làm, không đảm bảo được cuộc sống và tạo ra nhiều vấn
đề phức tạp. Vì thế để đảm bảo nền kinh tế xã hội phát triển bình thường, xét về
phía trách nhiệm của xã hội, Nhà nước sẽ phải xây dựng hệ thống pháp luật về
BHXH, tổ chức thực hiện các chính sách về BHXH và Nhà nước sử dụng pháp luật
để can thiệp vào mối quan hệ chủ SDLĐ và NLĐ, đảm bảo những quyền lợi xã hội
cho NLĐ, tạo sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân đồng
thời cùng có trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với NLĐ. Như vậy, đứng trước những rủi ro trong cuộc sống của NLĐ,
trong quá trình lao động, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và cả xã hội
đều cần phải có một nguồn lực tài chính đủ lớn nhằm đảm bảo cho sự ổn định cuộc
sống cho NLĐ, hoạt động của các tổ chức xã hội và sự ổn định về mặt chính trị, trật
tự an toàn xã hội … Tham gia BHXH tức là trong quá trình lao động cả NLĐ và
11


người SDLĐ trích ra một phần thu nhập của mình để cùng Nhà nước thành lập nên
một quỹ tài chính BHXH.
Cùng với sự tiến bộ của xã hội và tiến bộ của loài người, BHXH đã được coi
như là nhu cầu khách quan của con người và được xem như là một trong những
quyền cơ bản của con người và được Đại hội đồng liên hiệp quốc thừa nhận và nghi
vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “ Tất cả mọi người với tư

cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt cơ sở trên
sự thoả mãn các quyền kinh tế xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do
phát triển con người”.
1.2. Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm
Quỹ BHXH được khái quát trong Luật BHXH số 58/2014/QH13 được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/11/2014 như sau:
“ Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được hình
thành từ đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ của
Nhà nước”.
Mối quan hệ giữa các bên trong việc hình thành quỹ BHXH là mối quan hệ
3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do
Nhà nước lập ra và bảo trợ, bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ khi có đủ các
điều kiện cần thiết. Mối quan hệ các bên tham gia quỹ BHXH được quy định, điều
chỉnh thông qua luật BHXH, hoặc các văn bản BHXH dưới luật hoặc phần quy định
về BHXH ở bộ luật khác, do đó nó rằng buộc chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi và
các bên có liên quan và ở đây trách nhiệm lớn nhất của NLĐ và của người SDLĐ là
đóng phí BHXH cho cơ quan BHXH, quyền lớn nhất của NLĐ là được chi trả
BHXH khi có sự cố theo quy định của pháp luật.
Quỹ BHXH có nhiệm vụ đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH
cho người lao động khi họ rơi vào những hoàn cảnh rủi ro nhất định, đảm bảo sự ổn
định cho đời sống người lao động và thân nhân của họ. Do vậy, quỹ BHXH là một
bộ phận quan trọng của không chỉ quỹ bảo hiểm xã hội mà còn của hệ thống

12


BHXH. Để việc thu chi đủ kỳ, đúng đối tượng là một trong những nội dung quan
được quan tâm hàng đầu, đảm bảo cho việc bảo toàn và tăng trưởng quỹ, vì vậy quỹ
BHXH phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất, khoa học theo đúng quy định của

pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật đã có những quy định về quỹ bảo hiểm xã hội
nhằm bảo toàn và phát triển quỹ cũng như chi trả quỹ đúng mục đích.
1.2.2. Vai trò của quỹ BHXH
Quỹ BHXH là nguồn tài chính lớn hình thành từ sự đóng góp của NLĐ và
người SDLĐ được tồn tích lại, nguồn tài chính này tương đối nhàn rỗi vì có thể tính
toán tương đối chính xác nhu cầu chi trả BHXH, chi phí quản lý. Để bảo toàn và
phát triển nguồn quỹ nhãn rỗi, BHXH đem đầu tư lại cho nền kinh tế trong các
chương trình, dự án kinh tế - xã hội sẽ phát huy tác dụng lớn và mang lại hiệu quả,
đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước; đặc biệt trong điều kiện hiện nay, Đảng
và Nhà nước đã khẳng định phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nội lực là chính thì
nguồn đầu tư tiền nhàn rỗi từ quỹ BHXH là một kênh quan trọng.
Đối người lao động
Trong quá trình lao động, sản xuất kinh doanh NLĐ phải đóng góp đầy đủ,
kịp thời vào quỹ BHXH theo mức chung, sau đó NLĐ có quyền được hưởng trợ cấp
về BHXH, căn cứ vào sự đóng góp và theo chế độ quy định, khi NLĐ gặp phải
những rủi ro như: ốm đau, tai nạn lao động hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp xẩy ra,
làm cho bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn đến nguồn thu nhập
của họ bị giảm đi hoặc không còn nữa; hoặc NLĐ bị chết trong khi con cái đang
tuổi vị thành niên, bố mẹ già không nơi nương tựa… Những rủi ro này không chỉ
làm giảm thu nhập của NLĐ mà còn làm giảm nguồn lực tài chính của họ và gia
đình họ.
Đối với người sử dụng lao động
Mối quan hệ giữa chủ SDLĐ và NLĐ là mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc
nhau bởi quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các doanh nghiệp vừa phải tạo điều
kiện làm việc tốt cho NLĐ, phải trả công cho họ và phải có trách nhiệm qua việc
tham gia, đóng góp đầy đủ BHXH cho NLĐ, khi không may NLĐ gặp phải rủi ro

13



thì cơ quan BHXH sẽ chi trả chế độ cho NLĐ. Vậy quỹ BHXH góp phần ổn định
sản xuất kinh doanh, giúp người SDLĐ đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn hoặc rất
lớn để thực hiện trách nhiệm của mình đối với NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro.
Đối với Nhà nước và xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, nhiều trường
hợp đã đẩy một số doanh nghiệp vào tình trạng bất ổn, thậm trí phá sản dẫn đến
hàng loạt NLĐ bị mất việc làm, không đảm bảo được cuộc sống và tạo ra nhiều vấn
đề phức tạp. Vì thế để đảm bảo nền kinh tế xã hội phát triển bình thường, xét về
phía trách nhiệm của xã hội, Nhà nước sẽ phải xây dựng hệ thống pháp luật về
BHXH và quỹ BHXH, tổ chức thực hiện các chính sách về BHXH và Nhà nước sử
dụng pháp luật để can thiệp vào mối quan hệ giữa chủ SDLĐ và NLĐ, đảm bảo
những quyền lợi xã hội cho NLĐ, tạo sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân đồng thời cùng có trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ thêm để
đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với NLĐ. Như vậy, đứng trước những rủi
ro trong cuộc sống của NLĐ, trong quá trình lao động, sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp và cả xã hội đều cần phải có một nguồn lực tài chính đủ lớn nhằm
đảm bảo cho sự ổn định cuộc sống cho NLĐ, hoạt động của các tổ chức xã hội và sự
ổn định về mặt chính trị, trật tự an toàn xã hội … Tham gia BHXH hay nói cách khác
là đóng quỹ BHXH tức là trong quá trình lao động cả NLĐ và người SDLĐ trích ra
một phần thu nhập của mình để cùng Nhà nước thành lập nên một quỹ tài chính.
1.2.3. Đặc trưng
Quỹ BHXH mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản nhất của một quỹ, ngoài ra
do đặc thù của BHXH mà quỹ BHXH có những đặc trưng riêng có sau:
- An toàn về tài chính: Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và ra
của quỹ BHXH. Chức năng của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho NLĐ và
để thực hiện chức năng này, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn
về tài chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ
phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào
quỹ là được dùng để chi trả ngay mà phải sau một khoảng thời gian nhất định số
tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian ấy đồng tiền luôn luôn biến động và có thể

14


bị giảm phát, điều này đặt ra yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải đảm bảo về mặt số
lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá trị.
- Tính tích luỹ: Quỹ BHXH là “của để dành” của NLĐ phòng khi ốm đau, tuổi
già, ... và đó là công sức đóng góp của cả quá trình lao động của NLĐ. Số lượng
tiền trong quỹ có thể tăng lên bởi sự đóng góp đều đặn của các bên tham gia và bởi
thực hiện các biện pháp tăng trưởng quỹ.
- Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả: Tính
hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi trả trợ cấp
cho NLĐ khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay giảm thu nhập. Do đó,
NLĐ là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp. Tính không
hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của BHXH là có đóng có hưởng, đóng ít
hưởng ít, đóng nhiều hưởng nhiều nhưng như vậy không có nghĩa là những người
có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn được hưởng một khoản trợ cấp như nhau.
1.2.4. Khái quát nguồn hình thành quỹ BHXH
Trước khi có Luật BHXH 2006
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số
105-SL ngày 14/06/1946 quy định về việc cấp hưu bổng và đóng BHXH đối với
công chức. Tại Sắc lệnh này, quy định về mức đóng góp vào Quỹ hưu trí, bắt đầu từ
ngày 01/01/1946, công chức có trách nhiệm đóng góp vào Quỹ hưu bổng và Nhà
nước trích từ công quỹ cấp cho Quỹ hưu bổng để khi đủ năm đóng hoặc đủ tuổi sẽ
được nghỉ hưởng chế độ. Có thể nói, Sắc lệnh 105-SL chính là văn bản pháp luật
đầu tiên quy định quyền lợi, mức hưởng hưu trí của công chức, khẳng định nguyên
tắc đóng - hưởng của BHXH, đồng thời, cũng quy định trách nhiệm bảo hộ của Nhà
nước đối với Quỹ BHXH.
Hiện thực hóa quy định về BHXH tại Hiến pháp 1959, để cải tiến, thống nhất
các chế độ có tính chất BHXH, nhằm cải thiện đời sống của CNVC Nhà nước, ngày
27/12/1961, Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP Điều lệ tạm thời về các chế

độ BHXH đối với Nhà nước, thay thế tất cả những quy định trước đó về các chế độ
có tính chất BHXH, và là Điều lệ đầu tiên về BHXH. Tại bản Điều lệ tạm thời này

15


Điều 66 quy định: “ …Quỹ bảo hiểm xã hội của nhà nước là quỹ độc lập thuộc
ngân sách nhà nước. Mọi chi phí về công tác quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và quản
lý các sự nghiệp bảo hiểm xã hội đều do quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước đài thọ.
Nội dung thu, chi của quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước do Hội đồng Chính phủ
ấn định sau…).
Đến Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra vấn đề xác lập một
cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Lúc này hệ thống BHXH Việt Nam nói chung
và việc quản lý quỹ BHXH nói riêng đã bộc lộ ra nhiều khuyết điểm lớn. Thu
BHXH từ các doanh nghiệp trong cả nước không đáng kể, mức đóng góp BHXH rất
thấp, NLĐ không trực tiếp đóng mà được lấy từ ngân sách Nhà nước, nên nguồn thu
hạn chế. Các doanh nghiệp của Nhà nước từng bước chuyển sang tự hạch toán kinh
doanh, không còn sự bao cấp của Nhà nước. Những tư duy mới về phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần và tự hạch toán đòi hỏi cần có những thay đổi trong nhận
thức về hệ thống chính sách xã hội, đặc biệt là các chính sách BHXH, BHYT cũng
cần được xem xét lại trên nguyên tắc đóng - hưởng, từng bước xóa bỏ bao cấp nhằm
giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước và đảm bảo sự công bằng xã hội.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, Bộ Chính trị đã yêu cầu các bộ, ngành chức năng xem
xét thí điểm tổ chức thực hiện BHXH cho người lao động tại khu vực ngoài quốc
doanh, làm cơ sở tiến tới xây dựng một Điều lệ BHXH thống nhất cho toàn thể công
chức, viên chức, người lao động.
Để cụ thể hóa các quy định tại Hiến pháp 1992, ngày 22/06/1993, Chính phủ
ban hành Nghị định số 43/CP quy việc thực hiện 05 chế độ BHXH bao gồm ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất bên cạnh đó

còn quy định về Quỹ BHXH, tại Điều 22: “ Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý
thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà
nước bảo hộ; Quỹ bảo hiểm xã hội được sử dụng chi cho các chế độ bảo hiểm xã
hội quy định tại Điều 1 Nghị định này, chi phí quản lý hành chính về sự nghiệp bảo
hiểm theo quy định của Chính phủ và trên cơ sở cân đối được nguồn quỹ dành một
tỷ lệ chi cho việc dưỡng sức của người tham gia bảo hiểm xã hội”.

16


Cũng tại Nghị định số 43/CP, Điều 21 tiếp tục khẳng định: “Quỹ bảo hiểm
xã hội được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động
và sự hỗ trợ của Nhà nước” theo Bảng 1.1 sau:
Bảng 1.1 Tỷ lệ đóng quỹ BHXH
Đơn vị: %
Nghị định 43/CP

Ốm đau, thai sản,
Hưu trí và tử tuất

TNLĐ- BNN

Người SDLĐ

10

5

Người LĐ


5

0

(Nguồn: Nghị định của Chính phủ về BHXH)
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước,
hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được sử dụng chi trả các
chế độ BHXH cho người tham gia, chi phí quản lý hành chính về sự nghiệp bảo
hiểm theo quy định của Chính phủ và trên cơ sở cân đối được nguồn quỹ dành một
tỷ lệ chi cho việc dưỡng sức của người tham gia BHXH.
Sau Nghị định số 43/CP, mhằm phù hợp với điều kiện đất nước chuyển sang
nền kinh tế thị trường và khắc phục dần các nhược điểm còn tồn tại trong việc thực
hiện các chính sách BHXH. Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo, ban hành Điều lệ
BHXH kèm theo Nghị định 12/CP ra ngày 26/01/1995. Sau đó hàng loạt Nghị định
của Chính phủ được ban hành sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ BHXH. Đối
tượng tham gia BHXH được tiếp tục mở rộng đến cán bộ cấp xã, các thành phẩn
kinh tế, các tổ chức, đơn vị, cá nhân có thuê mướn và trả công cho NLĐ, tức là
quan hệ BHXH được xác lập trên cơ sở quan hệ lao động và tiền lương. Tổng mức
đóng góp BHXH là 20%, nhưng có một số đối tượng đặc thù chỉ đóng 15%, theo
Bảng 1.2 như sau:

17


×