Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Pháp luật về chi trả bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thành phố thanh hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ CHI TRẢ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ THANH HÓA,
TỈNH THANH HÓA

LÊ THỊ LAN

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ CHI TRẢ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ THANH HÓA,
TỈNH THANH HÓA
LÊ THỊ LAN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu khoa học
của tôi dưới sự hướng dẫn của TS Đỗ Thị Dung. Các số liệu, tài liệu, kết quả nghiên
cứu của Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

LÊ THỊ LAN


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô cùng một số cá nhân,
đoàn thể khác.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Cô giáo – Tiến sĩ Đỗ Thị
Dung, người đã luôn dành thời gian, công sức hướng dẫn em trong suốt quá trình từ
khi làm đề cương, thu thập tài liệu, quá trình viết đến khi hoàn thành bản luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo Sau đại
học, Viện Đại học Mở Hà Nội, các thầy cô giáo, những người đã đem lại cho tôi
những kiến thức vô cùng bổ ích trong quá trình học tập và hoàn thành khóa học.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Kính chúc các Thầy, Cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp trồng người!
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2018
Học viên

Lê Thị Lan



DANH MỤC VIẾT TẮT

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

BHTN

: Bảo hiểm thất nghiệp

BNN

: Bệnh nghề nghiệp

HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động


TNLĐ

: Tai nạn lao động


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Cơ cấu nguồn quỹ chi trả BHXH thành phố Thanh Hóa giai đoạn 20132017 ...................................................................................................................... 49
Bảng 2: Tổng chi trả các chế độ BHXH tại thành phố Thanh Hóa giai đoạn 20132017 ...................................................................................................................... 51


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHI TRẢ BẢO
HIỂM XÃ HỘI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ CHI TRẢ BẢO HIỂM XÃ HỘI ..................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật chi trả trả bảo hiểm xã hội ................ 7
1.1.1. Chi trả bảo hiểm xã hội .......................................................................... 7
1.1.2. Pháp luật về chi trả bảo hiểm xã hội..................................................... 15
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chi trả BHXH.............. 22
1.2.1. Quy định về chủ thể có thẩm quyền chi trả BHXH ................................ 22
1.2.2. Quy định về nguồn quỹ và phân bổ nguồn quỹ chi trả BHXH ............... 24
1.2.3. Điều kiện chi trả và mức chi trả BHXH ................................................ 26
1.2.4. Trình tự, thủ tục thực hiện chi trả BHXH .............................................. 36
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 41
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHI TRẢ BẢO
HIỂM XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA ...... 42
2.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa . 42
2.1.1. Khái quát tình hình địa lý, dân cư, kinh tế thành phố Thanh Hóa ......... 42
2.1.2. Khái quát về tổ chức, nhiệm vụ của BHXH thành phố Thanh Hóa ........ 43
2.2. Kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật về chi trả bảo hiểm

xã hội tại thành phố Thanh Hóa, Tỉnh Thanh Hóa ........................................ 44
2.2.1. Kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện thẩm quyền chi trả BHXH tại
thành phố Thanh Hóa ..................................................................................... 44
2.2.2. Kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật về quy trình chi trả
BHXH tại thành phố Thanh Hóa .................................................................... 47
2.2.3. Kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật về quỹ chi trả và
tổng chi trả BHXH tại thành phố Thanh Hóa ................................................. 49
2.2.4. Kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật về trình tự, thủ tục
chi trả BHXH tại thành phố Thanh Hóa ......................................................... 52
2.3. Một số hạn chế trong thực hiện pháp luật về chi trả bảo hiểm xã hội tại
thành phố Thanh Hóa và nguyên nhân........................................................... 54


2.3.1. Một số hạn chế trong công tác chi trả BHXH tại thành phố Thanh Hóa54
2.3.2. Nguyên nhân của các hạn chế trong thực hiện pháp luật về chi trả bảo
hiểm xã hội tại thành phố Thanh Hóa ............................................................. 55
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 57
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHI TRẢ BẢO
HIỂM XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA ...... 58
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về chi trả BHXH tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ....................... 58
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về chi trả BHXH . 58
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định điều kiện chi trả, mức chi trả ................ 60
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chi trả
BHXH tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ........................................ 68
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 74
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 77



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất kỳ quốc gia nào, BHXH luôn là trụ cột quan trọng nhất của hệ
thống an sinh xã hội. Tại Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước nhằm góp phần ổn định đời sống cho NLĐ và gia đình họ trong các trường
hợp NLĐ bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc chết. Trong chính sách
BHXH, chi trả BHXH là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng, bởi lẽ
chỉ khi những khoản trợ cấp đến được tay NLĐ một cách đầy đủ, nhanh chóng để
họ kịp thời trang trải các chi phí trong cuộc sống thì khi đó mục tiêu của chính sách
BHXH mới được hiện thực hóa.
Nhận thức rõ vấn đề này, ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhà nước đã
ban hành và tổ chức thực hiện chi trả BHXH cho NLĐ thông qua các qui định về
chi trả BHXH trong Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên
chức nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 218-CP ngày 27 tháng 12 năm
1961 cúa Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Các quy định về chi trả BHXH
này được áp dụng đến năm 1994. Nhìn chung, hoạt động chi trả BHXH trong thời
kỳ này diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp với nguồn ngân sách
hạn hẹp, tổ chức quản lý phân tán nên hiệu quả chi trả BHXH còn thấp.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), thực hiện
đường lối đổi mới, nền kinh tế chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nhiều qui định về chi trả BHXH đã ban hành
trước đây không còn phù hợp. Để khắc phục tình trạng này, nhà nước ta đã ban
hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/1995/NĐ-CP ngày 26 tháng 01 năm
1995 của chính phủ, tiếp sau đó là Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 01
năm 2003 của chính phủ sửa đổi Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định
12/1995/NĐ-CP. Đặc biệt là sự ra đời của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và sau
đó được thay thế bằng Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, đã góp phần cải thiện hiệu
quả hoạt động chi trả BHXH ở nước ta một cách rõ rệt.
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Luật BHXH năm 2014, một số quy định

về chi trả BHXH đã bộc lộ những bất cập do không phù hợp với điều kiện thực tế của

1


cơ quan BHXH và địa phương. Một số vấn đề không có quy định để điều chỉnh áp
dụng, gây lúng túng cho cơ quan BHXH khi tiến hành hoạt động chi trả BHXH,…
Những hạn chế nêu trên được bộc lộ rõ nét trong quá trình hoạt động của cơ quan
BHXH cấp cơ sở, nơi trực tiếp chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng hưởng.
BHXH thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa là một trong các đơn vị thực
hiện thường xuyên các hoạt động chi trả BHXH với số lượng lớn đối tượng tham
gia so với các huyện, thị xã khác trong phạm vi toàn tỉnh Thanh Hóa. Trong quá
trình thực hiện chi trả BHXH, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn vẫn còn
một số vướng mắc. đó là đối tượng được chi trả BHXH chưa cao, mức chi trả
BHXH còn chưa đáp ứng nhu cầu của đối tượng hưởng, thủ tục chi trả vẫn còn
phức tạp, chưa bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho đối tượng hưởng,...
Từ những lý do trên, em thấy rằng cần thiết phải nghiên cứu về vấn đề này,
từ đó không chỉ nhằm hoàn thiện những bất cập trong quy định của pháp luật, mà
còn nhằm nâng cao công tác thực hiện chi trả BHXH tại BHXH thành phố Thanh
Hóa. Vì vậy, em đã chọn vấn đề: “Pháp luật về chi trả BHXH và thực tiễn thực
hiện tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu ở bậc luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy các công trình nghiên
cứu khoa học chủ yếu nghiên cứu về các nội dung của BHXH, về các chế độ BHXH
hoặc nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH nói chung, hoàn thiện hiệu
quả hoạt động quỹ BHXH, mà có rất ít công trình nghiên cứu trực tiếp về pháp luật
chi trả BHXH. Tuy nhiên, dù không đề cập trực tiếp, song một số công trình nghiên
cứu có giới thiệu về pháp luật chi trả BHXH như:
- Giáo trình, sách tham khảo: Đó là các Giáo trình luật an sinh xã hội của các

cơ sở đào tạo luật học, như: Giáo trình luật an sinh xã hội của Trường Đại học Luật
Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm 2013; Giáo trình bảo hiểm xã hội của Trường
Đại học Lao động - xã hội, Nxb Lao động - xã hội năm 2011; Giáo trình Luật an
sinh xã hội do PSG.TS Nguyễn Hữu Chí chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2012;
Giáo trình Luật an sinh xã hội của Viện Đại học Mở Hà Nội, Nxb Lao động - xã

2


hội, Hà Nội năm 2018;… Các sách tham khảo, chuyên khảo như: “Pháp luật an sinh
xã hội - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư pháp năm 2010 của tác giả
Nguyễn Hiền Phương; “Bình luận một số nội dung của Luật bảo hiểm xã hội năm
2014” do TS Nguyễn Hiền Phương chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2016.
- Bài viết đăng trên tạp chí: Có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành đề cập đến chi trả BHXH như: “Những vấn đề cần quan tâm qua thanh tra
quỹ bảo hiểm xã hội” của tác giả Trần Xuân Lâm trên tạp chí Thanh tra Chính phủ
số 12/2010; bài viết “Nghiên cứu cân đối các quỹ bảo hiểm xã hội” năm 2016 của
tác giả Phạm Đình Thành trên tạp chí Bảo hiểm xã hội Việt Nam số 12B.
- Đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn: Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp cơ sở như: “Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội” do Nguyễn Thị Kim Phụng
chủ nhiệm đề tài, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005; “Bình luận một số nội
dung cơ bản của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014” do TS Nguyễn Hiền Phương chủ
nhiệm đề tài, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015.
Luận án: “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện khung
pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hiền Phương, Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2009.
Các luận văn của các cơ sở đào tạo luật khi nghiên cứu về quỹ BHXH cũng
có đề cập đến chi trả BHXH như: luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về quỹ bảo
hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội” năm 2014 của
tác giả Phạm Thành Công; Luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế “Pháp luật về quỹ bảo

hiểm xã hội từ thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội” năm 2016 của tác giả Cao
Gia Duy; luận văn thạc sĩ luật học “Giải pháp bảo đảm an toàn quỹ bảo hiểm xã hội
theo pháp luật Việt Nam” năm 2017 của tác giả Mai Thị Hậu; luận văn thạc sĩ luật
học “Pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” năm 2017
của tác giả Trần Thị Hằng,...
Có thể thấy rằng, một số nội dung trong các công trình nghiên cứu trên đã
không còn tính thời sự, không còn phù hợp với các quy định của pháp luật hiện
hành, nhất là trong bối cảnh các bộ luật, luật có liên quan đã được ban hành mới
(như: Bộ luật Lao động năm 2012, Luật BHXH năm 2014, Luật ATLĐ, VSLĐ
năm 2015,…). Không chỉ vậy, khi các văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời cũng

3


sẽ nảy sinh các bất cập mới mà những công trình nghiên cứu trước đó chưa đề cập
đến. Đồng thời đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về pháp luật chi
trả BHXH ở thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Bởi vậy, luận văn là công trình nghiên cứu không trùng lặp về nội dung với
các công trình nghiên cứu đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về chi trả BHXH,
thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về chi trả BHXH và thực tiễn thực hiện tại
BHXH thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Từ việc rút ra những điểm tích cực,
hạn chế, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện cơ chế thực
hiện về chi trả BHXH tại BHXH thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Từ mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ chính sau đây:
Một là, nghiên cứu để làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về chi trả BHXH và
pháp luật chi trả BHXH.
Hai là, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về chi trả
BHXH ở Việt Nam.

Ba là, nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về chi trả
BHXH tại BHXH thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, rút ra những nhận
xét về ưu điểm cũng như những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thi hành pháp luật
chi trả BHXH tại BHXH thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Bốn là, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về chi trả
BHXH và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chi trả BHXH tại BHXH thành
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa trong bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định
của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015, các
văn bản hướng dẫn thi hành về chi trả BHXH và số liệu chi trả BHXH tại BHXH
thành phố Thanh Hóa trong những năm gần đây.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, quy định cả pháp luật về điều kiện chi trả, mức chi trả, chế độ chi trả, thủ tục

4


chi trả BHXH và thực tiễn chi trả các chế độ BHXH tại thành phố Thanh Hóa, Tỉnh
Thanh Hóa.
Luận văn không nghiên cứu các nội dung:
- Pháp luật về chi trả bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
- Xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp về chi trả BHXH.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của học thuyết Mác –
Lênin, bao gồm phép biện chứng duy vật và phương pháp luận duy vật lịch sử.
Theo đó, vấn đề pháp luật chi trả BHXH được nghiên cứu luôn ở trạng thái vận
động và phát triển trong mối quan hệ không tách rời với các yếu tố kinh tế, xã hội ở
Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn dựa trên cơ sở các quan điểm,
định hướng của Đảng và nhà nước về chính sách BHXH nói chung, chi trả BHXH

nói riêng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thực hiện luận văn bao
gồm các phương pháp lịch sử, phân tích, chứng minh, so sánh, so sánh luật học,
tổng hợp, nghiên cứu thực tiễn, dự báo khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn có ý nghĩa lý luận sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật chi trả BHXH, qua đó góp phần
nhận thức đầy đủ hơn về bản chất, vai trò của BHXH trong hệ thống an sinh xã hội.
- Hệ thống hóa và đánh giá khách quan những điểm tích cực, hạn chế của
pháp luật Việt Nam hiện hành về chi trả BHXH, qua đó đề xuất phương hướng hoàn
thiện quy định của pháp luật về chi trả BHXH.
- Phản ánh thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về chi trả BHXH
tại BHXH thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Qua đó đề xuất các giải pháp
hoàn thiện cơ chế tổ chức chi trả BHXH trên thực tế.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp kiến thức cho những người đang làm
công tác thực tiễn về BHXH nói chung, chi trả BHXH nói riêng. Từ đó, giúp họ
thực thi pháp luật về BHXH nói chung, pháp luật về chi trả BHXH nói riêng một
cách chính xác, đảm bảo quyền lợi cho đối tượng hưởng.

5


Bên cạnh đó, luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, học
viên, các nhà nghiên cứu, giảng dạy quan tâm đến pháp luật chi trả BHXH nói
riêng, pháp luật BHXH nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng, lời mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật chi trả BHXH và quy định của

pháp luật Việt Nam hiện hành về chi trả BHXH.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về chi trả BHXH tại thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về chi trả BHXH tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

6


CHƯƠNG I:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT
CHI TRẢ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHI TRẢ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật chi trả trả bảo hiểm xã hội
1.1.1. Chi trả bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chi trả bảo hiểm xã hội
- Khái niệm chi trả BHXH
Để hiểu được khái niệm chi trả BHXH, trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm
BHXH là gì? Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), “BHXH là sự bảo vệ mà xã hội
cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng,
nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội dẫn đến việc ngừng hoặc giảm
sút đáng kể về thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, tuổi già và chết” [34-tr.43].
Ở mỗi quốc gia, bảo hiểm xã hội đều được coi là trụ cột trong hệ thống an
sinh xã hội, nhằm bảo đảm thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro dẫn đến bị
mất hoặc suy giảm thu nhập [34-tr.44].
Ở Việt Nam, khái niệm bảo hiểm xã hội được đưa ra trong các Luật BHXH.
Theo Luật BHXH năm 2006 và Luật BHXH năm 2014, thì: “BHXH là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp thu nhập cho NLĐ khi họ khi bị giảm, bị mất thu nhập do ốm

đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng
vào quỹ BHXH” [3].
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu ngắn gọn về BHXH như sau: BHXH là
sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ khi bị giảm, bị
mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng phí vào quỹ BHXH.
Khi tham gia BHXH, các đối tượng tham gia phải đóng phí vào quỹ BHXH
tạo thành nguồn tài chính tập trung để chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng
hưởng khi có đủ điều kiện pháp luật quy định. Như vậy, chi trả BHXH là một hoạt

7


động của bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, do hoạt động chi trả BHXH có liên quan đến
vấn đề quỹ, đến điều kiện hưởng của các đối tượng, đến thủ tục thực hiện, … vì vậy
khi tìm hiểu về vấn đề chi trả BHXH, chúng ta có thể tiếp cận theo nhiều góc độ
khoa học khác nhau, để từ đó có thể tổng quan, khoa học nhất về chi trả BHXH.
Dưới góc độ kinh tế, chi trả BHXH là quá trình phân phối, sử dụng quỹ tài
chính dự trữ của những NLĐ, NSDLĐ và có sự bảo trợ của nhà nước, nhằm bảo
đảm đời sống cho NLĐ hoặc đối tượng hưởng khi gặp rủi ro do ốm đạu, thai sản,
TNLĐ, BNN hoặc tuổi già và chết.
Ở góc độ này, định nghĩa chi trả BHXH đã nêu rõ bản chất của quá trình chi
trả BHXH thực chất là quá trình phân phối lại quỹ tài chính dự trữ của cộng đồng
những NLĐ, NSDLĐ và có sự bảo trợ của nhà nước. Tuy nhiên, khái niệm chi trả
BHXH, khi nhìn nhận ở góc độ này chưa nêu rõ được những điều kiện cụ thể để
NLĐ có thể được chi trả BHXH.
Dưới góc độ pháp lý, chi trả BHXH là một chế độ pháp lý quy định về chủ
thể có thẩm quyền chi trả, điều kiện, định mức và thủ tục chi trả BHXH cho NLĐ
hoặc đối tượng khác từ quỹ BHXH, khi NLĐ hoặc đối tượng hưởng đáp ứng đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật.

Theo đó, các điều kiện cần đáp ứng là thời gian tham gia BHXH, hoàn thành
nghĩa vụ đóng góp tài chính trong thời gian tham gia BHXH, nộp hồ sơ hưởng trợ
cấp đầy đủ, đúng thời hạn,…
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa vể chi trả BHXH như
sau: Chi trả BHXH là quá trình sử dụng quỹ BHXH do những NLĐ, NSDLĐ đóng
góp và có sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ và thân nhân
gia đình họ khi NLĐ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN,
hết tuổi lao động hoặc chết, khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Đặc điểm của chi trả bảo hiểm xã hội
Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy chi trả BHXH có một số đặc điểm sau đây:
Về bản chất: Chi trả BHXH thực chất là quá trình phân phối, sử dụng quỹ
BHXH. Trong đó, quỹ BHXH là quỹ dự trữ tài chính có sự đóng góp của NLĐ,
NSDLĐ và hổ trợ một phần từ ngân sách nhà nước. Phân phối quỹ BHXH là quá

8


trình phân bổ các nguồn tài chính từ quỹ BHXH cho các quỹ thành phần: quỹ ốm
đau và thai sản; quỹ TNLĐ, BNN; quỹ hưu trí và tử tuất. Sử dụng quỹ BHXH là
quá trình chi tiền từ quỹ BHXH đến tay các đối tượng thụ hưởng hoặc cho từng
mục đích sử dụng cụ thể (như phát triển quỹ BHXH thông qua mua trái phiếu Chính
phủ, cho ngân hàng nhà nước vay,…).
Về đối tượng: Đối tượng thụ hưởng của hoạt động chi trả BHXH là NLĐ và
thân nhân trong gia đình họ. Khi khỏe mạnh, NLĐ đã cống hiến sức lao động của
mình để mang lại thu nhập, họ trích một phần thu nhập đó của mình đóng phí vào
quỹ. NSDLĐ là bên sử dụng sức lao động của NLĐ, phải có nghĩa vụ trích một
phần lợi nhuận thu được để bù đắp cho thu nhập của NLĐ khi họ bị suy giảm hoặc
mất khả năng lao động. Trong nhiều trường hợp, thân nhân trong gia đình của NLĐ
khi NLĐ bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động cũng là đối tượng thụ hưởng của
chi trả BHXH. Tuy NSDLĐ có tham gia đóng góp vào quỹ BHXH nhưng đây là

nghĩa vụ của NSDLĐ để bảo đảm quyền lợi của NLĐ. Do đó, NSDLĐ không phải
là đối tượng thụ hưởng của hoạt động chi trả BHXH.
Về mục đích: Chi trả BHXH nhằm kịp thời san sẻ khó khăn, đảm bảo thu
nhập cho NLĐ và thân nhân gia đình họ. Do những yếu tố chủ quan và khách quan
khác nhau, NLĐ không thể lường trước những rủi ro có thể gặp phải (bị ốm đau,
TNLĐ, BNN,…) hoặc không thể tránh khỏi (nghỉ việc do sinh con, do hết tuổi lao
động hoặc chết). Mục đích của chi trả BHXH là kịp thời đảm bảo đời sống của
NLĐ trong những hoàn cảnh như vậy. Mục đích này đã được Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) cụ thể hóa như sau: bù đắp cho NLĐ những khoản thu nhập bị mất để
bảo đảm nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ; chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật;
xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu cơ bản của dân cư và nhu cầu đặc biệt
của người già, người tàn tật và trẻ em [30].
1.1.1.2. Vai trò của chi trả bảo hiểm xã hội
- Vai trò đối với đối tượng thụ hưởng bảo hiểm xã hội:
Chi trả BHXH đầy đủ, kịp thời trực tiếp đảm bảo quyền lợi của NLĐ và thân
nhân gia đình họ. Khi khỏe mạnh, NLĐ đã tham gia đóng góp một phần thu nhập
vào quỹ BHXH. Chính vì vậy, khi bị suy giảm hoặc mất sức lao động, họ có quyền

9


được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Nếu khoản tiền trợ cấp đến tay NLĐ một cách
đầy đủ, kịp thời thì họ sẽ có điều kiện để bù đắp những thiếu thốn đang gặp phải.
Ngược lại, nếu việc chi trả BHXH không đầy đủ, kịp thời thì họ sẽ không có
kinh phí để trang trải cho cuộc sống của mình và gia đình. Bởi lẽ, khi lâm vào
những hoàn cảnh khó khăn, những nhu cầu thiết yếu không những giảm mà còn
tăng lên (như khi ốm đau phải cần tiền để mua thuốc; khi sinh con cần tiền để bồi
bổ cho người mẹ và con nhỏ; khi bị BNN cần tiền để khám, chữa bệnh gần như suốt
đời…). Khi đó, quyền lợi của đối tượng thu hưởng sẽ không được đảm bảo.
- Vai trò đối với người sử dụng lao động:

Nếu hoạt động chi trả BHXH được làm tốt, NLĐ sẽ yên tâm công tác, chủ
động gắn bó với NSDLĐ và hăng say trong sản xuất, kinh doanh. Khi đó, trong
cùng một thời gian thuê lao động nhưng năng suất lao động tăng lên, sản phẩm làm
ra nhiều hơn và NSDLĐ sẽ là người được hưởng lợi. Ngược lại, nếu không làm tốt
công tác chi trả BHXH (chi trả thiếu, chi trả chậm), NLĐ sẽ cảm thấy quyền lợi
chính đáng của mình không được bảo đảm, cảm thấy bất mãn và lo lắng cho cuộc
sống gia đình, thậm chí có thể xảy ra đình công ở phạm vi doanh nghiệp hoặc địa
phương. Khi đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ không được đảm bảo theo như
mong muốn của NSDLĐ. Như vậy có thể nói chi trả BHXH góp phần tăng hiệu quả
sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ.
- Vai trò đối với an sinh xã hội của đất nước:
Thực hiện tốt công tác chi BHXH đảm bảo cho quỹ BHXH được an toàn và
phát triển bền vững. Quản lý quỹ BHXH gồm hai khâu không tách rời là thu và chi
BHXH. Nếu quá trình chi trả BHXH thực hiện một cách chính xác đến tay các đối
tượng thụ hưởng, tiết kiệm chi phí quản lý hành chính thì sẽ đảm bảo cân đối nguồn
thu - chi của BHXH. Không những vậy, thực hiện tốt công tác chi trả BHXH còn
tạo điều kiện cho quỹ phát triển. Bởi lẽ, sau khi cân đối được nguồn thu - chi quỹ
BHXH, nguồn quỹ có khả năng kết dư và đem đầu tư theo các hình thức an toàn,
hiệu quả theo quy định của pháp luật quản lý, sử dụng quỹ BHXH.
Thực hiện tốt công tác chi trả BHXH là điều kiện tiên quyết để thực hiện hóa
chính sách an sinh xã hội. Bởi BHXH là chính sách rất cơ bản trong hệ thống chính

10


sách an sinh xã hội, BHXH tạo ra nền móng thiết yếu nhất để phát triển con người.
Chi trả BHXH lại là khâu trung tâm trong chính sách về BHXH, bởi mục đích cuối
cùng của bất kỳ một Nhà nước nào khi thực hiện chính sách BHXH cũng là chi trả
trợ cấp cho NLĐ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, góp phần đảm bảo cuộc sống cho
NLĐ và thân nhân gia đình họ. Chỉ khi nào khoản trợ cấp BHXH được đến tay các

đối tượng thụ hưởng một cách đầy đủ, kịp thời thì cuộc sống người dân mới được
đảm bảo, nhờ đó mà xã hội mới phát triển một cách ổn định, mục tiêu của BHXH
mới được hiện thực hóa trên thực tế. Do đó, thực hiện thành công các công tác chi
trả BHXH thì mới có thể thực hiện hóa chính sách BHXH nói riêng và chính sách
an sinh xã hội nói chung.
1.1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chi trả bảo hiểm xã hội
- Nhóm yếu tố về nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội
Thu và chi BHXH luôn là hai hoạt động trung tâm trong chính sách về
BHXH và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, số tiền chi trả trợ cấp
BHXH được lấy từ nguồn quỹ BHXH. Chính vì vậy, yếu tố về nguồn thu quỹ
BHXH sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chi trả BHXH. Nếu nguồn thu
BHXH được đóng góp một cách đầy đủ, thường xuyên từ phía NLĐ, NSDLĐ, hỗ
trợ từ ngân sách nhà nước và được sử dụng đầu tư phát triển một cách có hiệu quả
thì nguồn quỹ chi trả sẽ được kết dư, công tác chi trả BHXH nhờ đó mới có thể
được duy trì và triển khai hiệu quả trên thực tế. Ngược lại, khi nguồn thu quỹ
BHXH không ổn định, thất thoát thì sẽ không có nguồn tài chính để phục vụ cho
công tác chi trả BHXH.
- Nhóm yếu tố về quản lý chi trả bảo hiểm xã hội
Khi nguồn thu của quỹ BHXH được đóng góp, đầu tư phát triển hiệu quả
nhưng công tác quản lý chi trả không tốt thì hiệu quả của hoạt động chi trả cũng
không thể được nâng cao. Những yếu tố trong quản lý chi trả BHXH có ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động chi trả BHXH đó là:
Mức hưởng và mức đóng BHXH: Một khi mức hưởng cao hơn mức đóng thì
sẽ gây mất cân đối thu – chi quỹ BHXH, gây ảnh hưởng đến công tác chi trả
BHXH. Do đó, công tác chi trả BHXH chỉ có thể duy trì ổn định nếu quy định mức
hưởng và mức đóng cân bằng nhau.

11



Cơ cấu các khoản chi: Trong cơ cấu chi BHXH có nhiều khoản chi, nhưng
có ba khoản chi cơ bản quan trọng nhất đó là chi trả các chế độ BHXH, chi phí quản
lý bộ máy và chi đầu tư phát triển quỹ. Một khi cơ cấu chi thiếu hợp lý cũng là một
nguyên nhân gây lạm chi, mất cân đối quỹ.
Cơ chế quản lý chi: Hiện tượng lạm dụng quỹ, thất thoát quỹ là những biểu
hiện cho sự lỏng lẻo của cơ chế quản lý chi, tạo cơ hội cho kẻ xấu trục lợi, gây ảnh
hưởng xấu đến kết quả chi trả BHXH.
Công tác đầu tư quỹ: Đầu tư kém hiệu quả thì không có lãi, hoặc lãi thấp hơn
trượt giá thị trường, thậm chí là không thu hồi được vốn cũng là nguy cơ gây bất ổn
quỹ, ảnh hưởng đến hoạt động chi trả BHXH.
- Nhóm yếu tố về sinh học
Các yếu tố về sinh học được coi là những yếu tố mà con người khó có khả
năng kiểm soát theo ý chí của bản thân như tuổi thọ, giới tính và sự suy giảm sức
khỏe tự nhiên của mỗi con người. Cụ thể:
Tuổi thọ là yếu tố tác động lớn đến hoạt động chi trả BHXH. Đi kèm với sự
gia tăng của tuổi thọ là sự giảm sút sức khỏe của NLĐ khiến họ dễ có nguy cơ mắc
bệnh, làm việc không tập trung. Kéo theo đó là số lượng đối tượng cần được chi trả
trợ cấp ốm đau, TNLĐ, BNN cũng tăng lên. Tuổi thọ trung bình tăng cũng làm tăng
thời gian chi trả trợ cấp hưu trí, tử tuất cho NLĐ và thân nhân gia đình họ.
Độ tuổi lao động của mỗi người luôn có giới hạn. Đứng trên góc độ quản lý
dân số và nguồn lao động, người ta thường phân chia dân số thành ba nhóm tuổi:
nhóm dân số trẻ (từ 14 tuổi trở xuống), nhóm dân số trong độ tuổi lao động (từ 15
đến 60 tuổi đối với nam, từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ) và nhóm dân số già (trên 60
tuổi đối với nam, trên 55 tuổi đối với nữ). Việc phân chia này có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động chi trả BHXH. Bởi lẽ, với mỗi độ tuổi khác nhau, nhu câu tối thiểu
và khả năng tự nuôi sống bản thân đều rất khác nhau. Vì vậy, chính sách chi trả
BHXH cũng bị phụ thuộc vào từng độ tuổi này. Ví dụ như: với những NLĐ tham
gia BHXH và đến độ tuổi nghỉ hưu, cơ quan BHXH sẽ có trách nhiệm chi trả trợ
cấp hưu trí cho nhóm đối tượng này; với những người chưa thành niên có cha (hoặc
mẹ) là NLĐ tham gia BHXH và chết, cơ quan BHXH sẽ có trách nhiệm chi trả trợ


12


cấp tử tuất cho nhóm đối tượng này cho đến khi họ thành niên,… Nếu độ tuổi nghỉ
hưu, độ tuổi hưởng trợ cấp tuất thay đổi thì số lượng đối tượng hưởng và số tiền chi
trả BHXH cũng sẽ biến động một cách đáng kể.
Giới tính có liên quan đến nhiều hoạt động chỉ trả trợ cấp của nhiều chế độ
BHXH khác nhau. Đối với chế độ trợ cấp hưu trí, tuổi nghỉ hưu của nam giới
thường cao hơn nữ giới, trong khi đó tuổi thọ lại cao hơn nam giới trung bình 5
năm. Như vậy, cũng sẽ kéo dài thời gian chi trả BHXH cho nữ giới lâu hơn so với
nam giới.
Đối với chế độ trợ cấp thai sản, giới tính có liên quan trực tiếp đến sự kiện
mang thai và sinh con của phụ nữ - một trong những điều kiện để cơ quan BHXH
chi trả trợ cấp cho NLĐ nữ mang thai hoặc NLĐ nam tham gia BHXH có vợ sinh
con. Do đó, để có nguồn tài chính cần thiết cho chi trả, cơ quan BHXH cần nắm
được số lượng và tỷ suất sinh ở nhóm NLĐ nữ trong độ tuổi sinh con.
Đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều nam giới (do tính chất công việc
đòi hỏi sức khỏe như khai thác, xây dựng…) thì việc khó tránh khỏi là họ phải chi
trả nhiều cho trợ cấp TNLĐ, BNN. Trong khi đó, những doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động nữ (vì những ưu thế trong độ bền bỉ, khéo léo,…) lại phải chi trả
nhiều cho trợ cấp thai sản.
- Nhóm yếu tố về điều kiện kinh tế - xã hội
Ngoài những yếu tố nêu trên thì điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chi trả BHXH. Bởi lẽ, chi
trả BHXH cũng là một hoạt động xã hội trong mối quan hệ biện chứng với những
hoạt động xã hội khác (như hoạt động đầu tư sản xuất trong nước, hoạt động giao
lưu thương mại với nước ngoài, …). Khi điều kiện kinh tế - xã hội (thuộc phạm trù
cơ sở hạ tầng) thay đổi thì chính sách về BHXH nói chung, công tác chi trả BHXH
nói riêng (thuộc phạm trù kiến trúc thượng tầng) cũng buộc phải thay đổi theo cho

phù hợp.
Những yếu tố về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi trả
BHXH đó là:
Tốc độ phát triển của nền kinh tế: Khi nên kinh tế phát triển với tốc độ
nhanh, số lượng NLĐ tham gia quan hệ lao động và số đối tượng hưởng trợ cấp

13


BHXH chắc chắn sẽ tăng cao. Mặt khác, nguồn quỹ BHXH khi đó cũng sẽ có điều
kiện được bổ sung, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác chi trả BHXH có
điều kiện được đầu tư nâng cấp.
Chính sách dân số, việc làm: Với mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước sẽ
điều chỉnh chính sách dân số, chính sách việc làm để tạo sự hài hòa giữa điều
kiện dân số, nhu cầu làm việc với tốc độ phát triển của nền kinh tế. Khi nhu cầu
việc làm của nhóm dân số đến độ tuổi lao động tăng cao hơn so với nhu cầu của
nền kinh tế, Nhà nước có thể sẽ điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu, xúc tiến đưa lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Ngược lại, khi thiếu hụt nguồn nhân
lực Nhà nước sẽ tăng độ tuổi nghỉ hưu, bổ sung ưu đãi trong các chế độ BHXH
để thu hút nhân lực.
Trình độ quản lý lao động của doanh nghiệp và quản lý xã hội của Nhà
nước: Khi trình độ quản lý lao động của doanh nghiệp và quản lý xã hội của Nhà
nước được nâng cao, công tác cập nhật thông tin của đối tượng hướng sẽ được quản
lý một cách chặt chẽ, tránh thất thoát cho quỹ BHXH. Ngược lại, khi trình độ quản
lý yếu kém sẽ nảy sinh hiện tượng trục lợi bất chính từ các lỗ hổng trong cơ chế,
chính sách quản lý chi trả BHXH.
Trình độ dân trí của đông đảo người dân: Khi người dân có một nhận
thức đầy đủ, chính xác về lợi ích của BHXH, các quy định của pháp luật về chi
trả BHXH thì họ sẽ tự nguyện, tích cực tham gia BHXH, bổ sung nguồn quỹ
chi trả BHXH. Đồng thời, khi trình độ dân trí được nâng cao, người dân sẽ có

thói quen khám sức khỏe định kỳ, nâng cao ý thức tự bảo vệ mình trong quá
trình lao động,… Nhờ đó mà cơ quan BHXH sẽ ít phải chi trả các chế độ ốm
đau, TNLĐ hơn.
Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới: Trong một thế giới với nhu cầu giao lưu
thương mại mạnh mẽ như hiện nay, dù muốn hay không, các nước đều buộc phải
hội nhập kinh tế với thế giới nếu không muốn bị tụt hậu phía sau. Hội nhập về kinh
tế cũng có nghĩa là việc NLĐ nước ta có thể sang nước ngoài để tìm kiếm việc làm
và ngược lại NLĐ nước ngoài cũng có quyền sang nước ta để lao động. Kéo theo
đó, pháp luật về chi trả BHXH cũng sẽ phải phù hợp với các điều ước quốc tế để
bảo vệ quyền lợi chính đáng của NLĐ mỗi nước.
14


1.1.2. Pháp luật về chi trả bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về chi trả BHXH
Pháp luật về chi trả BHXH là một bộ phận cấu thành pháp luật BHXH và là
một trong những nội dung thuộc chính sách an sinh xã hội, vì vậy nó phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội của các quốc gia. Xuất phát từ những nhu cầu
của cuộc sống là đảm bảo thu nhập khi NLĐ hết khả năng lao động hoặc chết mà
hoạt động về chi trả BHXH xuất hiện như một nhu cầu khách quan.
Hiện nay, pháp luật các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận về chi trả
BHXH. Do BHXH là một chính sách xã hội của quốc gia nhưng đồng thời cũng
là công cụ của Nhà nước nhằm tham gia vào việc phân phối lại thu nhập quốc
dân một cách hợp lý giữa các tầng lớp xã hội, giúp thực hiện xây dựng chế độ
an sinh xã hội lâu dài và bền vững, góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, nên quy định về chi trả BHXH phải bảo đảm phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội và khả năng về vật lực, nhân lực của đất nước,
bảo đảm mục đích mà BHXH đã đặt ra.
Ở Việt Nam, pháp luật về chi trả BHXH được quy định cùng với các quy
định về đối tượng tham gia, điều kiện hưởng và các chế độ BHXH nên được

biết đến từ rất sớm. Cùng với sự phát triển của BHXH và quỹ BHXH, các quy
định pháp luật về chi trả BHXH tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, nhất là
các quy định mới được cụ thể tại Luật BHXH 2014. Theo đó, pháp luật về chi
trả BHXH điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động chi trả
BHXH từ các quỹ BHXH (Quỹ ốm đau, thai sản; quỹ TNLĐ, BNN; quỹ hưu trí
và tử tuất) và phải bao quát được hết các khâu từ quy định về đối tượng tham
gia, mức đóng phí, mức hưởng bảo hiểm cho đến quy định về thủ tục thực hiện
BHXH tự nguyện, mức phí và phương thức đóng phí BHXH tự nguyện và các
vấn đề khác có liên quan.
Từ các quy định của pháp luật, có thể hiểu pháp luật về chi trả BHXH là hệ
thống những quy định do Nhà nước ban hành, quy định về chi trả BHXH từ quỹ
BHXH cho các đối tượng hưởng khi đủ điều kiện.

15


1.1.2.2. Nguyên tắc chi trả bảo hiểm xã hội
Việc thực hiện chi trả BHXH tuân theo những nguyên tắc nhất định. Cụ thể
như sau:
- Đảm bảo chi trả BHXH đúng, kịp thời. Điều đó có nghĩa là việc chi trả
BHXH phải chi trả đúng đối tượng thụ hưởng, đủ về trợ cấp cho từng đối tượng và
kịp thời về thời gian chi trả khoản trợ cấp đến tay đối tượng thụ hưởng một cách
nhanh chóng nhất. Thực hiện đúng nguyên tắc này mới tạo ra sự công bằng, tin
tưởng từ phía NLĐ và nhà nước, thực hiện chính sách an sinh xã hội.
- Đảm bảo tuân thủ quy trình quản lý chi trả BHXH theo phân cấp. Theo đó,
cơ quan BHXH cấp trên có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát quá trình thực
hiện chi trả BHXH của cơ quan BHXH cấp dưới, của đại điện chi trả và của
NSDLĐ. Ngược lại, cơ quan BHXH cấp dưới có trách nhiệm chi trả trợ cấp và báo
cáo lên cơ quan BHXH cấp trên theo đúng quy định.
- Đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả BHXH. Cần đảm bảo cân

đối thu chi trong quỹ BHXH để không xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn tiền chi trả
dẫn đến tình trạng “vỡ quỹ” hoặc thiếu hụt tiền mặt trong một giai đoạn chi trả nhất
định (do sử dụng quỹ BHXH để đầu tư phát triển nhưng không kịp thu hồi khi đến
thời điểm chi trả BHXH). Bên cạnh đó, đảm bảo tiền mặt trong quá trình chi trả
BHXH còn có nghĩa là phải bảo đảm về mặt an ninh, tránh để xảy ra tình trạng
trộm, cướp trong quá trình vận chuyển tiền mặt từ trụ sở cơ quan BHXH đến địa
điểm chi trả BHXH cho các đối tượng thụ hưởng.
Trong quá trình chi trả BHXH, các hóa đơn, chứng từ cần được cập nhật vào
hệ thống kế toán của từng cơ quan BHXH. Cuối mỗi kỳ chi trả, cơ quan BHXH cấp
dưới phải gửi báo cáo tài chính lên cơ quan BHXH cấp trên để cơ quan BHXH cấp
trên tiến hành hoạt động kiểm toán. Cơ quan BHXH cấp trên chỉ quyết toán khi
không phát hiện ra tình trạng thất thoát, lãng phí trong chi trả BHXH của cơ quan
BHXH cấp dưới.
1.1.2.2. Nội dung pháp luật về chi trả BHXH
Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của BHXH đối với đời sống NLĐ
cũng như trong đời sống xã hội, nên hầu hết các quốc gia đều quy định cụ thể về chi

16


trả BHXH. Tuy quy định của các quốc gia khác nhau, song nhìn chung đều bao gồm
các nội dung cơ bản như sau:
- Chủ thể có thẩm quyền chi trả BHXH:
Thẩm quyền chi trả BHXH hiện nay được các nước quy định khác nhau. Ở các
quốc gia đang phát triển, thẩm quyền chi trả BHXH thuộc về cơ quan, tổ chức
BHXH. Điều này xuất phát từ nguyên nhân hình thành, vai trò cũng như mục đích
sử dụng của quỹ BHXH, từ đó đặt ra yêu cầu quản lý, giám sát, và việc tổ chức thực
hiện các hoạt động chi trả BHXH. Các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có
Thái Lan, Việt Nam, thẩm quyền chi trả BHXH do cơ quan BHXH nhà nước thành
lập, thực hiện chi trả BHXH. Ở các quốc gia phát triển, do mô hình BHXH có điểm

khác, nên chủ thể chi trả BHXH không nhất thiết là cơ quan do nhà nước thành lập.
Ví dụ ở Đức, mỗi loại bảo hiểm xã hội có một tổ chức quản lý, do vậy có rất nhiều
tổ chức BHXH chi trả BHXH [26].
Ở Việt Nam, việc quản lý sự nghiệp đối với quỹ BHXH do Bảo hiểm xã hội
Việt Nam trực tiếp quản lý, tổ chức thu, chi, đầu tư quỹ. Hội đồng quản lý BHXH
có vai trò
giúp Chỉnh phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giám sát việc thực hiện chế độ,
chính sách thu, chi quỹ BHXH. Vì vậy, thẩm quyền chi trả BHXH thuộc về cơ quan
BHXH Việt Nam [5].
- Nguồn quỹ và phân bổ nguồn quỹ chi trả BHXH:
Quỹ BHXH được phân chia gồm nhiều quỹ khác nhau để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tổ chức thực hiện và hạch toán quỹ. Quỹ BHXH thành lập theo cách
thức phù hợp với trình độ tổ chức và thực hiện. Theo tính chất sử dụng quỹ, quỹ
BHXH bao gồm quỹ dài hạn (được thành lập để chi trả cho các chế độ dài hạn như
trợ cấp hưu trí) và quỹ ngắn hạn (dùng chi trả cho các chế độ trợ cấp ngắn hạn như
ốm đau, thai sản,…). Hoặc có thể thành lập quỹ theo từng chế độ và mỗi quỹ sẽ
được chi trả cho từng chế độ tương ứng như quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất,…Cũng có thể thành lập quỹ theo đối tượng quản
lý: quỹ cho công chức nhà nước, lực lượng vũ trang, người lao động,…
Ở Việt Nam, việc thành lập các quỹ thành phần đã được nghiên cứu rất kỹ
trước khi đi vào thực hiện. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, việc thành lập quỹ

17


×