Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 80 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung, trong khu công nghiệp nói riêng
có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống của con người cũng như trong
hoạt động và phát triển kinh tế xã hội.
Ô nhiễm, suy thoái môi trường là một trong những vấn đề đặt ra toàn cầu mà
nhân loại đang phải đối mặt song song với các vấn đề đói nghèo, bệnh tật... Những
vấn đề này đang đe dọa sự tồn tại và phát triển của trái đất, vì vậy, bảo vệ môi
trường cũng đồng nghĩa với bảo vệ môi trường sống, bảo đảm mọi người dân được
sống trong môi trường trong lành, sạch đẹp, góp phần nâng cao sức khỏe và chất
lượng cuộc sống của nhân dân, đồng thời cũng là nội dung quan trọng của phát triền
bền vững.
Bảo vệ môi trường là một nội dung quan trọng, không thể tách rời trong quá
trình phát triển kinh tế và không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá mà xem nhẹ
công tác bảo vệ môi trường. Việc lồng ghép yếu tố môi trường trong các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và dự án phát triển của các cấp, các ngành phải được quan tâm
đúng mức và thực hiện một cách nghiêm túc và đồng bộ. Đầu tư cho bảo vệ môi
trường cần phải có những chuyển biến rõ rệt trong quan điểm về đầu tư, mức đầu tư
cũng như hiệu quả đầu tư đối với công tác bảo vệ môi trường.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường thu hút các nguồn
lực để phát huy tiềm năng thế mạnh trong nước và của từng địa phương để chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, trong những năm qua mô hình khu công nghiệp đã được hình
thành và phát triển đa dạng, đóng góp rất quan trọng vào công cuộc phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước nói chung, của các địa phương nói riêng. Tuy nhiên, các khu
công nghiệp chủ yếu phát triển theo mô hình đa ngành, chú ý đến việc thu hút các
nhà đầu tư thứ cấp để đẩy nhanh việc lấp đầy diện tích đất cho thuê, việc chấp hành
pháp luật về bảo vệ môi trường của các chủ doanh nghiệp chưa được thực hiện
nghiêm túc, các vấn đề về môi trường chưa thực sự quan tâm, công tác thanh kiểm
1



tra của các cơ quan chức năng chưa được thực hiện thường xuyên, do đó đã gây nên
ô nhiêm môi trường từ chất thải khu công nghiệp, đã tác động tiêu cực tới môi
trường sống xung quanh. Do đó, chúng ta không thể phát triển kinh tế mà không
chú ý đến vấn đề môi trường. Vì vậy, các giải pháp về bảo vệ môi trường phải được
thực hiện đồng bộ và triệt để ngay từ khâu lập, thẩm định và phê duyệt các chiến
lược, chính sách, quy hoạch và dự án phát triển các khu công nghiệp nhằm tránh và
không để xuất hiện các nguồn gây ô nhiễm trong tương lai, tạo môi trường sanh,
xạch, đẹp để phát triển bền vững.
Vĩnh Phúc là một tỉnh gần Thủ đô Hà Nội, có những thuận lợi về giao thông
đường bộ, đường thủy và đường không do đó Vĩnh Phúc có nhiều nhà đầu tư lớn
đến từ nhiều quốc gia như: Toyota, Honda (Nhật Bản), Piaggio (Italia), Patron Vina,
Heasung Vina (Hàn Quốc)…
Cùng với những công trình, dự án mà doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Vĩnh
Phúc, thì hiện nay, để mở rộng hơn nữa về quy mô, một số khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh đã được được quy hoạch: Theo quy hoạch đến năm 2020, toàn tỉnh dự kiến có
19 khu công nghiệp với quy mô diện tích 5.540 ha. Đến nay, đã có 8 khu công nghiệp
đi vào hoạt động, trong đó có 6 khu công nghiệp (Khai Quang, Bình Xuyên, Bình
Xuyên 2, Bá Thiện, Bá Thiện 2, Kim Hoa) có hệ thống xử lý nước thải tập trung; 2 khu
công nghiệp đã hình thành nhưng chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung (Tam
Dương, Phúc Yên) do vừa giải phóng mặt bằng, vừa đầu tư hạ tầng khu công nghiệp.
Tính đến hết tháng 3 năm 2018, đã có 246 dự án đầu tư vào khu công nghiệp,
trong đó 200 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 3.211,3 triệu USD, 46 dự án DDI với
tổng vốn đăng ký 14.505,59 tỷ đồng, tạo việc làm cho 89.537 người lao động [20]
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc tìm hiểu về thực trạng pháp luật về
bảo vệ môi trường nói chung, pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp nói
riêng là vấn đề cấp thiết
Tác giả là người đang công tác trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, vì vậy tác giả đã lựa
chọn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về bảo vệ môi trường khu công nghiệp từ thực tiễn

2



tỉnh Vĩnh Phúc” làm luận văn Cao học Luật với mong muốn góp phần hoàn thiện các
quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, đảm bảo cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
gắn với môi trường, phát triển bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Các nghiên cứu về bảo vệ môi trường không phải là vấn đề mới trong khoa
học pháp lý ở Việt Nam, đặc biệt kể từ khi Luật môi trường 2005 và Luật môi
trường năm 2014 được ban hành và có hiệu lực. Có thể kể đến một số công trình
khoa học sau:
Luận văn Thạc sỹ Khoa học (năm 2012) của Đảo Duy Hưng “Nghiên cứu,
đánh giá ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa tại thành phố Vĩnh
Yên đến môi trường sông Phan và đề xuất các giải pháp quản lý”, đã đánh giá được
sự ảnh hưởng đến môi trường Sông Phan từ quá trình phát triển đô thị hóa- công
nghiệp hóa ở thành phố Vĩnh Yên- tỉnh Vĩnh Phúc, đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế
xã hội nhờ quá trình phát triển đô thị, công nghiệp hóa mang lại; đồng thời luận văn
cũng chỉ ra những bất cập, hạn chế, ảnh hưởng đến môi trường do phát triển công
nghiệp và đô thị hóa, từ đó đề xuất một số giải pháp.
Luận văn Thạc sỹ (năm 2016) của Nguyễn Thị Hồng Linh về “ Quản lý Nhà
nước bằng bảo vệ pháp luật về bảo vệ môi trường- Từ thực tiễn tỉnh Hải Dương”,
tác giả luận văn phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật môi
trường nói chung, đồng thời đưa ra một số giải pháp để bảo vệ môi trường nói
chung từ thực tiễn ở một tỉnh.
Luận văn Thạc sỹ của Phùng Trung Thắng (năm 2014) về “ Tội gây ô nhiễm
môi trường trong Luật hình sự ở Việt Nam”, đã đề cập, phân tích được vấn đề ô
nhiễm môi trường đang là vấn đề toàn cầu. Tuy nhiên, tác giả tiếp cận và phân tích
ở góc độ pháp luật hình sự. Tác giả cũng đưa ra các giải pháp, kiến nghị về hoàn
thiện về pháp luật có liên đến bảo vệ môi trường.
Luận văn Thạc sỹ Luật học của Đinh Phượng Quỳnh (năm 2016) về “ Pháp
luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”, tác giả luận văn


3


tổng hợp, đánh giá một cách khái quát về hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ
môi trường mà không đi sâu phân tích một lĩnh vực cụ thể; luận văn chỉ ra được hạn
chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ môi trường, từ đó đề xuất một số giải pháp để
hoàn thiện.
Luận văn Thạc sỹ khoa học (năm 2013) của Nguyễn Thị Hồng Anh “Đánh
giá hiện trạng xử lý nước thải của các khu công nghiệp tỉnh Thái Bình và đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả”, tác giải luận văn đi sâu phân tích các quy định của
pháp luật về nước thải KCN ở tỉnh Thái Bình; chỉ ra được những bất cập của hệ
thống pháp luật của Việt Nam quy định về nước thải; nêu những kết quả, chỉ ra hạn
chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất một số giải pháp.
Luận văn Thạc sỹ Luật học (năm 2009) của Nguyễn Thị Hoài Phương “
Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”,
luận văn nêu lên thực trạng pháp luật về môi trường ở Việt Nam, chỉ ra những điểm
còn chưa đồng bộ; hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường còn yếu; ý
thức pháp luật về bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân trong xã hội còn hạn chế,
đề xuất một số giải pháp.
Luận văn Thạc sỹ Luật học (năm 2016) của Hồ Anh Tuấn “ Pháp luật về
bảo vệ môi trường nước trong khu công nghiệp ở Việt Nam”, luận văn đi sâu phân
tích, nêu các quy định của pháp luật về nước trong KCN Việt Nam, phân tích thực
trạng hoạt động xả thải vào môi trường nước trong KCN; chỉ ra khó khăn, tồn tại và
bất cập, hạn chế trong thực thi pháp luật bảo vệ môi trường nước trong KCN; đề
xuất, kiến nghị một số giải pháp.
Ngoài ra trên các tạp chí chuyên ngành về pháp luật cũng có một số bài viết
tiêu biểu, như:
Bài viết Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường để phát triển bền vững
của tác giả Bùi Đức Hiển đăng trên Tạp chí Cộng sản (năm 2016);


4


Bài viết Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở
Việt Nam đăng trên Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 12 tháng 6
năm 2012 của tác giả Lê Kim Nguyệt,
Bài viết của Trần Thị Hương Trang (năm 2014) trên Tạp chí Trung tâm
nghiên cứu pháp luật và Chính sách phát triển bền vững về Tổng quan pháp luật về
bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam,
Bài viết “ Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường khu công
nghiệp” của PGS.TS Doãn Hồng Nhung Đại học Quốc gia Hà Nội và Ths Nguyễn
Thị Bình Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội- Tạp chí Tài nguyên và Môi
trường kỳ 1- tháng 9 năm 2015,
Bài viết “ Thực trạng và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống đánh
giá tác động môi trường trong quá trình xét duyệt dự án đầu tư” của TS. Mai Thế
Toản và Ths Hoàng Thanh Nguyệt, bài đăng trên tạp chí môi trường số tháng 6 năm
2016.
Có thể nhận thấy rằng vấn đề về về môi trường không phải là vấn đề mới
nhưng các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên được nghiên cứu chủ yếu là
vấn đề môi trường nói chung hoặc có công trình nghiên cứu về một lĩnh vực cụ thể
nhưng sự ảnh hưởng, lan tỏa của nó không sâu rộng đến đời sống kinh tế xã hội và
trực tiếp ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của địa phương.
Từ thực tế nghiên cứu về đề tài như vậy nên tác giả cho rằng vấn đề pháp
luật về bảo vệ môi trường khu công nghiệp cần được nghiên cứu gắn với một địa
phương nhất định. Đó cũng là cơ hội để tác giả có thể đóng góp cho khoa học pháp
lý những nghiên cứu mới, thiết thực với thực tiễn về môi trường đang đặt ra rất bức
thiết hiện nay không chỉ với một địa phương đang phát triển về công nghiệp mà còn
với khu vực lân cận và cả nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, giải quyết những vấn đề lý
luận và thực tiễn của pháp luật về bảo vệ môi trường khu công nghiệp và thực tiễn
5


thực hiện ở các khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Phúc; luận văn hướng đến mục đích
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về bảo vệ môi trường khu công nghiệp; phân tích, đánh giá cơ sở lý luận về pháp
luật bảo vệ môi trường nói chung, pháp luật BVMT KCN tại tỉnh Vĩnh Phúc nói
riêng; nghiên cứu, đánh giá thực hiện những quy định pháp luật về môi trường tại
các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc; đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật nói chung, pháp luật về BVMT KCN nói riêng.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, phân tích; đánh giá những vấn đề lý luận về pháp luật về bảo vệ
môi trường trong khu công nghiệp;
Thứ hai, đánh giá những tồn tại, bất cập của pháp luật về bảo vệ môi trường,
khu công nghiệp, thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật về môi trường
khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Phúc;
Thứ ba, đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về môi trường tại khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Là các quan điểm, luận điểm về bảo vệ môi trường
khu công nghiệp, pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp và các báo cáo, số
liệu, dữ liệu về thực tiễn thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong
khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo vệ
môi trường trong khu công nghiệp theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm
2014 và có so sánh với một số quy định tương ứng trong các văn bản pháp luật về
môi trường trước đó.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

6


và quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
phương pháp lịch sử; Phương pháp thống kê, thu thập kế thừa các nghiên cứu, các
tài liệu đã có… để giải quyết vấn đề đặt ra của đề tài. Trong đó, chương 1 sử dụng
chủ yếu phương pháp phân tích, tổng hợp; chương 2 sử dụng phương pháp phân
tích, thống kê, so sánh; chương 3 sử dụng phương pháp quy nạp, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Dự kiến kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ có những đóng góp sau:
- Làm rõ nội dung pháp luật về bảo vệ môi trường khu công nghiệp trong sự
so sánh đối chiếu với pháp luật một số quốc gia khác;
- Phân tích, đánh giá được thực trạng thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường
trong khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Phúc những thành công, những khó khăn và
góp phần quan trọng trong việc thu hút đầu tư tại Vĩnh Phúc;
- Đề xuất được các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ
môi trường tại tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về bảo vệ môi trường khu công nghiệp và pháp luật bảo
vệ môi trường khu công nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp và thực
tiễn thực hiện tại tỉnh Vĩnh Phúc.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Phúc.

7


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHU CÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái quát về khu công nghiệp và bảo vệ môi trường khu công nghiệp.
1.1.1. Khái quát về khu công nghiệp
Trên thế giới loại hình khu công nghiệp đã có một quá trình lịch sử phát triển
lâu dài, bắt đầu từ những nước có nền công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ, Pháp,
Đức... Tùy điều kiện từng nước mà khu công nghiệp có những nội dung hoạt động
kinh tế khác nhau và có những tên gọi khác nhau nhưng chúng đều mang tính chất
và đặc trưng của khu công nghiệp. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển
khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai khái niệm khác nhau về khu công
nghiệp.
Khái niệm 1: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng lớn, có ranh giới địa
lý xác định, trong đó chủ yếu là phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp và có
đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ đa dạng; có dân cư sinh sống trong khu. Ngoài
chức năng quản lý kinh tế, bộ máy quản lý các khu này còn có chức năng quản lý
hành chính, quản lý lãnh thổ. Khu công nghiệp theo quan điểm này về thực chất là
khu hành chính – kinh tế đặc biệt như các công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái
Lan và một số nước Tây Âu.
Khái niệm 2: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở
đó tập trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không
có dân cư sinh sống và được tổ chức hoạt động theo cơ chế ưu đãi cao hơn so với
các khu vực lãnh thổ khác. Theo quan điểm này, ở một số nước và vùng lãnh thổ
như Malaysia, Indonesia, ….đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui mô khác

nhau và đây cũng là loại hình khu công nghiệp nước ta đang áp dụng hiện nay.
Ở Việt Nam khái niệm về KCN đã được trình bày tại nhiều văn bản pháp
luật như Quy chế Khu công nghiệp ban hành theo Nghị định số 192-CP ngày 28

8


tháng 12 năm 1994 của Chính phủ; Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996; Quy chế
Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao ban hành theo Nghị định số
36/CP ngày 24 tháng 2 năm 1997 của Chính phủ, Luật đầu tư năm 2005.
Định nghĩa ban đầu về KCN được nêu trong Quy chế Khu công nghiệp ban
hành theo Nghị định số 192-CP ngày 28 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ thì KCN
được hiểu là KCN tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý
xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất
công nghiệp, không có dân cư sinh sống [14]
Nghị định của Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 quy
định về KCN, KCX và KKT thì khái niệm về khu công nghiệp được hiểu như sau:
“ Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập
theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính phủ” [15]
Theo quy định tại Điều 3, điểm 11 của Luật Đầu tư năm 2014 ( được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 26 tháng 11 năm 2014), quy định: “ Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới
địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp” [4].
Khu công nghiệp hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới,
mở cửa nền kinh tế được khởi xướng từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI
(năm 1986). Tiếp theo đó, Đại hội VII đã kịp thời đề ra những đường lối, chủ
trương đổi mới mạnh mẽ và toàn diện nền kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, được cụ thể hoá bằng Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã

hội 1991 - 2000. Hàng loạt các chương trình phát triển kinh tế – xã hội được triển
khai để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, trong đó có chính sách phát triển khu
công nghiệp theo quy định tại Nghị định 322/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày
18/10/1991 và Quy chế KCN được quy định tại Nghị định 192/CP của Chính phủ
ngày 28/12/1994.

9


Định hướng chiến lược về quy hoạch phát triển và phân bố KCN, KCX được
xác định cụ thể tại Nghị quyết Đại hội VIII (năm 1996): "Hình thành các khu công
nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận
lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp
nông thôn và ven đô thị. Ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công
nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố,
hạn chế việc xây dựng các khu công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư".
Mô hình khu công nghiệp hoạt động theo quy định tại Luật đầu tư năm
2014, Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015, Nghị định số
29/2008/NĐ-CP

ngày 14/3/2008,

Nghị định

số 164/2013/NĐ-CP ngày

12/11/2013, Nghị định số 114/2015/NĐ-CP ngày 9/11/2015 và pháp luật chuyên
ngành về đất đai, thương mại, lao động, xây dựng, thuế và một số pháp luật khác
có liên quan.
Khu công nghiệp có một số đặc điểm cơ bản sau:

- KCN là phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp hoạt động trong
KCN chịu sự điều chỉnh pháp luật của nước sở tại như luật đầu tư, luật lao động,
luật xây dựng, luật đất đai, quy chế khu công nghiệp...
- KCN là nơi tập trung nhiều nhà máy sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp
khác nhau, sử dụng lượng lớn nguyên liệu, nhiên liệu và thải ra chất thải rất lớn.
- KCN đòi hỏi phải có diện tích đất lớn, tập trung tại một địa điểm, địa hình
tương đối bằng phẳng, vị trí địa lý thuận lợi.
- KCN sử dụng lượng người lao động lớn.
- KCN là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp. Các nguồn lực
của nước sở tại, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung vào một khu địa lý
xác định, các nguồn lực này đóng góp vào phát triển cơ cấu, những ngành mà nước
sở tại ưu tiên, cho phép đầu tư. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính đơn giản, có ưu đãi
về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt tại đây thuận lợi cho việc sản xuất kinh

10


doanh hàng hóa hơn các khu vực khác. Mục tiêu của nước sở tại khi xây dựng khu
công nghiệp là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu tạo việc làm,
phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Quá trình hình thành và phát triển KCN đã góp phần rất quan trọng vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu hút đầu tư trong và ngoài nước để tăng
giá trị sản xuất công nghiệp, và xuất khẩu hàng hóa, đồng thời với việc đó còn góp
phần vào tăng hiệu quả sử dụng đất và tốc độ phát triển đô thị, tạo việc làm cho
người lao động. Đối với tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2016, tổng thu ngân sách trên địa bàn
tỉnh đạt trên 32,5 nghìn tỷ đồng; riêng thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đạt gần 26 nghìn tỷ đồng, chiếm 88,7% thu nội địa và bằng 78,36% tổng thu
ngân sách trên địa bàn. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành
công nghiệp – xây dựng và dịch vụ chiếm trên 90% [20]. Để đạt được kết quả quan
trọng như vậy, có phần đóng góp quan trọng từ lĩnh vực công nghiệp và các khu

công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Như vậy, có thể thấy rằng, đóng góp về
mặt kinh tế mà cụ thể là nguồn thu cho ngân sách của địa phương thì vai trò của khu
công nghiệp là rất lớn.
Tuy nhiên, ngoài việc đóng góp quan trọng như nêu trên, nhưng cũng chính
từ KCN còn nhiều điều cần phải quan tâm. Trong các KCN, tập trung các nhà máy,
phân xưởng, do đó trong quá trình vận hành và đi vào sản xuất, các chất khí thải,
khói bụi, tiếng ồn từ đó cũng sinh ra, gây ảnh hưởng ô nhiễm đến nguồn nước, ảnh
hưởng đến đời sống của ngay chính công nhân, những người làm việc trong KCN
và người dân khu vực xung quanh, thậm chí đến cả các vùng lân cận. Do vậy, vấn
đề đặt ra là giải quyết môi trường khu công nghiệp như thế nào để vừa đảm bảo
phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động thì đòi hỏi các cấp, các ngành,
các doanh nghiệp hoạt động trong KCN phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình,
thủ tục được pháp luật về bảo vệ môi trường quy định. KCN là nơi tập trung các
cơ sở, nhà máy sản xuất công nghiệp với nhiều loại hình, mặc dù Nhà nước, doanh
nghiệp đã quan tâm để không ngừng nâng cao về công nghệ, về bảo vệ môi trường
song vấn đề về ô nhiễm môi trường ( ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, không khí,

11


khói, bụi...) làm ảnh hưởng đến khu vực xung quanh, đặc biệt là khu vực có người
dân sinh sống. Các tác động về ô nhiễm môi trường không chỉ diễn ra trước mắt
mà còn diễn ra lâu dài, không chỉ tại vị trí nơi đặt KCN, nhà máy mà còn lan rộng
theo gió, nguồn nước đến các khu vực lân cận. Việc khắc phục hậu quả ô nhiễm
môi trường cũng rất khó khăn, phức tạp và tốn kém về kinh phí. Điều đáng chú ý
nhất là từ việc ô nhiễm môi trường ở các KCN gây ra sẽ ảnh hưởng đến an toàn
sức khỏe của người dân. Do vậy, đòi hỏi nhà nước phải có giải pháp đồng bộ về
mặt cơ chế, chính sách để vừa đảm bảo phát triển khu công nghiệp thu hút đầu tư
tạo nguồn lực cho ngân sách nhưng cùng với đó vấn đề môi trường phải được đảm
bảo để phát triển bền vững

1.1.2. Khái quát về bảo vệ môi trường khu công nghiệp
Môi trường là một khái niệm rộng và đa dạng, do đó tùy thuộc vào cách tiếp
cận, phạm vi nghiên cứu để xây dựng khái niệm môi trường sao cho phù hợp. Theo
cách hiểu thông thường, môi trường là “ Toàn bộ nói chung những điều kiện tự
nhiêm và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối
quan hệ với con người hay sinh vật” [28, tr.9]. Theo khái niệm trên, thì môi trường
bao hàm hai yếu tố là môi trường xã hội và môi trường tự nhiên. Môi trường xã hội
là tổng thể các quan hệ xã hội giữa con người với con người và được thống nhất
giữa con người để ban hành hệ thống quy tắc, luật, lệ, thông qua đó con người ứng
xử với nhau theo những cam kết được thể hiện dưới đạng văn bản hoặc quy ước, lệ,
tập quán. Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố về thiên nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học và tồn tại ngoài ý muốn của con người. Môi trường sử dụng trong lĩnh
vực khoa học pháp lý là khái niệm được hiểu như là mối liên hệ giữa con người và
tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yêu tố, hoàn cảnh và điều
kiện tự nhiên bao quanh con người [28, tr.9-10].
Theo quy định tại khoản 1, Điều 3, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 ( được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua tại kỳ họp
thứ 7 ngày 23/6/2014: “ Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân

12


tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật” [2]. Cùng
với khái niệm môi trường, cũng tại Điều 3 đạo luật này có giải thích thuật ngữ hoạt
động bảo vệ môi trường như sau: bảo vệ môi trường hoạt động giữ cho môi trường
trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa hạn chế tác động xấu đối với môi trường; ứng phó
sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường,
khai thác sử dụng hợp lý tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
Từ định nghĩa hoạt động bảo vệ môi trường nêu trên thì bảo vệ môi trường
khu công nghiệp được hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường KCN trong

lành, sạch đẹp; phòng ngừa hạn chế những tác động xấu đối với môi trường KCN;
ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm suy thoái, phục hồi và cải thiện môi
trường KCN, bảo vệ cảnh quan môi trường KCN và bảo vệ đa dạng sinh học.
Theo đó, bảo vệ môi trường KCN thực chất là những hoạt động của cơ quan
Nhà nước, các tổ chức và cá nhân tiến hành nhằm mục đích cơ bản sau:
Một là, giữ cho môi trường KCN được trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi
trường KCN, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục những hoạt động
gây hậu quả xấu do các tổ chức, cá nhân tác động đến môi trường KCN.
Hai là, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đối với môi trường KCN, ứng
phó với sự cố môi trường KCN. Để bảo vệ môi trường KCN nhất là trong xu thế
phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa, những sức ép môi
trường nói chung và môi trường KCN nói riêng thì vấn đề hết sức quan trọng là
phải phòng ngừa những tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp hóa đối với sức
khỏe người lao động trong các KCN, của người dân tại các khu vực xung quanh,
bảo vệ môi trường sống tốt cho tất cả cộng đồng
Ba là, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường KCN.
Quá trình tiến hành các hoạt động xản xuất công nghiệp đã thải ra một lượng lớn
các chất thải gây ô nhiêm nặng nề môi trường đất, nước, không khí. Vì vậy việc
khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường, hạn
chế các tác động tiêu cực đến môi trường từ các hoạt động của các KCN là yêu cầu

13


cấp thiết hiện nay của công tác bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường
KCN nói riêng.
1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp.
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ
môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Thực hiện Luật Bảo vệ môi

trường, Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công tác
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác
bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực.
Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày
càng có hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường. Nhận thức về bảo vệ môi trường
trong các cấp, các ngành và nhân dân đã được nâng lên; mức độ gia tăng ô nhiễm,
suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên
nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Những kết quả
đó đã tạo tiền đề tốt cho công tác bảo vệ môi trường trong thời gian tới.
Tuy nhiên, những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là do chưa có nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, chưa biến nhận
thức, trách nhiệm thành hành động cụ thể của từng cấp, từng ngành và từng người
cho việc bảo vệ môi trường; chưa bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với bảo
vệ môi trường, thường chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế mà ít quan tâm việc
bảo vệ môi trường; nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường của nhà nước, của các
doanh nghiệp và cộng đồng dân cư rất hạn chế; công tác quản lý nhà nước về môi
trường còn nhiều yếu kém, phân công, phân cấp trách nhiệm chưa rõ ràng; việc thi
hành pháp luật chưa nghiêm..” (Bộ Chính trị Khóa IX ban hành Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ). Vì vậy, cần nhìn nhận đúng vai trò của pháp
luật môi trường nói chung và pháp luật bảo vệ môi trường nói riêng.

14


Pháp luật về bảo vệ môi trường khu công nghiệp là hệ thống các quy phạm
pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể
trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một vài yếu tố của môi trường
trong khu công nghiệp và ngoài khu công nghiệp, trên cơ sở kết hợp phương pháp
điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống của con

người.
Như vậy, pháp luật bảo vệ môi trường KCN điều chỉnh những mối quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường KCN
Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường có thể được
phân loại theo các nhóm sau:
- Nhóm một: Phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động quản lý Nhà
nước về bảo vệ môi trường KCN. Có thể kể đến một số quan hệ như: quan hệ phát
sinh từ hoạt động quy hoạch xây dựng KCN, quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh
tra việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường KCN, các quan hệ phát sinh từ hoạt
động xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường KCN…
- Nhóm hai: Bao gồm các quan hệ phát sinh trong quá trình các chủ thể thực
hiện nghĩa vụ của mình trong quá trình hoạt động của mình có liên quan đến môi
trường KCN. Ví dụ: các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quản
lý chất thải của chủ cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trong KCN…
Thông qua sự định hướng cách xử sự cho các cơ quan quản lý Nhà nước và
các tổ chức, cá nhân khi tác động đến môi trường KCN đồng thời ràng buộc trách
nhiệm các chủ thể này bằng những chế tài cụ thể; pháp luật bảo vệ môi trường KCN
không những có tác dụng phòng ngừa mà còn phần nào hạn chế những tác động tiêu
cực đến môi trường KCN.
Tại các KCN, yêu cầu về bảo vệ môi trường thường đặt ra khắt khe hơn, đòi
hỏi tính tổ chức cao hơn so với các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ lẻ. Bởi lẽ, tại
các KCN, quy mô tác động tới môi trường thường rất lớn do có nhiều tác động cùng
lúc và cùng tập trung vào một khu vực nên nguy cơ ô nhiễm, suy thoái môi trường
15


do tác động quá sức chịu tải của môi trường là rất cao. Để ngăn ngừa tình trạng này,
pháp luật môi trường đã có nhiều quy định điều chỉnh về hoạt động tại các KCN,
bao gồm:
i/ Quy định về bảo vệ môi trường trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, xây dựng

khu công nghiệp
Sở dĩ phải có nội dung này bởi trong giai đoạn này thì đã có phát sinh những
vấn đề về môi trường. Để giải quyết các vấn đề đó thì các quy định của pháp luật
tập trung chủ yếu vào hai mảng chính đó là quy định những yêu cầu trong việc lập
quy hoạch xây dựng KCN và thiết kế hệ thống hạ tầng kỹ thuật KCN.
Quy hoạch được xem là công cụ có tính chiến lược trong phát triển, được coi
là một phương pháp để tính tới tương lai theo một hướng, mục tiêu đã vạch ra. Có
thể hiểu quy hoạch xây dựng KCN là xác lập các mục tiêu môi trường KCN mong
muốn, đề xuất và lựa chọn phương án, giải pháp để bảo vệ và cải thiện môi trường
KCN theo mục tiêu đó. Do vậy, việc quy định những yêu cầu bảo vệ môi trường
trong việc lập quy hoạch xây dựng KCN có ý nghĩa rất quan trọng
Hệ thống công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN là hệ thống xương sống
của KCN. Việc đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật KCN là đầu tư cho phát
triển và luôn phải đi trước. Do vậy việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN ngoài việc
đảm bảo tính hiệu quả về kinh tế, còn phải đảm bảo thỏa mãn các mục tiêu về bảo
vệ môi trường vì thế ngay trong thiết kệ hạ tầng kỹ thuật KCN, những quy định
pháp luật luôn phải lồng ghép yếu tố bảo vệ môi trường KCN. Cụ thể trong việc
thiết kế hệ thống hạ tầng kỹ thuật phải đảm bảo thuận tiện trong xây dựng, sửa
chữa, vận hành tiết kiệm sử dụng đất, phải được thiết kế đồng bộ; đồng thời đảm
bảo ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường, sự cố từ các loại chất thải phát sinh
trong khu vực cũng như việc quản lý chúng một cách có hiệu quả.
ii/ Quy định về bảo vệ môi trường trong giai đoạn triển khai thi công xây
dựng khu công nghiệp
Trong giai đoạn này bắt đầu có những tác động trực tiếp đến môi trường

16


KCN, tập trung chủ yếu ở hai chủ thể đó là tổ chức, cá nhân giải phóng mặt bằng và
chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN. Những quy định

trong giai đoạn này chủ yếu đề cập đến trách nhiệm của các chủ thể trên trong việc
thực hiện quản lý chất thải; nghĩa vụ của chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu
hạ tầng kỹ thuật KCN trong việc thực hiện quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM.
iii/ Quy định về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hoạt động của khu công
nghiệp
Đây là giai đoạn có tác động nhiều nhất đến môi trường KCN. Đòi hỏi phải
có những quy định chi tiết, rõ ràng giữa các chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ
của mình. Các quy định pháp trong giai đoạn này tập trung chủ yếu về trách nhiệm,
nghĩa vụ của chủ cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong KCN bởi chủ thể này có
số lượng nhiều, đồng thời cũng có những quyền lợi và tác động trực tiếp nhiều nhất
đến môi trường KCN. Trong quá trình hoạt động, các chủ cở sở sản xuất kinh doanh
dịch vụ trong KCN có phát sinh chất thải thì phải thực hiện nghĩa vụ quản lý chất
thải. Tùy từng ngành nghề sản suất, kinh doanh phát sinh loại chất thải nào thì phải
thực hiện nghĩa vụ quản lý chất thải đó (khí thải, nước thải, chất thải rắn thông
thường, chất thải nguy hại..). Bên cạnh đó, các chủ thể này còn phải thực hiện nghĩa
vụ quan trắc môi. Nghĩa vụ này có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là cơ sở để các cơ
quan Nhà nước nắm bắt được những thông tin về tình hình quản lý nước thải tại các
KCN, đồng thời giám sát việc thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể trên và khi phát
hiện ra sai phạm sẽ có biện pháp xử lý kịp thời. Một nghĩa vụ quan trọng khác
không thể không đề cập đó là ứng phó với sự cố môi trường. Việc quy định nghĩa
vụ này là hết sức cần thiết. Trong quá trình hoạt động, các chủ cơ sở sản xuất, kinh
doanh không thể biết trước được tình huống bất trắc nào có thể xảy ra. Do vậy, phải
luôn có những phương án phòng bị trước, để có thể kịp thời đối phó lại các tình
huống bất ngờ xảy ra hoặc có thể hạn chế mức thấp nhất những tác động tiêu cực
của nó đến môi trường KCN.
Ngoài ra, quy định về chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng xây dựng KCN

17



ngoài nghĩa vụ bảo đảm vận hành các công trình xử lý chất thải đã xây dựng ở giai
đoạn trước còn có trách nhiệm giám sát thực hiện quy định về quản lý chất thải của
các cơ sở sản xuất kinh doanh trong KCN
iv/ Quy định về trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường khu
công nghiệp:
Trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường được giao cho nhiều
chủ thể nhưng tập trung chủ yếu là các quy định về trách nhiệm của Ban quản lý
KCN và Sở Tài nguyên và Môi trường. Đây là hai chủ thể có liên quan mật thiết tới
KCN.
1.2.2. Những yếu tố tác động đến pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp
Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến pháp luật bảo vệ môi trường tại Khu
công nghiệp là:
- Tiềm lực, sức mạnh kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực và trình độ phát
triển của khoa học - công nghiệp:
+ Tiềm lực, sức mạnh kinh tế lớn là tiền đề vật chất để BVMT tại KCN. Bởi
vì, muốn BVMT tại KCN phải có vốn, có tài sản để thực hiện mua sắm trang thiết
bị, máy móc để xử lý chất thải, rác thải, nhất là rác thải rắn để BVMT. Có vốn, có
tài sản để thực hiện các biện pháp tư vấn, giám sát, kiểm tra thực trạng môi trường
và kiểm soát môi trường. Nếu không có tiềm lực, sức mạnh kinh tế, rất khó có điều
kiện, khả năng để BVMT tại KCN. Đây là điều kiện cần thiết để BVMT.
+ Chất lượng nguồn nhân lực và khả năng phát triển khoa học - công nghiệp
trong BVMT KCN cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến BVMT hiệu quả tại
KCN.
Nguồn nhân lực đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ mới tạo ra điều kiện để pháp luật BVMT KCN hiệu quả. Thực tế, nhân
lực BVMT tại KCN ở các nước đang phát triển, cũng như ở nhiều địa phương Việt
Nam là những nhân lực chắp vá, chuyển từ các bộ phận khác sang làm công tác

18



BVMT. Do đó, việc phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực BVMT KCN là một
yêu cầu, và là tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến phát triển bền vững KCN.
Đặc biệt, khi có nguồn nhân lực chất lượng, số lượng nhân lực được đáp ứng
sẽ đảm bảo cho ứng dụng, triển khai và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực BVMT
KCN hiệu quả và ngược lại. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ đẩy mạnh nghiên
cứu, ứng dụng và triển khai khoa học - công nghiệp vào BVMT.
- Ý thức pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
tại KCN
Ý thức pháp luật cũng là một yếu tố bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật
về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp. Bởi ý thức pháp luật là sự phản ánh
một cách tích cực và sáng tạo đời sống xã hội mà trực tiếp là đời sống pháp luật
không đồng nhất với pháp luật, đời sống pháp luật là tổng thể các hiện tượng
pháp luật như hệ thống các văn bản pháp luật, tình trạng pháp chế, văn hoá pháp
lý, hoạt động tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật, thái độ của người dân đối
với pháp luật, các tài liệu, sách báo về pháp luật...
Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy ở nơi nào, ý thức pháp luật của
chủ thể pháp luật cao thì hiệu quả thực hiện pháp luật nói chung rất cao và ngược
lại ở những địa phương trong những thời kỳ mà ý thức pháp luật của những cá
nhân, tổ chức chưa được nâng cao thì hiệu quả thực hiện pháp luật rất thấp. Việc
thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp cũng như vậy,
khi ý thức pháp luật của các doanh nghiệp về pháp luật bảo vệ môi trường chưa
đầy đủ thì hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra nhiều hơn
với mức độ nghiêm trọng hơn. Do vậy, dù pháp luật về bảo vệ môi trường được
xây dựng hoàn chỉnh và đầy đủ đến đâu đi chăng nữa cũng sẽ không được thực
hiện nghiêm chỉnh nếu ý thức của các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước không
đầy đủ. Đối với các doanh nghiệp ý thức pháp luật của họ được thể hiện ở chỗ họ
nhận thức được đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Họ có quyền tác động, được
sử dụng một hoặc nhiều thành phần môi trường. Ví dụ: sử dụng nước để xây


19


dựng nhà xưởng, nước để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất… đồng thời họ phải
thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường, không được thực hiện những hành vi bị
pháp luật cấm như: không được thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi
trường, các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước,
thải khói, bụi khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí, phán tán bức xạ,
phóng xạ, các chất ion hoá vượt quá tiêu chuẩn môi trường cho phép…
Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý, thanh tra, kiểm tra,
điều tra và xử lý trong lĩnh vực môi trường cũng được pháp luật quy định những
quyền và nghĩa vụ cụ thể.
Đối với việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp
thì việc các doanh nghiệp nắm được các thông tin, hiểu biết về các quy định pháp
luật về bảo vệ môi trường để có được thái độ đúng đắn trong việc khai thác, sử dụng
các thành phần môi trường là yếu tố đảm bảo quan trọng cho việc thực hiện pháp
luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp có hiệu quả.
- Nguồn vốn đầu tư cho BVMT tại KCN
Để thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về môi trường tại KCN đòi hỏi
nguồn kinh phí không nhỏ như là kinh phí để nâng cao năng lực thể chế về môi
trường, kinh phí để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, kinh
phí để thực hiện công tác giáo dục, truyền thông về môi trường tại KCN. Nếu không
có đủ kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ này thì không thể có đủ các điều kiện để
thực thi công tác BVMT tại KCN.
1.2.3. Vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường khu công nghiệp
Trong bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường khu công nghiệp
nói riêng vai trò của pháp luật không thể phủ nhận, điều này được thể hiện cụ thể
như sau:
Một là: Pháp luật bảo vệ môi trường KCN là công cụ hữu hiệu để thực hiện
phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, góp phần đảm bảo


20


quyền được sống trong môi trường trong lành của con người
Quyền được đảm bảo về chất lượng môi trường sống là một trong những
quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên thực trạng ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng
tại nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đang là một thách thức không
nhỏ cho việc đảm bảo quyền cơ bản này của con người.
Trong xã hội hiện đại trước sức ép của sự phát triển kinh tế, khi nguy cơ ô
nhiễm môi trường do ảnh hưởng của các loại chất thải ngày càng gia tăng, đặc biệt
là chất thải từ các KCN việc đảm bảo chất lượng môi trường sống cho con người lại
càng trở nên quan trọng nhưng khó khăn hơn bao giờ hết. Pháp luật môi trường,
trong đó có pháp luật bảo vệ môi trường KCN với tư cách là công cụ quản lý giữ
vai trò quan trọng trong quá trình này. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường KCN là công cụ phòng ngừa ô nhiễm
môi trường KCN. Vai trò này được thể hiện thông qua những yêu cầu đối về bảo vệ
môi trường KCN như: tất cả các KCN đều phải có hệ thống xử lý nước thải KCN,
có trạm thu gom, xử lý chất thải rắn, lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường…; ngoài
ra để không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường bên ngoài KCN còn có quy định:
Đối với các KCN có thể phát sinh nhiều nguồn khí thải và tiếng ồn thì phải được bố
trí ở cuối hướng gió chủ đạo và được cách ly với khu đô thị cũng như các khu chức
năng yên tĩnh khác bằng các dải cây xanh có chiều rộng theo quy định.
Thứ hai, pháp luật bảo vệ môi trường KCN quy định những quy tắc xử sự mà
các chủ thể phải thực hiện khi tiến hành những hoạt động có liên quan đến môi
trường KCN với các chế tài cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện. Khi tiến hành các
hoạt động khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay các hoạt động có
sản sinh chất thải, các chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật KCN, các chủ cơ
sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong KCN phải thực hiện theo định hướng xử sự

trong các quy phạm pháp luật để phòng ngừa ô nhiễm, sự cố môi trường cũng như
các biện pháp khắc phục, ứng phó với những tình trạng xấu đó, đảm bảo an toàn cho

21


sức khỏe con người. Chẳng hạn như các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong KCN có
hoạt động làm phát sinh chất thải nguy hại hoặc bên tiếp nhận quản lý chất thải
nguy hại có nghĩa vụ đăng ký với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp
tỉnh để được cấp sổ đăng ký chủ nguồn thải nguy hại;
Bên cạnh đó, pháp luật bảo vệ môi trường KCN còn quy định các chế tài
hình sự, dân sự, hành chính buộc các chủ thể phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của
pháp luật trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường tại các KCN. Bằng các chế tài này
pháp luật đã tác động tới các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, không chỉ để trừng
phạt mà còn ngăn chặn các hành vi không thực hiện phòng ngừa, khắc phục ô
nhiễm môi trường, sự cố môi trường khi tiến hành các hoạt động tác động đến môi
trường KCN.
Thứ ba, pháp luật bảo vệ môi trường KCN quy định cụ thể về thiết chế thực
thi quản lý môi trường KCN bằng pháp luật, phân định rõ chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan quan lý Nhà nước trong bảo vệ môi trường KCN. Thông qua việc quy
định về chức năng quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước, pháp luật đã đảm bảo
việc phòng ngừa ô nhiễm môi trường từ các hoạt động của các chủ thể được thực
hiện một cách có định hướng, có tổ chức và triệt để.
Hai là: Pháp luật bảo vệ môi trường KCN góp phần thúc đẩy nghiên cứu và
ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất kinh doanh, bảo vệ sức khỏe
người lao động.
Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ chất thải KCN, kỹ thuật công nghệ là
yếu tố quan trọng. Thông qua việc ứng dụng các quy trình công nghệ tiên tiến, quy
trình công nghệ sạch, quy trình công nghệ ít chất thải con người có thể loại bỏ được
chất gây ô nhiễm, nguyên nhân cơ bản nhất gây ô nhiễm môi trường. Vai trò này

của pháp luật bảo vệ môi trường KCN thể hiện rõ nét qua việc:
Thứ nhất, pháp luật khuyến khích các chủ nguồn thải nghiên cứu, ứng dụng
kỹ thuật tiên tiến để giảm thiểu chất thải. Chẳng hạn như quy định buộc mọi chủ thể
có sản sinh chất thải nguy hại phải áp dụng các biện pháp để giảm thiểu chúng một

22


cách tối đa. Để thực hiện được điều này, các chủ nguồn thải phải tiến hành nghiên
cứu và ứng dụng các quy trình công nghệ sản xuất cung như quy trình xử lý chất
thải phù hợp.
Thứ hai, pháp luật tạo những điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong việc
nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến, sản xuất sạch để giảm thiểu chất
thải và thân thiện với môi trường hơn. Điều này được cụ thể hóa thông qua các
chính sách ưu đãi về thuế, về đất đai, về vốn…
Ba là: Pháp luật bảo vệ môi trường KCN gắn kết các lợi ích kinh tế của các
doanh nghiệp trong KCN với lợi ích của xã hội, lợi ích của môi trường.
Lợi ích kinh tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của các chủ cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ. Trong thực tế, khi tiến hành các hoạt động sản xuất, các doanh
nghiệp thường chỉ hướng tới đảm bảo lợi ích của mình mà bỏ qua hoặc xem nhẹ các
lợi ích chung của toàn xã hội. Mặt khác, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, các doanh
nghiệp khi phải thực hiện một nhĩa vụ nào đó, thường không thấy được lợi ích của
mình trong đấy. Khi phải thực hiện nghĩa vụ đối với môi trường, họ chỉ nhìn thấy lợi
ích kinh tế của mình bị ảnh hưởng và chỉ nghĩ rằng mình phải bỏ tiền để phục vụ cho
lợi ích xã hội chính vì thế mà các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật môi trường
thường không tự giác thực hiện hành vi của mình đối với môi trường theo định hướng
mà các quy phạm pháp luật đã quy định. Chẳng hạn khi phải thực hiện nghĩa vụ Đánh
giá tác động môi trường (ĐTM), các chủ dự án thường không thấy trước được lợi ích
của mình trong đó. Thông qua việc thực hiện ĐTM, các chủ dự án có thể giảm được
một khoản tiền bồi thường thiệt hại rất lớn mà sau này họ có thể phải trả vì đã không

tính trước đến các tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của mình mang lại.
Cũng vì không ý thức được nên các chủ thể luôn tìm cách lẩn tránh các nghĩa vụ pháp
lý đối với môi trường. Rõ ràng trong trường hợp này các lợi ích xã hội, và lợi ích môi
trường đã bị xâm phạm và vì thế cần sự can thiệp thích hợp của Nhà nước để điều
hòa các xung đột về lợi ích. Pháp luật bảo vệ môi trường KCN là công cụ quan trọng
để thực hiện sự can thiệp đó.

23


Thông qua các quy định pháp luật cụ thể, pháp luật môi trường KCN gắn kết
lợi ích của các doanh nghiệp trong KCN với lợi ích chung của xã hội và của cộng
đồng trong việc cùng sử dụng chung giá trị môi trường. Cân nhắc những lợi ích kinh
tế-xã hội mà các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có thể đem lại
với những tổn hại cho môi trường mà hoạt động đó có thể gây ra. Chế định đánh giá
tác động môi trường là một trong những chế định điển hình thể hiện rõ điều này. Việc
không cho thực hiện các dự án đầu tư nếu chưa báo cáo và xây dựng được các giải
pháp khả thi để bảo vệ môi trường cho thấy, pháp luật không chấp nhận quan điểm
phát triển bằng mọi giá bao gồm cả việc hy sinh những giá trị môi trường.

24


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng lớn, có ranh giới địa lý xác định,
trong đó chủ yếu là phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp và có đan xen với
nhiều hoạt động dịch vụ đa dạng; có dân cư sinh sống trong khu. Ngoài chức năng
quản lý kinh tế, bộ máy quản lý các khu này còn có chức năng quản lý hành chính,
quản lý lãnh thổ. Bảo vệ môi trường KCN được hiểu là những hoạt động giữ cho
môi trường KCN trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa hạn chế những tác động xấu đối

với môi trường KCN; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm suy thoái, phục
hồi và cải thiện môi trường KCN, bảo vệ cảnh quan môi trường KCN và bảo vệ đa
dạng sinh học.
Pháp luật về bảo vệ môi trường KCN là hệ thống các quy phạm pháp luật,
các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá
trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một vài yếu tố của môi trường trong
KCN và ngoài KCN, trên cơ sở kết hợp phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm
bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống của con người. Pháp luật bảo vệ môi
trường KCN quy định cụ thể về thiết chế thực thi quản lý môi trường KCN bằng
pháp luật, phân định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quan lý Nhà nước
trong bảo vệ môi trường KCN. Thông qua việc quy định về chức năng quản lý của
cơ quan quản lý Nhà nước, pháp luật đã đảm bảo việc phòng ngừa ô nhiễm môi
trường từ các hoạt động của các chủ thể được thực hiện một cách có định hướng, có
tổ chức và triệt để.

25


×