Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

đề tài nghiên cứu khoa họccấp cơ sở Đề tài truyền máu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.07 KB, 59 trang )

SỞ Y TẾ ĐIỆN BIÊN
BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH
--------***--------

ĐỀ CƯƠNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG MÁU
VÀ CHẾ PHẨM MÁU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2019

ĐIỆN BIÊN - 2020


SỞ Y TẾ ĐIỆN BIÊN
BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH
--------***--------

ĐỀ CƯƠNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG MÁU
VÀ CHẾ PHẨM MÁU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2019

Chủ nhiệm: Bs. Nguyễn Văn Tùng
Đồng chủ nhiệm: CN. Đặng Thị Hồng Ngọc
Cộng sự: CN. Trần Huy Nam

ĐIỆN BIÊN - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi tham gia thực hiện tại
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện Biên. Các số liệu thông tin trong nghiên cứu do tôi
thu thập và hoàn toàn chính xác, trung thực và khách quan.
Kết quả nghiên cứu này chưa được đăng tải trên bất kỳ một tạp chí hay
công trình khoa học nào.
Điện Biên, ngày tháng 12 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Văn Tùng


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATTM

An toàn truyền máu

HST

Huyết sắc tố

HTTĐL

Huyết tương tươi đông lạnh

KHC

Khối hồng cầu


KN

Kháng nguyên

KT

Kháng thể

KTC

Khối tiểu cầu máy

MTP

Máu toàn phần

SLTC

Số lượng tiểu cầu

TC

Tiểu cầu


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc sử dụng máu và các chế phẩm máu trong lâm sàng đã cứu sống được
nhiều người bệnh, không chỉ trong các chuyên ngành ngoại khoa mà còn hỗ trợ
rất lớn trong điều trị nội khoa như: hỗ trợ trong hóa trị liệu đối với bệnh nhân
ung thư, trong thận nhân tạo, các bệnh lý máu lành tính, ác tính...
Trong những năm qua, tại Việt Nam công tác truyền máu tại bệnh viện từng
bước được quan tâm và đạt được nhiều hiệu quả nhất định, đặc biệt sau hơn 10
năm thực hiện Chương trình An toàn Truyền máu do Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt (2001) và mới đây nhất là Thông tư số 26/2013/TT-BYT đã được Bộ Y tế
ban hành ngày 16/9/2013 hướng dẫn về hoạt động Truyền máu[1], đã tạo điều
kiện cho ngành truyền máu ở Việt Nam phát triển ngày càng bền vững. Hiện
nay, chuyên ngành Huyết học - Truyền máu chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá
nhu cầu sử dụng các chế phẩm máu và điều tra về các tai biến truyền máu tại
bệnh viện.
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện Biên là bệnh viện tuyến cuối của tỉnh với quy
mô 600 giường bệnh, hàng năm điều trị gần 30.000 lượt bệnh nhân là cán bộ,
bảo hiểm y tế và bệnh nhân tự nguyện trên địa bàn. Bệnh viện có nhiều chuyên
ngành phát triển và đã thực hiện được nhiều kỹ thuật khó. Như vậy, nhu cầu sử
dụng máu và các chế phẩm máu cho cấp cứu, điều trị là khá lớn. Tháng 09/2012,
Trung tâm Huyết học - Truyền máu Bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện Biên được
thành lập, từ đó công tác truyền máu ở Bệnh viện đã có những thay đổi đáng kể.
Nguồn người hiến máu chủ yếu là cán bộ, chiến sĩ, học sinh, sinh viên trong toàn
tỉnh. Trung tâm Huyết học - Truyền máu đã chủ động được nguồn máu an toàn,
chất lượng cao phục vụ cho cấp cứu, điều trị người bệnh, việc sản xuất các chế


phẩm máu có bước phát triển, công tác truyền máu lâm sàng từng bước được

củng cố và đạt hiệu quả cao.
Nghiên cứu tình hình sử dụng máu, chế phẩm máu và các phản ứng truyền
máu ở bệnh viện có nhiều chuyên khoa sẽ góp phần mô tả bức tranh về thực
trạng sử dụng máu. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
tình hình sử dụng máu và chế phẩm máu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện
Biên trong năm 2020” với mục tiêu sau:
1. “Đánh giá tình hình sử dụng máu và chế phẩm máu tại Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Điện Biên năm 2019.”


Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Sơ lược về truyền máu trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Trên thế giới
Năm 1901, Karl Landsteiner phát hiện 3 nhóm máu A, B, O. Sau đó hai học
trò của ông là Decastello và Sturli đã phát hiện thêm nhóm máu AB. Nhờ có sự
phát hiện ra hệ nhóm máu ABO mà các trường hợp truyền máu thất bại trước
đây đã được làm sáng tỏ là do bất đồng hệ nhóm máu này. Sự phát minh nhóm
máu hệ ABO đã mở ra một kỷ nguyên mới cho truyền máu[2], [45].
Năm 1907, Reuben Ottenberg đã truyền máu thành công khi đồng thời thực
hiện định nhóm máu hệ ABO và phản ứng hòa hợp giữa máu người cho và người
nhận trước truyền máu. Năm 1913, Reuben Ottenberg đưa ra sơ đồ truyền máu
mang tên ông. Việc xác định nhóm máu hệ ABO và phản ứng hòa hợp giữa máu
người cho và người nhận trước truyền máu đã giúp người bệnh được truyền máu an
toàn và hiệu quả hơn[3], [4], [46].
Năm 1939 - 1940, Karl Landsteiner, Alex Wiener, Philip Levine và R.E.
Stetson phát hiện ra hệ nhóm máu Rh và đã lý giải được những trường hợp
người bệnh xảy ra phản ứng truyền máu mặc dù đã có sự hòa hợp nhóm máu hệ
ABO giữa người cho với người nhận máu, đồng thời cũng giải thích được

nguyên nhân gây bệnh vàng da tan máu ở trẻ sơ sinh là do bất đồng nhóm máu
hệ Rh giữa mẹ và con. Hệ Rh là hệ nhóm máu có vai trò quan trọng thứ hai (chỉ
sau hệ ABO) trong thực hành truyền máu[5], [6], [47].
Sau đó nhiều nhóm máu hệ hồng cầu khác đã được phát hiện: Kell (1946),
Duffy (1950), Kidd (1951)...Theo Hội Truyền máu Quốc tế (ISBT- International
Society of Blood Transfusion), cho đến năm 2014 có 34 hệ nhóm máu hồng cầu
và 339 kháng nguyên nhóm máu khác nhau đã được công nhận[7], [8], [48],
[49].
Năm 1911,Richard Lewisonin (Bỉ)sử dụng chất chống đông Natri Citrate
trong truyền máu, nhờ sự phát hiện này mà việc truyền máu trực tiếp từ người


sang người đã được chấm dứt. Các chất chống đông, nuôi dưỡng và bảo quản
máu ngày càng được phát minh và cải tiến: Năm 1915, R.Weill đưa ra chất
chống đông Natri citrat và bảo quản máu trong điều kiện lạnh. Năm 1943,
JF.Loutit và Patrick L.Mollison phát triển thành dung dịch ACD (acide citrate
dextrose) giúp tiếp nhận một đơn vị máu có thể tích lớn hơn và máu bảo quản
được 21 ngày ở nhiệt độ 2-6oC.Năm1970, dung dịch CPD (citrate phosphat
dextrose) bảo quản máu kéo dài ngày hơn đã thay thế ACD. Năm 1979, dung
dịch chống đông CPD được bổ sung thêm Adenin, CPD-A1 (citrate phosphat
dextrose adenin) bảo quản máu được 42 ngày ở nhiệt độ 2-6 oC. Mục tiêu của các
nhà nghiên cứu là chất chống đông vừa có khả năng chống đông máu, vừa có tác
dụng nuôi dưỡng hồng cầu, tiểu cầu, giảm hao hụt năng lượng, các chức năng
của tế bào không thay đổi[7], [9], [10].
Thêm vào đó các dụng cụ chứa máu cũng không ngừng được nghiên cứu
đổi mới, từ chai thủy tinh cho tới túi dẻo để lấy máu lưu trữ và sản xuất các chế
phẩm máu: Năm 1950, Carl Walter và W.P.Murphy sử dụng kỹ thuật lấy máu kín
vào túi nhựa polyvinyl thay cho chai thủy tinh dễ hỏng, vỡ. Gibson (1952) đã
chứng minh túi dẻo plastic tốt hơn, dễ dàng vận chuyển và tách các thành phần
máu sau khi để lắng hoặc ly tâm, có thể bảo quản bằng đông lạnh[7], [50].

Thành công này đã thúc đẩy phát triển chyên ngành Huyết học - Truyền máu về
công tác thu nhận, bảo quản, sản xuất các chế phẩm máu, tăng cường sử dụng
truyền máu từng phần ở các bệnh viện, tăng hiệu quả và an toàn truyền máu[10],
[50].
Năm 1935, các nhà truyền máu đã thành lập Hội Truyền máu Quốc tế (ISBTInternational Society of Blood Transfusion) với mục đích đẩy mạnh các nghiên cứu về
truyền máu, cập nhật và phổ biến các nguyên tắc, quy định tốt nhất về khoa học truyền
máu cho các trung tâm truyền máu trên thế giới[9], [50].
Vào năm 1936, Bernard Fantus đã thành lập ngân hàng máu bệnh viện đầu
tiên được xây dựng ở Chicago- Mỹ và chính ông là người đưa ra thuật ngữ “Ngân
hàng máu”[50], [11]. Tới năm 1940, đại chiến thế giới thứ hai, do nhu cầu máu
cho chiến tranh, Mỹ đã thành công động viên được nhiều người cho máu và xây
dựng chương trình tiếp nhận máu qua Hội chữ thập đỏ. Từ đó nhiều bệnh viện đã tổ


chức tiếp nhận máu qua Hội chữ thập đỏ. Nhờ vậy lượng máu thu được ngày càng
lớn.
Năm 1947, Hiệp hội ngân hàng máu Mỹ (AABB - American Association of
Blood Banks) được thành lập, để thúc đẩy những mục tiêu chung của các ngân
hàng máu và cộng đồng người hiến máu[9], [51].
Năm 1953, AABB thành lập trung tâm máu quốc gia, làm tiền đề cho việc
tập trung hóa các ngân hàng máu và thực hiện trao đổi máu giữa các trung tâm
truyền máu[9], [52].
Năm 1947, Cohn đã tách thành công các thành phần huyết tương bằng
Ethanol lạnh (albumin, gamma globin, fibrinogen) để sử dụng cho điều trị bệnh.
Năm 1953, nhờ có túi dẻo chế phẩm tủa lạnh đã được phân lập để điều trị cho
người bệnh Hemophilia[9], [53].
Năm 1972, phương pháp gạn tách tự động cácthành phần máu (Apheresis) đã
được áp dụng lần đầu tiên trên thế giới[54].
Với các thành tựu về hệ thống nhóm máu, kháng nguyên hồng cầu; kháng
nguyên bạch cầu; các chất chống đông máu bảo quản máu; sản xuất các chế phẩm

máu và tập trung các ngân hàng máu, bên cạnh đó là sự phát triển của lĩnh vực vi
sinh sàng lọc các bệnh nhiễm trùng truyền qua đường máu như viêm gan B, viêm
gan C, HIV…từ đó chuyên ngành Huyết học - Truyền máu ngày càng phát triển
mạnh mẽ, an toàn và hiệu quả hơn.
1.1.2. Ở Việt Nam
Trước năm 1954, công tác truyền máu do quân đội Pháp tổ chức đầu tiên
tại Bệnh viện 108, sau đó là một số bệnh viện ở Sài Gòn. Từ năm 1954-1974,
công tác truyềnmáu ở Việt Nam chủ yếu phục vụ cho quân đội. Truyền máu dân
sự chỉ thực hiện ở vài bệnh viện lớn như Bệnh viện 108, Bạch Mai, Việt Đức và
ở Sài gòn[7], [9].
Từ năm 1975-1992, hoạt động truyền máu và huyết học ở nước ta đã bắt
đầu được triển khai ở một số bệnh viện. Các bệnh viện trung ương và bệnh viện
tỉnh/thành phố có bộ phận Huyết học - Truyền máu làm nhiệm vụ: xét nghiệm


huyết học, khám tuyển chọn người hiến máu, tiếp nhận, sàng lọc máu, phát máu
cho các khoa lâm sàng điều trị cho người bệnh. Các cơ sở điều trị chủ yếu tự
cung tự cấp máu: Nguồn máu từ người bán máu chuyên nghiệp chiếm trên 95%;
phương tiện tiếp nhận máu bằng chai thủy tinh, lấy máu theo chu trình hở, thiếu
các trang thiết bị bảo quản, lưu trữ máu. Việc xét nghiệm các bệnh lây truyền
qua đường máu đã sàng lọc được một số bệnh: sốt rét, giang mai, viêm gan B.
Công tác phát máu chủ yếu thưc hiện định nhóm máu hệ ABO và phản ứng chéo
ở điều kiện 22oCtrước truyền máu, chủ yếu sử dụng máu toàn phần truyền cho
người bệnh[7], [9].
Từ năm 1993-2000,hoạt động truyền máu Việt Nam đã phát triển toàn diện
theo hướng tập trung, hiện đại và từng bước hội nhập với sự phát triển của
ngành truyền máu ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngày 24/1/1994,
tại Viện Huyết học - Truyền máu TW đã phát động phong trào vận động hiến
máu nhân đạo.Cho tới nay phong trào đang phát triển mạnh, ổn định và bền
vững. Các hoạt động đổi mới trang thiết bị tiếp nhận máu và bảo quản máu đã

được triển khai: thay chai thủy tinh bằng túi dẻo để tiếp nhận máu (năm 1995);
nhiều bệnh viện đã được trang bị hệ thống dây chuyền lạnh bảo quản, vận
chuyển máu và huyết tương theo chương trình viện trợ của Chính phủ
Luxembourg (năm 1996). Công tác xét nghiệm sàng lọc các bệnh nhiễm trùng
cho đơn vị máu trước truyền máu đã được các cơ sở thực hiện 5 bệnh (HIV,
HBV, HCV, sốt rét, giang mai) theo yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới, trong 5
năm (1993-1997)trên toàn quốc 100% đơn vị máu đã được sàng lọc đủ 5 bệnh
nhiễm trùng, hạn chế tối đa các các bệnh lây truyền qua đường máu[7], [12].
Tháng 12/2001, “Chương trình An toàn Truyền máu Quốc gia giai đoạn 20012010” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Năm 2007, Bộ Y tế ban hành
“Quy chế truyền máu” thay thế cho “Điều lệnh truyền máu”, làm cơ sở cho tất cả
các hoạt động chuyên môn của dịch vụ truyền máu trên cả nước[10].
Hiện nay phong trào hiến máu nhân đạo ở Việt Nam đang phát triển mạnh người hiến máu tình nguyện chiếm trên 90% tổng số người hiến máu. Tại Viện
Huyết học - Truyền máuTW, tỷ lệ đơn vị máu tiếp nhận từ người hiến máu tình
nguyện năm 2009 là 90,3% và tăng dần đến năm 2013 đạt 97,7% (175.095 đơn
vị máu).Tổng số lượng máu tiếp nhận từ người hiến máu tình nguyện đã tăng lên


liên tục: năm 2013 là 179.161 đơn vị (gấp 1,9 lần so với năm 2009). Tại Trung
tâm Truyền máu Chợ Rẫy tỷ lệ người hiến máu tình nguyện năm 2009 là 93,8%
và tăng dần đến năm 2011 đạt 99,8% (76.118 đơn vị)[9], [13], [14].
Trong cả nước, các trang thiết bị thu nhận, bảo quản máu cũng ngày càng
đươc đổi mới, hiện đại. Đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên ngành Huyết học Truyền máu cũng đã được bổ sung nhiều và được đào tạo chuyên sâu ở trong
nước và nước ngoài [9]. Công tác sản xuất và chuẩn hoá các chế phẩm máu bao
gồm: khối hồng cầu nghèo bạch cầu, khối tiểu cầu pool, khối tiểu cầu được tách
từ một cá thể trên hệ thống máy tự động, huyết tương tươi, huyết tương tươi đông
lạnh, tủa lạnh và khối bạch cầu hạt trung tính.
Tháng 9/2013, Bộ Y tế đã ban hành thông tư 26/2013/TT-BYT (thay thế
“Quy chế truyền máu” năm 2007), thông tư này hướng dẫn hoạt động truyền
máu và đã có sửa đổi, bổ sung một số quy định, kỹ thuật xét nghiệm hiện đại
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ truyền máu của Việt Nam [1].

Công tác truyền máu của các bệnh viện nói chung và tại Đa khoa Tỉnh Điện
Biên nói riêng đã được triển khai từ rất lâu, và đã phát huy hiệu quả rõ rệt, phục
vụ tốt cho công tác điều trị, đã kịp thời cứu sống được nhiều bệnh nhân và góp
phần vào thành công của việc áp dụng các phương pháp điều trị hiện đại: Phẫu
thuật ghép tạng, cấp cứu, ngộ độc... Ngày 09/2012, trung tâm Huyết học Truyền máu thuộc bệnh viện Đa khoa Tỉnh Điện Biên được thành lập, từ đó
công tác truyền máu ở Bệnh viện đã có những thay đổi đáng kể. Nguồn người
hiến máu chủ yếu là cán bộ, nhân dân, sinh viên trong địa bàn tỉnh - những
người có sức khỏe tốt, đã được tuyển chọn. Vì vậy Trung tâm Huyết học Truyền máu đã chủ động được nguồn máu an toàn, chất lượng cao cho cấp cứu,
điều trị người bệnh. Việc sản xuất các chế phẩm máu có bước phát triển, công
tác truyền máu lâm sàng từng bước được củng cố và đạt hiệu quả cao. Đặc biệt,
Đa khoa Tỉnh Điện Biên nằm ở phía tây tổ quốc, đường xá hiểm trở, chủ yếu tự
cung tự cấp nguồn máu, có nhiều trường hợp cấp cứu cần phải truyền máu cấp
cứu và truyền máu số lượng lớn thì việc nghiên cứu tình hình sử dụng máu, chế


phẩm máu và tai biến truyền máu để đưa ra các biện pháp củng cố và nâng cao
hiệu quả của công tác truyền máu là việc làm cấp bách và vô cùng quan trọng.
1.2. An toàn truyền máu
1.2.1. Nhóm máu hệ hồng cầu
Hệ nhóm máu ABO:
Kháng nguyên hệ ABO
Năm 1901, Karl Landsteiner đã phát hiện ra hệ nhóm máu ABO và đây là
hệ nhóm máu quan trọng nhất trong truyền máu,có 4 nhóm máu chính là A, B,
AB, O. Tên nhóm máu là tên của kháng nguyên có mặt trên hồng cầu (2 kháng
nguyên chính là A và B). Hệ nhóm máu ABO có đặc điểm là trên hồng cầu
không có kháng nguyên nào thì trong huyết thanh có kháng thể tự nhiên chống
lại kháng nguyên đó.Sự có mặt kháng thể (kháng thể chống A, kháng thể chống
B) là tự nhiên, hằng định, không cần một sự miễn dịch cụ thể nào[8], [15], [55].
Để truyền máu được an toàn thì nhất thiết phải đảm bảo hòa hợp hệ nhóm
máu ABO. Đảm bảo hòa hợp miễn dịch trong truyền máu là không để phản ứng

kháng nguyên - kháng thể xảy ra trong cơ thể người nhận máu. Nguyên tắc là
không đưa kháng nguyên vào cơ thể đã có kháng thể tương ứng, không đưa
kháng thể vào cơ thể có kháng nguyên tương ứng[55], [16].
Bảng 1.1. Đặc điểm các nhóm máu hệ ABO
Nhóm máu
A
B
AB
O

Kháng nguyên
trên hồng cầu
A
B
A và B
Không có

Kháng thể trong
huyết thanh
Chống B
Chống A
Không
Chống A và chống B

Ngoài ra trong kháng nguyên A có hai loại kháng nguyên A1 và A2. Như
vậy, nhóm A thực ra có hai dưới nhóm A1 và A2, cũng như có hai dưới nhóm AB
là A1B và A2B. Trong đó, hồng cầu A1 bị ngưng kết mạnh với kháng thể chống A,
còn hồng cầu A2 phản ứng kém với kháng thể chống A.
Kháng thể hệ ABO
Kháng thể chống A, chống B có trong huyết thanh của những người



không có kháng nguyên tương ứng. Có hai loại:
-

Kháng thể tự nhiên: Đặc điểm của hệ nhóm máu ABO là trong huyết thanh có
mặt các kháng thể tương ứng với các kháng nguyên vắng mặt trên màng hồng
cầu, những kháng thể tự nhiên này xuất hiện khi trẻ sinh ra và tồn tại suốt đời,
cụ thể:
+ Kháng thể chống A ở người nhóm máu B
+ Kháng thể chống B ở người nhóm máu A
+ Kháng thể chống A và chống B ở người nhóm máu O

-

Kháng thể miễn dịch: Kháng thể miễn dịch xuất hiện do một sự kích thích miễn
dịch; các điều kiện kích thích miễn dịch.
+Miễn dịch đồng loài: xuất hiện do bất đồng nhóm máu giữa mẹ và con;
hồng cầu con mang kháng nguyên mà người mẹ không có, khi chuyển dạ, một ít
hồng cầu con sang máu mẹ gây đáp ứng miễn dịch ở mẹ.
+ Miễn dịch khác loài: khi tiếp xúc với các sinh phẩm nguồn gốc động
vật, các huyết thanh (kháng bạch hầu, uốn ván)…
Hệ nhóm máu Rh:
Hệ nhóm máu Rh có vai trò rất quan trọng trong truyền máu, sau hệ nhóm
máu ABO.Năm 1940, Landsteiner và cộng sự đã phát hiện ra hệ nhóm máu
“Rh” trên loài khỉ Rhesus. Giống như kháng nguyên A và B của hệ thống ABO,
sự có mặt hay vắng mặt kháng nguyên Rh là do di truyền[45], [47].
Nhóm máu hệ Rh là hệ thống nhóm máu phức tạp nhất gồm có 50 kháng
nguyên khác nhau. Tuy nhiên, có 5 kháng nguyên quan trọng nhất là D,C, c,E, e.
Bản chất kháng nguyên hệ Rh là các protein, các kháng nguyên này được

trải rộng trên màng hồng cầu. Kháng nguyên hệ Rh được phát triển một cách
khá đầy đủ ngay từ những ngày đầu của thai kỳ và duy trì suốt đời.
Người có kháng nguyên D trên bề mặt hồng cầu được gọi là người nhóm
máu Rh(+). Người không có kháng nguyên D trên bề mặt hồng cầu được gọi là
người có nhóm máu Rh(-).
Kháng thể anti-D là kháng thể miễn dịch, bình thường không có trong
huyết tương của cả Rh(+) và Rh(-). Khi truyền máu Rh(+) cho người Rh(-) thì


những người Rh(-) sẽ sản xuất kháng thể anti-D. Sự tạo thành kháng thể anti-D
xảy ra chậm, khoảng sau 2- 4 tháng sau nồng độ kháng thể mới đạt đến tối đa.
Nếu lần sau những người Rh(-) này lại nhận được máu Rh(+) thì các kháng thể
anti-D trong cơ thể họ sẽ làm ngưng kết các hồng cầu cho Rh(+) và sẽ xảy ra
phản ứng truyền máu. Như vậy, không được truyền Rh(+) cho người nhận Rh(-)
nhưng có thể truyền máu Rh(-) cho người Rh(+).
Ngoài ý nghĩa trong truyền máu, kháng nguyên Rh đặc biệt là kháng
nguyên D còn có vai trò trong bệnh tan máu bẩm sinh. Người mẹ có nhóm
Rh(-)mang thai con có nhóm máu Rh(+) có thể sinh kháng thể chống D, do khi
chuyển dạ có hồng cầu của con đã lọt vào hệ tuần hoàn của mẹ, kích thích cơ thể
mẹ tạo kháng thể và gây tan máu khi mẹ mang thai đứa trẻ có nhóm máu Rh(+)
ở những lần mang thai sau.
Ngoài ra, cho đến nay người ta phát hiện rất nhiều kháng nguyên Rh khác
như: kháng nguyên D yếu, kháng nguyên D từng phần, kháng nguyên C w, kháng
nguyên phức hợp…
Kháng thể hệ Rh(D) hầu hết là kháng thể miễn dịch IgG, trừ một tỷ lệ thấp
là IgM. Kháng thể tự nhiên rất hiếm gặp.
Hệ thống nhóm máu Kell
Hệ nhóm máu Kell có vai trò rất quan trọng trong thực hành truyền máu,
chỉ sau hệ nhóm máu ABO và hệ Rh. Có nhiều kháng nguyên hệ nhóm máu
Kell, các kháng nguyên này chỉ có mặt trên hồng cầu. Tỷ lệ người có kháng

nguyên K rất thấp, tuy nhiên kháng thể miễn dịch chống K phản ứng rất mạnh
với hồng cầu mang kháng nguyên K và gây tan máu trong lòng mạch khi người
bệnh được truyền máu không hòa hợp với hệ Kell. Kháng thể chống K là kháng
thể miễn dịch, có bản chất là IgG, có thể lọt qua hàng rào nhau thai. Bất đồng
kháng nguyên K mẹ - con cũng là nguyên nhân gây tan máu vàng da ở trẻ sơ
sinh[16].
Hệ nhóm máu Kidd
Hệ nhóm máu Kidd gồm 3 kháng nguyên, có 2 kháng nguyên chính là Jka
và Jkb. Hầu hết kháng thể của hệ nhóm máu Kidd có bản chất là IgG và được
phát hiện bằng nghiệm pháp Coombsgián tiếp.Kháng thể chống Jka và Jkb


thường gắn bổ thể. Chúng có thể gây ra phản ứng truyền máu tan máu nghiêm
trọng ngay lập tức và cũng là một nguyên nhân rất phổ biến gây ra phản ứng
truyền máu tan máu muộn. Kháng thể chống Kidd rất nguy hiểm vì chúng
thường không được phát hiện, do xu hướng giảm thấp trong huyết tương khi
không còn sự kích thích của kháng nguyên, nhưng khi có sự kích thích của
kháng nguyên nó sẽ gây ra miễn dịch thứ phát và lúc đó cơ thể sẽ sản sinh ra
một lượng kháng thể chống Kidd rất nhanh, với số lượng nhiều, do vậy có thể
gây ra các cơn tan máu cấp trong lòng mạch[16], [17], [18].
Hệ nhóm máu Duffy
Hệ nhóm máu Duffy có nhiều kháng nguyên: Fya, Fyb, Fy3, Fy4, Fy5,
Fy6; hai kháng nguyên chính là Fya, Fyb. Ở người Việt Nam, tỷ lệ kháng
nguyên Fya là 99%; kháng nguyên Fyb là 14,8%.
Kháng thể hệ Duffy là kháng thể miễn dịch, kháng thể chống Fya, Fyb có
bản chất là IgG, thích hợp hoạt động ở 37oC và có thể gây tan máu trong lòng
mạch. Kháng thể chống Fya là một kháng thể tương đối phổ biến, trong khi
kháng thể chống Fyb rất hiếm gặp, có thể gây phản ứng truyền máu tan máu
muộn. Kháng thể chống Fy5 đã được tìm thấy ở người da đen truyền máu nhiều
lần, kháng thể chống Fy3 có thể gây ra phản ứng truyền máu tan máu cấp và

muộn, còn kháng thể chống Fy5 gây phản ứng truyền máu tan máu muộn[48],
[18], [19].
Hệ nhóm máu Lewis
Hệ nhóm máu Lewis có 6 kháng nguyên chính (Lea,Leb…). Các kháng
nguyên không được sinh tổng hợp từ hồng cầu mà được tạo ra bởi các tế bàocủa
tổ chức và được tiết vào các dịch của cơ thể và huyết tương, sau đó được hấp thụ
lên màng hồng cầu. Ở người Việt Nam, tỷ lệ kháng nguyên Lea là 26,2%; kháng
nguyên Leb là 85,1%.
Kháng thể hệ Lewis thường là kháng thể tự nhiên IgM, hoạt động ở 22 370C, sử dụng nghiệm pháp Coombs gián tiếp để phát hiện, có khả năng gắn bổ
thể nhưng được xếp vào loại các kháng thể ít gây tai biến truyền máu. Tuy
nhiên, nếu truyền máu có kháng nguyên Lewis cho người đã có kháng thể miễn


dịch do truyền máu hoặc chửa đẻ thì nguy cơ tai biến sẽ xảy ra. Khi có bất đồng
nhóm máu mẹ-con, kháng thể hệ Lewis không gây vàng da tan máu ở trẻ sơ
sinh[48], [19].
Hệ nhóm máu P1Pk
Hệ nhóm máu P1Pkđược đặc trưng bởi 3 kháng nguyên là P 1,P2, Pkvà
chialàm 5 nhóm: nhóm P1, nhóm P2, nhóm P1k,nhóm P2k, nhóm p. Các kháng
thể gồm kháng thể chống P, chống P1, chống Pk vàgặp kháng thể chống P 1k.
Các kháng thể này hiếm gặp nhưng có thể gây tai biến truyền máu[18], [19].
1.2.2. Máu và các chế phẩm máu
Máu toàn phần: là máu tĩnh mạch lấy với dung dịch chống đông từ
người hiến máu đã được tuyển chọn theo quy định.
- Bảo quản máu toàn phần: ở nhiệt độ +2 oC đến +6oC trong tủ lạnh chuyên
dụng, trong 35 ngày với dung dịch chống đông CPDA-1. Khi bảo quản ở nhiệt
độ từ +20oC đến +24oC, hạn sử dụng không quá 24 giờ.
- Chỉ định sử dụng máu toàn phần để điều trị cho người bệnh: Mất máu
khối lượng lớn trên 30% thể tích máu,truyền thay máu,người bệnh cần truyền
hồng cầu nhưng không có sẵn khối hồng cầu.

- Chống chỉ định: Nguy cơ quá tải tuần hoàn, suy tim[1], [16], [20].
Khối hồng cầu (KHC):Là máu toàn phần đã loại bỏ phần lớn huyết tương
và có/không bổ sung dung dịch nuôi dưỡng hồng cầu. KHC cũng có thể
đượctiếp nhận bằng phương pháp gạn hồng cầu trên máy tách tế bào tự động.
-Bảo quản: Bảo quản KHC đậm đặc như máu toàn phần.
Bảo quản KHC có dung dịch bảo quản (adenin) ở nhiệt độ +2 oC đến +6oC
trong thời gian 42 ngày nếu điều chế trong hệ thống kín, không quá 24 giờ nếu
điều chế trong hệ thống hở.
- Chỉ định sử dụng: Thay thế hồng cầu đối với người bệnh thiếu máu cấp
và mạn tính, đặc biệt khi người bệnh có kèm tình trạng suy tim, suy thận,
người già yếu, mắc bệnh lâu ngày.


- Chống chỉ định: KHC hòa loãng không được khuyến cáo khi truyền thay
máu cho tré sơ sinh[1], [16], [20].
Khối hồng cầu giảm bạch cầu:
Là khối hồng cầu được tách bạch cầu bằng phương pháp ly tâm loại bỏ trên
70% bạch cầu có trong đơn vị máu toàn phần ban đầu, chứa ít hơn1,2×10 9bạch
cầu trong mỗi đơn vị máu.
- Bảo quản khối hồng cầu giảm bạch cầu: tùy thuộc kỹ thuật sử dụng.Bảo
quản như máu toàn phần khi điều chế trong hệ thống kín hoặc chỉ được sử dụng
trong khoảng thời gian không quá 24 giờở nhiệt độ +2 oC đến +6oC và không quá
6 giờ nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng (18 oC đến 24oC)kể từ khi điều chế trong hệ
thống hở.
- Chỉ định sử dụng khối hồng cầu giảm bạch cầu để điều trị cho người bệnh
truyền máu nhiều lần nhằm làm giảm nguy cơ mẫn cảm với bạch cầu; giảm nguy
cơ lây nhiễm Cytomegalovirus, phòng ngừa bệnh ghép chống chủ ở người bệnh
ghép các cơ quan, tổ chức; người bệnh suy giảm miễn dịch [1], [16].
Khối hồng cầu rửa:
- Là khối hồng cầu được loại bỏ huyết tương bằng cách rửa nhiều lần (tối

thiểu 3 lần) với dung dịch muối đẳng trương và được pha loãng bằng dung dịch
muối đẳng trương hoặc trong dung dịch bảo quản hoặc trong huyết tương phù
hợp.
- Bảo quản và hạn sử dụng: không quá 24 giờ nếu bảo quản ở nhiệt độ +2oC
đến +6oC và trong vòng 6 giờ ở nhiệt độ +20 oC đến +24oC kể từ khikết thúc điều
chế trong hệ thống hở.
- Chỉ định sử dụng: Thiếu máu tan máu miễn dịch có hoạt hóa bổ thể (thiếu
máu kịch phát ban đêm), thiếu máu mạn tính có tiền sử truyền máu dị ứng với các
thành phần huyết tương (thiếu hụt Ig A bẩm sinh) [1], [16], [20].
Khối hồng cầu đông lạnh:


- Là khối hồng cầu được bảo quản đông lạnh trong dung dịch bảo vệ hồng
cầu đông lạnh có glyceron, bảo quản ở nhiệt độ dưới âm -60oC.
- Điều kiện bảo quản và hạn sử dụng khối hồng cầu đông lạnh:
Hạn sử dụng trong 10 năm, bảo quản với dung dịch glyceron 40% ở nhiệt
độ từ -80oC đến -60oC.
Hạn sử dụng là 10 năm, bảo quản với dung dịch glyceron 20% trong nitơ
lỏng ở nhiệt độ từ -150oC đến -120oC.
Hạn sử dụng là 14 ngày tính từ ngày làm tan đông, rửa hồng cầu loại bỏ
glyceron trong hệ thống kín và có bổ sung dung dịch bảo quản hồng cầu.
Hạn sử dụng không quá 24 giờ, ở nhiệt độ từ +2 oC đến +6oC và không quá
6 giờ ởnhiệt độ phòng kể từ khi làm tan đông và rửa hồng cầu loại bỏ glyceron
trong hệ thống hở.
- Chỉ định sử dụngkhối hồng cầu đông lạnh cho người bệnh thiếu hồng
cầu, kháng thể đồng loài bất thường chống hồng cầu có kháng nguyên tương
ứng [1], [16].
Khối tiểu cầu (KTC):
- Khối tiểu cầu điều chế từ đơn vị máu toàn phần: được điều chế từ đơn vị
máu toàn phần bảo quản ở nhiệt độ từ 20 oC đến 24oC trong 24 giờ kể từ khi lấy

máu. Số lượng tiểu cầu (SLTC) tối thiểu 140 × 109/đơn vị.
Bảo quản: ở nhiệt độtừ 20 oC đến 24oC có lắc liên tục trong thời giankhông
quá 5 ngày (điều chế trong hệ thống kín).
- Khối tiểu cầu gạn tách: là khối tiểu cầu lấy trực tiếp từ một người hiến
máu bằng máy tách tế bào tự động. Mỗi đơn vị khối tiểu cầu gạn tách 250 ml có
số lượng tiểu cầu tối thiểu 300×10 9; khối tiểu cầu gạn tách có thể tích từ 120 ml
đến dưới 250 ml có số lượng tiểu cầu tối thiểu 150×109.
Có nhiều loại KTC: KTC lọc bạch cầu, KTC chiếu xạ gamma, KTC hòa
hợp hệ HLA...
- Chỉ định điều trị và dự phòng chảy máu do giảm số lượng và/hoặc chức
năng tiểu cầu. Khối tiểu cầu gạn tách từ một người hiến máu thường được dùng


cho người bệnh giảm tiểu cầu miễn dịch, có nguy cơ đồng miễn dịch hệ HLA[1],
[16], [20].
Khối bạch cầu hạt trung tính:
- Được điều chế từ các đơn vị máu toàn phần được bảo quản ở nhiệt độ
20oC đến 24oC trong 24 giờ kể từ khi lấy máu hoặc gạn tách trực tiếp từ một
người hiến máu bằng máy tách tế bào tự động.
- Bảo quản và hạn sử dụng: ở nhiệt độtừ 20 oC đến 24oC, không lắc, trong
vòng 6 giờ kể từ thời điểm điều chế và trong vòng 24 giờ kể từ thời điểmlấy
máu.
- Chỉ định sử dụng: người bệnh nhiễm trùng nặng không kiểm soát được
bằng liệu pháp kháng sinh,có giảm số lượng bạch cầu hạt dưới 0,5.10 9/lít [1],
[16], [20], [21].
Huyết tương đông lạnh:
- Được điều chế từ đơn vị máu toàn phần hoặc bằng phương pháp gạn tách
huyết tương từ người hiến máu và được làm đông lạnh.
- Bảo quản và hạn sử dụng:
Bảo quản ở nhiệt độ từ +2 o C đến +6 o C: hạn sử dụng không quá 14

ngày từ thời điểm điều chế trong hệ thống kín và 24 giờ từ thời điểm điều chế
trong hệ thống hở;
Bảo quản ở nhiệt độ từ -18 oC đến -25oC: không quá 12 tháng kể từ thời
điểm lấy máu hoặc gạn tách huyết tương;
Bảo quản ở nhiệt độ từ -25oC trở xuống: hạn sử dụng không quá 24 tháng
từ thời điểm lấy máu hoặc gạn tách huyết tương.
Không được đông lạnh lại huyết tương đã làm tan đông.
- Chỉ định sử dụng: Tình trạng suy giảm thể tích tuần hoàn, rối loạn đông
cầm máu [1], [20], [21].
Huyết tương tươi đông lạnh (HTTĐL):


- Là chế phẩm huyết tương được điều chế từ máu toàn phần hoặc bằng
phương pháp gạn tách huyết tương từ người hiến máu và được làm đông lạnh
huyết tương trong khoảng thời gian tối đa 18 giờ từ khi lấy máu hoặc gạn tách
huyết tương. HTTĐL chứa một lượng bình thường các yếu tố đông máu bền
vững, albumin và immunoglobulin; nồng độ yếu tố VIII ít nhất bằng 70% nồng
độ bình thường.
- Điều kiện bảo quản và hạn sử dụng:
Bảo quản ở nhiệt độ từ -18oC đến -25oC: hạn sử dụng không quá 12 tháng
từ thời điểm lấy máu hoặc gạn tách huyết tương;
Bảo quản ở nhiệt độ từ-25oC trở xuống: hạn sử dụng không quá 24 tháng từ
thời điểm lấy máu hoặc gạn tách huyết tương;
Đối với chế phẩm huyết tương tươi và HTTĐL đã làm tan đông: phải bảo
quản ở nhiệt độ từ +2oC đến +6oC và sử dụng ngay trong vòng06giờ tính từ thời
điểm bắt đầu làm tan đông (Thời gian làm tan đông không quá 45 phút, ở nhiệt
độ từ 30oC đến 37oC).
Không được đông lạnh lại sau khi đã làm tan đông.
- Chỉ định sử dụng: Điều trị thay thế tình trạng thiếu, giảm một hay nhiều
yếu tố đông máu: bệnh gan, quá liều thuốc chống đông Warfarin, truyền máu

khối lượng lớn, hemophilia B. Đông máu rải rác trong lòng mạch(DIC), xuất
huyết giảm tiểu cầu huyết khối(TTP)[1], [20], [21], [56].
Tủa lạnh: Tủa lạnh là chế phẩm tách từ phần tủa hình thành trong quá
trình tan đông huyết tương tươi đông lạnh ở nhiệt độ từ 10oC trở xuống.
- Bảo quản: Ở nhiệt độ từ -18oC trở xuống, không quá 12 tháng.
Tủa lạnh đã làm tan đông: phải sử dụng ngay hoặc trong vòng 06 giờ tính
từ thời điểm bắt đầu làm tan đông và bảo quản tủa lạnh ở nhiệt độ từ +2 oC đến
+6oC (Làm tan đông ở nhiệt độ từ 30oC đến 37oC trong thời gian không quá 15
phút). Không được đông lạnh lại sau khi làm tan đông.
- Chỉ định sử dụng: Điều trị và dự phòng chảy máu do thiếu, giảm các yếu
tố: yếu tố VIII, yếu tố Von Willebrand, yếu tố XIII. Điều trị bệnh đông máu rải


rác trong lòng mạch (DIC), thiếu hụt fibrinogen, truyền máu khối lượng lớn[1],
[16], [20], [22].
1.2.3. Sử dụng máu tại bệnh viện
Theo Tổ chức Y tế Thế giới: sử dụng máu hợp lý, an toàn là chỉ định đúng
thành phần máu, cho đúng người bệnh và vào thời điểm cần thiết. Tuy nhiên,
việc chỉ định sử dụng máu và các thành phần máu do các bác sỹ lâm sàng thực
hiện [1], [16].
Máu rất cần thiết trong điều trị và cứu sống người bệnh khi mất máu nhiều
do chấn thương, bệnh lý sản khoa, nội khoa, phẫu thuật… và phát triển các kỹ
thuật y học hiện đại như ghép các cơ quan, tổ chức. Nhưng truyền máu cũng có
thể gây nên những tai biến nguy hiểm do truyền nhầm nhóm máu, nhiễm các
bệnh lây truyền qua đường máu do giai đoạn cửa sổ huyết thanh, các phản ứng
trong và sau truyền máu: dị ứng, miễn dịch[1], [56]. Sử dụng máu đúng chỉ định,
không lạm dụng truyền máu để tránh những hậu quả không mong muốn sau
truyền, tránh lãng phí nguồn máu quý hiếm và kinh tế của người bệnh.
Sử dụng máu tại bệnh viện (truyền máu lâm sàng) bao gồm[1], [16]:
Lập kế hoạch về nhu cầu máu và chế phẩm

Xây dựng kế hoạch nhu cầu máu cho từng tuần, tháng, năm của từng khoa,
phòng và bệnh viện.
Chỉ định truyền máu và các chế phẩm máu
Đây là nhiêm vụ của bác sỹ điều trị, là khâu rất quan trọng, góp phần trực
tiếp nâng cao hiệu quả, an toàn truyền máu. Bác sỹ điều trị cần tuân thủ các
nguyên tắc sau:
- Thực hiện theo Thông tư 26/2013/TT-BYT ngày 16 tháng 9 năm 2013 của
Bộ Y tếhướng dẫn hoạt động truyền máu.
- Đánh giá đúng, chính xác tình trạng thiếu máu của người bệnh để xem xét
về sự cần thiết truyền máu, thành phần máu và số lượng máu sẽ chỉ định truyền
[1], [16].


Phát máu và các chế phẩm máu an toàn
Phải thực hiện đầy đủ và chính xác quy trình phát máu.
Truyền máu tại giường bệnh
Bác sỹ điều trị và điều dưỡng viên phải thực hiện kiểm tra, đối chiếu, định
nhóm máu, theo dõi truyền máu, phát hiện, xử trí kịp thời các bất thường, tai biến
không mong muốn xảy ra trong và sau truyền máu [16], [20].
Theo dõi sau truyền máu
Theo dõi tình trạng lâm sàng và xét nghiệm máu nhằm phát hiện sớm các phản
ứng không mong muốn do truyền máu.
Các hoạt động trên cần thực hiện tốt và phối hợp hài hòa, đảm bảo tính hợp
lý, khoa học dưới sự chỉ đạo của hội đồng truyền máu bệnh viện để truyền máu
thực sự an toàn và hiệu quả.
Hội đồng Truyền máu bệnh viện:
Là hội đồng khoa học được giám đốc bệnh viện quyết định thành lập, có
vai trò tư vấn cho lãnh đạo bệnh viện thiết lập và duy trì thực hiện các quy định
về đảm bảo an toàn truyền máu.
Ngày 7/4/2000,Tổ chức Y tế Thế giới tại châu Âu đã thành lập Văn phòng

Hợp tác ở Birmingham (Anh), gồm các chuyên gia truyền máu từ nhiều nước
châu Âu, có nhiệm vụ tư vấn truyền máu nhằm đem lại hiệu quả và an toàn. Vấn
đề quản lý chất lượng trong công tác truyền máu cũng đã được đặt ra tại một số
nước. Mục đích của công tác này là tạo được các chế phẩm máu và dịch vụ
truyền máu đảm bảo chất lượng, có tính ổn định, đáp ứng nhu cầu điều trị ngày
càng tăng. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, việc quản lý chất lượng đồng
bộ theo tiêu chuẩn và chất lượng ISO (International Organization for
Standardization) là rất cần thiết[1], [57].
Hệ thống cảnh báo về nguy cơ truyền máu đã được áp dụng ở nhiều nước
trên thế giới: ở Pháp (1992) và Anh (1996), với mục đích là thu nhập thông tin
về những tác dụng phụ do truyền máu và đưa ra những khuyến cáo nhằm giảm


thấp những hậu quả này. Hiện nay, hệ thống kiểm soát các tai biến không mong
muốn do truyền máu đã được triển khai rất thành công ở các nước: Pháp,
Canada, Đức, Nhật, Đan Mạch, Nam Phi, Anh, Phần Lan, New Zealand, Nga,
Ireland, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Thụy Điển, Úc, Bỉ, Thái Lan… Tại Việt Nam, đã
có một số bệnh viện thành lập hội đồng truyền máu bệnh viện để kiểm soát các
tai biến không mong muốn do truyền máu nhưng thực hiện còn chưa đầy đủ và
chưa tốt [1], [57].
Bằng mọi biện pháp, các trung tâm truyền máu - dịch vụ truyền máu đều
mong muốn máu và các chế phẩm máu mang lại hiệu quả điều trị cao nhất cho
người bệnh[1], [21].
Như vậy, để đảm bảo công tác an toàn truyền máu cần có các trung tâm
truyền máu, các cơ sở truyền máu được đầu tư trang thiết bị đầy đủ và hiện đại
cùng với việc liên tục đào tạo, bồi dưỡng cácnhân viên y tế thường xuyên. Công
tác quản lý chất lượng truyền máu cũng là vấn đề quan trọng và cần được
thường xuyên quan tâm.
1.3. Tình hình nghiên cứu về sử dụng và tai biến truyền máu, chế phẩm
máu ở Việt Nam

1.3.1. Nghiên cứu tình hình sử dụng máu
Công tác nghiên cứu về sử dụng máu, chế phẩm máu đã có một số tác giả
nghiên cứu tại các thời điểm và địa điểm khác nhau:
Tác giả Nguyễn Thị Hồng (2006) “Nghiên cứu tình hình sử dụng máu và
các sản phẩm máu phục vụ cho cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Bạch
Mai”[25]từ tháng 1/2005 đến tháng 6/2006cho thấyBệnh viện Bạch Mai đã sử
dụng 45.318 đơn vị máu và các sản phẩm, nhiều nhất là khối hồng cầu (57,9%),
huyết tương (24,9%) và khối tiểu cầu (12,3%). Nhóm máu được sử dụng nhiều
nhất là nhóm O (44,5%). Máu toàn phần, khối hồng cầu và khối tiểu cầu được
sử dụng nhiều nhất ở khoa Huyết học -Truyền máu và huyết tương được sử dụng
nhiều nhất ở khoa Điều trị tích cực.


×