Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở từ thực tiễn quận hồng bàng, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 89 trang )

ĐẶNG CÔNG ĐỈNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT Ở TỪ THỰC TIỄN QUẬN
HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

ĐẶNG CÔNG ĐỈNH

2016 – 2018


HÀ NỘI – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT Ở TỪ THỰC TIỄN QUẬN HỒNG BÀNG,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

ĐẶNG CÔNG ĐỈNH


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. DƯƠNG THANH AN


HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2018.
TÁC GIẢ

Đặng Công Đỉnh


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh,
bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình
của quý Thầy Cô, cũng nhờ sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè
trong suốt thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy TS. Dương Thanh An
người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành
luận văn này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô
trong khoa Sau Đại học Viện Đại học mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt

những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi
trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài
luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và
các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2018.
Học viên cao học

Đặng Công Đỉnh


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT Ở VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT Ở .................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở .................................... 7
1.1.1. Quan niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở ............................. 7
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở ....... 11
1.2. Cơ sở của việc quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở ............. 17
1.3. Khái quát lịch sử hình thành các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất ở ............................................................................................................. 21
Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
Ở VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG ................................................................................................................ 26
2.1. Luật đất đai quy định nguyên tắc chung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất ở ................................................................................................................... 26
2.1.1. Phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất ở ............................................................................................................... 26

2.1.2. Nguyên tắc chung về chi trả bồi thường ................................................ 29
2.2. Pháp luật về bồi thường với đất khi Nhà nước thu hồi đất ở ........................ 30
2.2.1. Quy định nguyên tắc bồi thường ........................................................... 30
2.2.2. Quy định điều kiện để được bồi thường ................................................ 32
2.2.3. Quy định nguyên tắc xác định giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu
tư vào đất còn lại ............................................................................................ 35
2.2.4. Quy định bồi thường khi thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân ............... 40
2.2.5. Quy định bồi thường khi thu hồi đất của tổ chức................................... 43
2.3. Pháp luật về bồi thường với tài sản.............................................................. 44
2.3.1. Quy định nguyên tắc bồi thường với tài sản .......................................... 44
2.3.2. Quy định bồi thường, hỗ trợ về nhà, công trình xây dựng trên đất......... 45


2.3.3. Quy định bồi thường, hỗ trợ di chuyển mồ mả, công trình văn hoá, di tích
lịch sử, nhà thờ, đền, chùa, am miếu ............................................................... 46
2.3.4. Quy định bồi thường, hỗ trợ đối với cây trồng, vật nuôi ........................ 48
2.4. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở trên
địa bàn quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng ................................................ 52
2.4.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của quận Hồng Bàng,
Thành phố Hải Phòng ..................................................................................... 52
2.4.2. Tình hình thực hiện công tác bồi thường ............................................... 56
2.5. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở tại một số quận huyện . 60
2.5.1. Quận Hải An – Thành phố Hải Phòng................................................... 60
2.5.2. Quận Đồ Sơn – Thành phố Hải Phòng .................................................. 62
2.5.3. Bài học kinh nghiệm đối với quận Hồng Bàng ...................................... 64
Chương 3. GIẢI PHÁP CHUNG VÀ GIẢI PHÁP CỤ THỂ ÁP DỤNG TẠI
QUẬN HỒNG BÀNG ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở ................................................................. 66
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng tại quận Hồng Bàng, Thành phố Hải

Phòng................................................................................................................. 66
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở trên
cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng tại quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng .. 67
3.2.1. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định về khung giá đất cho phù hợp với
thực tế, theo đúng cơ chế thị trường................................................................ 67
3.2.2. Xác định và giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, người
sử dụng đất và người hưởng lợi từ việc thu hồi đất trong việc bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất ở ................................................................................... 70
3.2.3. Xác lập cơ chế pháp lý cho doanh nghiệp dịch vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng hoạt động ........................................................................................ 76
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 80


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BT, HT

Bồi thường, hỗ trợ

BTNMT

Bộ Tài nguyên và Môi trường

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất

GPMB

Giải phóng mặt bằng


HĐND

Hội đồng nhân dân

KHSDĐ

Kế hoạch sử dụng đất

KT

Kinh tế

KT-XH

Kinh tế - xã hội

LĐĐ

Luật đất đai



Nghị định

NN

Nhà nước




Quyết định

QH

Quy hoạch

SDĐ

Sử dụng đất

SX

Sản xuất

SX-KD

Sản xuất – kinh doanh

TĐC

Tái định cư

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất đai có tầm quan trọng to lớn đối với người dân cả về phương diện nơi ở
lẫn tư liệu sản xuất. Ở nước ta, Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và
ủy quyền cho Nhà nước quản lý, Nhà nước giao cho dân cư sử dụng. Từ khi chính
thức giao đất cho người dân, Nhà nước ta đã tuyên bố bảo hộ quyền sử dụng chính
đáng đất của dân cư. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, trên lãnh thổ nước ta đã, đang và sẽ
có hàng ngàn dự án đầu tư xây dựng cần đất đủ điều kiện để phát triển cả về vị trí
và diện tích đất. Từ nhu cầu đó, quy hoạch sử dụng đất và công cuộc giải phóng mặt
bằng tạo quỹ đất sạch phải lựa chọn thay thế đất ở và đất sản xuất của dân cư là khó
tránh khỏi. Sự xuất hiện của các công trình này là tất yếu bởi chúng cần thiết cho
tăng trưởng kinh tế và cải thiện điều kiện chung, nâng cao hạ tầng, thay đổi bộ mặt
phát triển đô thị của địa phương, nhưng đối với người dân bị thu hồi đất để xây
dựng công trình phát triển đô thị thì cuộc sống chắc chắn sẽ bị xáo trộn.
Để bù đắp cho các hộ dân một phần vì sự xáo trộn đó, trong những năm gần
đây Nhà nước ta đã ban hành các quy định pháp luật, các văn bản về bồi thường, hỗ
trợ dành cho các hộ dân bị thu hồi đất. Các quy định pháp luật và quyết định của
chính quyền địa phương đã giúp cho người dân bị thu hồi đất phần nào ổn định trở
lại cuộc sống. Tuy nhiên, đất đai có giá trị lớn và luôn là vấn đề nóng được quan
tâm trong xã hội nên một bộ phận không nhỏ trong các hộ dân có đất bị thu hồi sẽ
xuất hiện khiếu nại về tiền bồi thường, sẽ có các hộ dân cảm thấy giá trị bồi thường
không tương xứng với giá thị trường, chính sách bồi thường chưa hợp lý, việc tái
định cư và hỗ trợ người dân đến nơi ở mới chưa thật sự hiệu quả... Thực tế đó đòi
hỏi Nhà nước, chính quyền địa phương phải tiếp tục đổi mới và dần hoàn thiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định đối với người dân bị thu hồi đất để ngày
càng giảm thiểu được những bất cập còn tồn tại.


1


Nằm trong bối cảnh chung, quận Hồng Bàng – là một trong những quận đi
đầu của Thành phố Hải Phòng cũng gặp nhiều khó khăn khi xây dựng và triển khai
chính sách bồi thường trên địa bàn quận. Tuy công tác bồi thường trong những năm
gần đây ở quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng đã được cải thiện hơn trước rất
nhiều, nhưng cả trong nội dung chính sách lẫn trong tổ chức thực hiện ở cụ thể từng
dự án, từng trường hợp vẫn còn xuất hiện vướng mắc, vấn đề sẽ dẫn đến chậm tiến
độ giải phóng mặt bằng, chậm tiến độ thực hiện dự án đầu tư, tình trạng khiếu kiện
kéo dài sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả của nền kinh tế, bất
ổn trong an ninh xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Quận Hồng Bàng là trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố Hải Phòng, cửa ngõ giao thông đường thuỷ,
đường sắt, đường bộ của thành phố, nối liền với thủ đô Hà Nội, tỉnh Quảng Ninh
tạo thành khu tam giác phát triển kinh tế phía Bắc Việt Nam “Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh”. Với những lợi thế đó, quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng đang
diễn ra quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ cùng lịch sử hình thành và
phát triển lâu đời nên nhiều dự án đã và đang được triển khai trên địa bàn quận
Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng sẽ phải có kế hoạch dự kiến thu hồi với mục đích
là đất ở. Cùng với đó là công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB), hỗ trợ,
đào tạo chuyển đổi nghề, bố trí công ăn việc làm mới cho người mất đất (nơi mà
người dân vẫn sinh sống hàng ngày) là những thách thức không nhỏ cho các cấp Uỷ
Đảng và chính quyền địa phương. Thực tế giải quyết vấn đề này cho thấy đây là
công việc khó khăn, phức tạp nảy sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện kéo dài và dễ
phát sinh thành những điểm nóng gây mất ổn định về chính trị. Nhận thức sâu sắc
được những khó khăn, thách thức của công tác bồi thường, GPMB, quận Hồng
Bàng, Thành phố Hải Phòng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản
nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Trên cơ sở đó, kiến nghị, đề

2


xuất với chính quyền quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng những giải pháp khắc
phục nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án góp phần xây dựng quận Hồng
Bàng, Thành phố Hải Phòng văn minh, giàu đẹp đáp ứng với lòng tin yêu của đồng
bào cả nước và ban bè quốc tế. Với những lý do trên, em lựa chọn đề tài “Pháp luật
về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi đất ở và thực tiễn áp dụng tại quận Hồng
Bàng, Thành phố Hải Phòng” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước đây đã có một số công trình nghiên cứu Pháp luật về bồi thường khi
Nhà Nước thu hồi đất ở về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho
lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng theo tinh thần Luật
Đất đai.
Trong thời gian gần đây, cũng có một số tác giả nghiên cứu về các vấn đề
khác nhưng có liên quan đến công tác bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất
theo Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai như:
Luận văn thạc sĩ: "Vận dụng Lý luận của C.Mác về giá cả ruộng đất vào
định giá đất ở Việt Nam", của Phan Văn Ninh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2014;
Luận văn thạc sĩ: "Pháp luật về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi đất ở
trong nền kinh tế nước ta hiện nay" của Trần Đức Thắng, Đại học Luật Hà Nội,
năm 2015;
Luận văn: " Pháp luật về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi đất ở trên địa
bàn thành phố Hồ chí Minh", của Trần Văn Điển, Đại học Luật Hà Nội, năm 2014;
Luận văn: "Giải pháp tài chính nhằm thúc bồi thường khi Nhà Nước thu hồi
đất ở Việt Nam", của Lê Mạnh Dân, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2014.
Ngoài ra, cũng có một số luận văn khác nghiên cứu về chính sách thu tiền

sử dụng dụng đất, lệ phí trước bạ... Những vấn đề này có liên quan chặt chẽ đến
công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
3


Tuy nhiên, dưới góc độ chuyên ngành luật thì đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở và
cấp đơn vị hành chính quận huyện, đặc biệt là trên góc độ lý luận.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm đạt được những mục đích cơ bản sau đây:
- Tập hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các quy
định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở;
- Tìm hiểu những đặc điểm và nội dung cơ bản của mảng pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở;
- Đánh giá thực trạng Pháp luật về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi đất ở và
thực tiễn áp dụng tại quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng;
- Chỉ ra những thành công và những tồn tại, khiếm khuyết và nguyên nhân
của những hạn chế của việc áp dụng pháp luật về bồi thường khi bồi thường khi
Nhà Nước thu hồi đất ở và thực tiễn áp dụng tại quận Hồng Bàng, Thành phố Hải
Phòng;
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất; cũng như đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở tại quận Hồng
Bàng, Thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, phức tạp và giải quyết nhiều
yêu cầu trên các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý, tập quán truyền
thống v.v. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một bản luận văn tốt nghiệp cử nhân luật,
tác giả giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở những nội dung cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu các quy định hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

được đề cập trong Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Nghiên cứu các quy định hiện hành của Uỷ ban nhân dân (UBND) quận
Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng nhằm tổ chức triển khai pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất ở trên địa bàn quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng;

4


- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất ở trên địa bàn quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng;
- Nghiên cứu quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở;
- Nghiên cứu chủ trương, đường lối của Thành ủy quận Hồng Bàng, Thành
phố Hải Phòng về lãnh đạo, chỉ đạo việc thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng v.v…
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận
văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin;
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
(i) Phương pháp luận giải, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử v.v
được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất ở và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở;
(ii) Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối
chiếu v.v được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất và thực trạng áp dụng trên địa bàn quận Hồng Bàng, Thành
phố Hải Phòng;
(iii) Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp
v.v… được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện

pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận
Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Đưa ra các căn cứ khoa học Pháp luật về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi
đất ở đối với người dân bị thu hồi đất.

5


Chỉ ra điểm hợp lý và chưa hợp lý của hệ thống Pháp luật về bồi thường khi
Nhà Nước thu hồi đất ở đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất hiện tại ở quận
Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng.
Kiến nghị hệ thống giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường hệ thống
Pháp luật về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi đất ở tại quận Hồng Bàng, Thành
phố Hải Phòng trong những năm tới.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn kết cấu gồm các chương sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở;
- Chương 2. Pháp luật về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi đất ở và thực tiễn
áp dụng tại quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng;
- Chương 3. Giải pháp chung và giải pháp cụ thể áp dụng tại quận Hồng
Bàng để hoàn thiện Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở.

6


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG

KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VÀ PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở
1.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
1.1.1. Quan niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
Trong đời sống hàng ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách
nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra;
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Bồi thường” là “Đền bù những tổn hại
gây ra”;
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trong
lĩnh vực pháp luật đất đai thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi Nhà nước thu hồi
đất được đặt ra từ rất sớm. Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng
Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề
cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”. Tiếp đến Thông tư số
1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về quy định một số điểm tạm
thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu niên, các hoa màu cho nhân dân ở
những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố cũng đề cập vấn đề bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt khi Luật đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990
quy định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng
vào mục đích khác, thuật ngữ “bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ “đền bù”.
Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật đất đai năm 1998 và các nghị định hướng dẫn thi hành
như Nghị định số 90/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ ban hành quy định về việc
đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an

7



ninh, lợi ích quốc gia lợi ích công cộng; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày
22/04/1998 của Chính Phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng… Tuy nhiên khi
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật đất đai năm 2001 được Quốc hội ban hành,
thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và tiếp tục xuất hiện trong Luật đất đai
năm 2003; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính Phủ quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nghị định số
84/2007NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính Phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự,
thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu
nại về đất đai; Nghị định 47/2014/NĐ-CP bồi thường hỗ trợ tái đinh cư khi Nhà
Nước thu hồi đất.
Trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước có quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai,
việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền sử dụng đất của đối tượng này để xác lập
cho đối tượng khác vì mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước là hoàn toàn thuộc
quyền của Nhà nước với hai tư cách đó. Việc có hay không sự lạm quyền, độc
quyền hay xâm phạm tới quyền tài sản tư (quyền sử dụng đất thuộc tài sản tư của
người sử dụng) không biểu hiện ở quyết định hành chính về thu hồi đất mà cần phải
xem quyết định hành chính đó có đúng đắn và hợp pháp hay không. Trên cơ sở tiếp
thu có chọn lọc các ý kiến, các quan điểm của các nhà khoa học, Luật Đất đai năm
2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực vào ngày
01/07/2014, tại khoản 11, Điều 4 đã quy định: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”[19].
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 (Điều 54, Khoản 3) và Luật Đất đai
năm 2013 (Điều 16, Khoản 1), khi Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng trong
trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì phải bồi thường cho cá nhân, tổ
8



chức đang sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Việc bồi thường thể hiện trên
các phương diện sau đây:
Thứ nhất, bồi thường về đất: là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất
đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất (Điều 3, Khoản 12 Luật Đất đai
năm 2013). Cũng theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, giá trị quyền sử dụng
đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất với một diện tích đất xác định trong
thời hạn sử dụng đất xác định. Như vậy, bồi thường về đất ở đây thực chất là Nhà
nước trả cho cá nhân, tổ chức một khoản tiền nhất định do việc thu hồi đất đã giao
cho họ. Số tiền bồi thường ở đây được tính bằng diện tích đất thu hồi nhân với giá
đất cụ thể tại thời điểm thu hồi đất, tức là giá trị của quyền sử dụng đất tính trên một
đơn vị diện tích đất.
Thứ hai, bồi thường về nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của cá nhân, tổ
chức trong trường hợp thu hồi đất: Đây là nội dung bồi thường liên quan đến nhà ở,
công trình phục vụ sinh hoạt của cá nhân, tổ chức trong trường hợp bị thu hồi đất,
đồng thời phải tháo dỡ một phần nhà ở hoặc phải di dời đến nơi ở khác do việc thu
hồi đất đó.
Thứ ba, bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi: là việc Nhà nước bồi thường
cho cá nhân, tổ chức khi thu hồi đất mà có gây thiệt hại đối với cây trồng, vật nuôi.
Chính sách bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất là một dạng chính
sách công có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực giáp ranh như đất đai, tài
chính, an ninh, chính trị… Giống như các chính sách công khác, có nhiều quan
niệm khác nhau về chính sách bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất. Một số
người cho rằng quyền sử dụng đất là hàng hóa nên Nhà nước cần đối xử với người
có đất bị thu hồi như là bên bán quyền sử dụng đất. Quan niệm này quá cực đoan,
không phù hợp với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và chế độ quản lý theo mục
đích sử dụng đất của Nhà nước ta. Một số người khác cho rằng, đất đai thuộc
quyền quản lý của Nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất theo
luật và chỉ bồi thường theo quy định của Nhà nước. Quan niệm này quá cứng nhắc,


9


không phù hợp với chủ trương sử dụng thị trường để điều tiết việc sử dụng đất có
hiệu quả ở nước ta.
Quan điểm trong luận văn này cho rằng, về mặt lý luận, có thể coi chính
sách bồi thường là một dạng chính sách đặc biệt của Nhà nước thể hiện cách ứng xử
vừa đại diện cho chủ sở hữu đất đai, vừa phản ánh thái độ của cơ quan được xã hội
trao quyền quản lý đất đai, vừa bao hàm nội dung điều hòa lợi ích theo hướng bảo
đảm quyền lợi chính đáng của các bên liên quan phục vụ mục tiêu hiệu quả kinh tế
xã hội và công bằng, trong đó các cơ quan nhà nước sử dụng nhiều công cụ tổ chức,
tài chính, giá cả để đạt được các mục tiêu của mình. Khi bàn về chính sách bồi
thường phải chú ý các phương diện sau:
- Về mặt quan điểm, chính sách bồi thường phải kết hợp hợp lý các yêu cầu
quản lý hành chính với các yêu cầu của cơ chế quản lý thị trường trong xác định
mức bồi thường và các thủ tục liên quan. Ở đây nhấn mạnh hai yêu cầu: dân chủ và
công bằng. Yêu cầu dân chủ là khi xác định mức bồi thường, phương thức bồi
thường phải tham vấn ý kiến người mất đất và thể hiện được ý kiến, nguyện vọng
của họ một cách hợp lý. Yêu cầu công bằng là khi phân chia lợi ích, phải đảm bảo
các bên được hưởng lợi ích phù hợp với đóng góp của họ. Phần lợi ích thuộc xã hội
phải được sử dụng chung một cách công khai, minh bạch.
- Về mặt chủ thể: Chế độ phân cấp cho các cơ quan nhà nước trong việc thu
hồi, bồi thường phải rõ ràng, trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích tương xứng, có sự phối
hợp và kiểm tra giám sát chặt chẽ nhằm hạn chế tối đa sự lạm quyền tư lợi.
- Về mặt mục tiêu: Cần kết hợp hài hòa mục tiêu của người sử dụng đất, của
xã hội và người dân, trong đó ưu tiên cao nhất cho việc sử dụng có hiệu quả quỹ đất
phục vụ đời sống người dân.
- Về mặt công cụ và cơ chế tác động: Cần phối hợp hài hòa với nhau có tính
đến các giới hạn về sử dụng đất, ngân sách nhà nước và năng lực tổ chức thực hiện

của các chủ thể.

10


Nói tóm lại, chính sách bồi thường là tổng thể các quan niệm, chủ trương,
phương tiện và hành động của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực bồi thường đối
với những người dân có đất bị thu hồi nhằm đạt tới sự hài hòa, hợp lý về lợi ích,
hiệu quả và phát triển bền vững.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
Mục đích của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
* Thứ nhất của chính sách bồi thường là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng đất, người sở hữu nhà ở.
Về mặt lịch sử, đất đai là thành quả xây dựng và bảo vệ của nhiều thế hệ
liên kết trong một quốc gia. Theo ý nghĩa đó đất đã là tài sản chung. Chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đã hiện thực hóa quan hệ pháp lý của tài sản chung đó. Tuy
nhiên, sử dụng đất đai lại phân cấp cho các tổ chức và các gia đình riêng rẽ. Vì thế
cần có cơ chế phân định hợp lý quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích của xã hội (đại diện
là Nhà nước) và công dân trong quan hệ đất đai.
Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 của nước ta đã quy định: "Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu... Nhà nước trao quyền sử dụng đất
thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với
người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất".
Như vậy: Về mặt pháp lý, dù người sử dụng đất được hưởng thành quả từ
việc sử dụng đất vào các hoạt động kinh tế, xã hội nhưng đất đai phải được sử dụng
nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội mà Nhà nước là người
đại diện. Mục tiêu của xã hội là đất chung phải được sử dụng sao cho phục vụ tốt
nhất cho phát triển kinh tế, kiến thiết xã hội xã hội chủ nghĩa và cải thiện chất lượng
sống nói chung của dân cư. Vì thế đất phải được sử dụng theo quy hoạch và kế

hoạch chung của Nhà nước.

11


Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước thường không phải là người sử dụng trực
tiếp đất. Người dân mới là người khai thác quỹ đất. Họ chỉ khai thác quỹ đất hiệu
quả khi quyền lợi của họ được tôn trọng và bảo hộ. Làm sao để mục tiêu chung của
xã hội và mục tiêu riêng của người sử dụng đất hài hòa với nhau tạo điều kiện cho
phát triển nhanh, bền vững là mục tiêu quan trọng của chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư. Ở đây, xử lý tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
đất cũng như vận dụng các công cụ tổ chức, tuyên truyền, tài chính của chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là rất quan trọng.
Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Quyền sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta là quyền sở hữu về mặt pháp lý (Nhà
nước quy định trách nhiệm của mình cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người sử
dụng đất). Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất thực tế và
phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nếu quan hệ này được thiết lập hợp
lý thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ dễ triển khai hơn.
Ở nước ta, Nhà nước còn nắm một phần quyền sử dụng đất về mặt pháp lý,
tức nắm quyền quy định mục đích sử dụng cho các thửa đất theo quy hoạch. Nhà
nước nắm quyền này là để định hướng sử dụng đất đai cho phù hợp với lợi ích của
toàn xã hội về các phương diện đảm bảo an ninh lương thực, cân đối các nhu cầu sử
dụng đất, sử dụng đất hiệu quả, hạn chế tình trạng đất để hoang hoá, vô chủ, sử
dụng lãng phí, không bảo vệ đất,... Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình
và cá nhân để đảm bảo đất có chủ sử dụng thực sự và hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước
giao quyền sử dụng đất đúng mục đích cũng tạo điều kiện cho thị trường quyền sử
dụng đất sau khi hoạt động để khuyến khích sử dụng đất hiệu quả.
Trong rất nhiều mối quan hệ chồng chéo đó, làm thế nào để bảo đảm lợi ích
hợp lý giữa xã hội và cá nhân là vấn đề vô cùng phức tạp. Song, nếu không giải

quyết được các quan hệ này thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ khó
triển khai. Bởi vì, Luật Đất đai ở nước ta quy định khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát

12


triển kinh tế thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho
người dân bị mất đất.
Vậy bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như thế nào để đảm bảo sự hài hòa lợi
ích?
Thông thường, việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân phải
đáp ứng các yêu cầu:
- Tạo điều kiện để người bị mất đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn trước
khi mất đất.
- Điều tiết phần lợi ích gia tăng không do các cá nhân tạo ra về ngân sách
nhà nước.
- Tạo điều kiện để người sử dụng đất sau này hoàn thành mục tiêu đã được
xã hội chấp thuận.
- Bảo tồn được quỹ đất và môi trường.
* Thứ hai của chính sách bồi thường là khuyến khích người dân giao đất.
Vì đất là điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng khu đô thị, là
điều kiện để thực hiện các dự án kinh tế, xã hội, quốc phòng nên chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư phải hướng đến khuyến khích người dân tự nguyện
giao đất.
Trên thực tế, người dân không muốn giao đất vì việc mất đất ảnh hưởng xấu
đến cuộc sống của họ. Để họ tự nguyện và nhanh chóng giao đất, chính sách bồi
thường không những phải có mức bồi thường, hỗ trợ, hợp lý, phải tổ chức tốt công
việc tái định cư, mà còn phải cung cấp cho người mất đất đầy đủ thông tin trung
thực để họ tự quyết định.

Ngoài ra chính sách bồi thường phải được hoạch định và thực hiện nhất
quán, tránh các mâu thuẫn, xung đột trong quá trình triển khai.

13


Nếu chính sách bồi thường không đáp ứng mục tiêu này, quá trình thu hồi
đất sẽ nảy sinh rất nhiều khó khăn không đáng có như khiếu kiện, chống đối, chây ì,
chậm tiến độ giải phóng mặt bằng.
* Thứ ba của chính sách bồi thường là ổn định cuộc sống, ổn định việc làm
cho người dân bị mất đất.
Việc thu hồi đất ở nước ta không hoàn toàn mang tính thị trường nên quan
tâm đến cuộc sống của người dân bị mất đất là một mục tiêu quan trọng. Để ổn định
cuộc sống cho người mất đất cần xây dựng khu tái định cư đồng bộ, có cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội, văn hóa ít nhất không được thấp hơn địa điểm cũ, nhất là các
dịch vụ thiết yếu như giao thông, điện, nước, y tế, giáo dục, hành chính...
Ở nước ta, mục tiêu này thường khó hoàn thành do kinh phí của Nhà nước
cấp eo hẹp và do tổ chức thiếu chặt chẽ. Nếu khu tái định cư không được xây dựng
tốt thì dân chúng sẽ bất mãn, hậu quả là họ không di dời.
Để ổn định lâu dài cho người dân bị mất đất, cần tạo điều kiện cho họ có
việc làm thông qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ đầu tư, lập nghiệp hoặc xúc tiến
việc làm. Trên thực tế việc làm của cơ quan tái định cư và người dân không trùng
khớp, do dịch vụ hỗ trợ không phù hợp với điều kiện của người dân.
* Thứ tư của chính sách bồi thường là góp phần thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đai, xây dựng và phát triển nhà ở, phát triển kinh tế - xã hội.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ Nhà nước bố trí, sắp xếp các
loại đất và nhà ở cho đối tượng sử dụng theo không gian và thời gian phù hợp với
mục tiêu sử dụng đất hiệu quả và thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau khi đã được xây dựng
có căn cứ khoa học và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước là phương án sử dụng đất tốt nhất để Nhà nước và nhân dân thực hiện.
Để chính sách bồi thường góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất cần chủ động hoạch định chính sách cụ thể cho các khu đất ở, các dự án xây

14


dựng vùng, phát triển các ngành nghề khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp, xây
dựng, dịch vụ hoặc là việc chuyển các loại đất khác nhau sang các mục đích sử
dụng khác nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện. Nói cách khác, trước khi
mở rộng một con đường, xây dựng một khu đô thị mới hay xây dựng khu công
nghiệp, xây dựng khu chung cư cao tầng, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng v.v...
cần tuân thủ quy hoạch trong việc lựa chọn sử dụng các khu đất mới hoặc lấy các
khu đất đang sử dụng vào một mục đích cụ thể nào đó để sử dụng cho các mục đích
khác trên cơ sở đó xây dựng các định mức, phương thức bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư thích hợp. Không nên xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
một cách tùy tiện. Khi tính tiền bù đắp thiệt hại cho người sử dụng đất do bị thu hồi
đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và phát triển kinh tế, các cơ quan liên quan phải căn cứ vào quy hoạch để xem
xét tính hợp lý của khu tái định cư cũng như để điều hòa lợi ích phát sinh theo quy
hoạch.
Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai (làm chấm dứt
quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà còn
“đụng chạm” đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: Lợi ích của người bị
thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu
hồi đất (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân …). Do vậy trên
thực tế việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất là xử lý hài hòa lợi
ích kinh tế giữa các bên) gặp rất khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt vấn đề bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên

nhiều phương diện;
Về phương diện chính trị
Là một nước nông nghiệp với khoảng 70% dân số là nông dân, vấn đề đất đai
ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và nhạy cảm. Các chính sách, pháp luật
về đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định về chính trị. Điều này có nghĩa là

15


nếu chủ trương, chính sách pháp luật đất đai đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và
được thực thi nghiêm túc sẽ góp phần vào việc duy trì và củng cố sự ổn định chính
trị. Ngược lại, sẽ làm phát sinh những điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định
về chính trị. Một trong các chính sách, pháp luật về đất đai được xã hội đặc biệt
quan tâm đó là chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất; bởi lẽ mảng chính sách, pháp luật này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất. Trong trường hợp bị thu hồi đất nói chung
và thu hồi đất ở nói riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trực tiếp
bị xâm hại. Họ không chỉ mất quyền sử dụng đất mà còn buộc phải di chuyển chỗ ở.
Hậu quả là cuộc sống thường nhật của họ bị đảo lộn. Với quan niệm truyền thống
của người Việt Nam “có an cư mới lạc nghiệp” thì việc bị mất đất đai, nhà cửa thực
sự là một “cú sốc” đối với người bị thu hồi đất. Do vậy, họ phản ứng rất gay gắt,
quyết liệt thông qua việc khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài nếu
không được bồi thường, tái định cư thỏa đáng. Các khiếu kiện về đất đai nói chung
và khiếu kiện về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng
tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị và dễ phát sinh thành các “điểm nóng”;
cho nên việc giải quyết tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là thực hiện tốt
chính sách an dân để phát triển kinh tế xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố sự
ổn định về chính trị.
Về phương diện kinh tế - xã hội
Thực tiễn cho thấy bồi thường, giải phóng mặt bằng luôn là công việc khó

khăn, phức tạp. Các dự án chậm triển khai thực hiện theo tiến độ đề ra có nguyên
nhân do công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng không nhận được sự đồng thuận
từ phía người dân. Xét dưới góc độ kinh tế, dự án chậm triển khai thực hiện ngày
nào là chủ đầu tư, các doanh nghiệp bị thiệt hại đáng kể về lợi ích kinh tế do máy
móc, vật tư, thiết bị bị “đắp chiếu”, người lao động không có việc làm trong khi
doanh nghiệp vẫn phải trả lương, trả chi phí duy trì các hoạt động thường xuyên và
trả lãi suất vay vốn cho Ngân hàng… Vì vậy, thực hiện tốt công tác bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất là điều kiện để doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các
16


dự án đầu tư góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao
tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Hơn nữa, duy trì được
tốc độ tăng trưởng cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, góp phần vào công cuộc “xóa đói, giảm nghèo” và tạo tiền đề cho các
bước phát triển tiếp theo;
Về phía người sử dụng đất, thực hiện tốt bồi thường, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất sẽ giúp cho họ và các thành viên khác trong gia đình nhanh chóng
ổn định cuộc sống để tập trung sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao mức sống.
Hơn nữa điều này còn giúp củng cố niềm tin của người bị thu hồi đất vào đường lối,
chủ trương, chính sách; pháp luật của Đảng và Nhà nước; đồng thời loại trừ cơ hội
để kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện, đối
đầu với chính quyền nhằm gây mất ổn định tình hình trật tự an toàn xã hội và làm
đình trệ sản xuất.
1.2. Cơ sở của việc quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
Các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa trên
những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa trên cơ sở
quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Hiến pháp năm 1946
đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản: “Quyền sở hữu về tài sản

của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12). Quyền này tiếp tục được khẳng
định trong Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác
trong doanh nghiệp… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân” ( Điều 58) [5, tr1]. Hơn nữa, Hiến pháp năm 1992 còn ghi nhận: “Tài
sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua
hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị
trường…” (Điều 23); [5, tr1]

17


×