Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về ủy quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 91 trang )

BÙI THỊ GẤM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ UỶ QUYỀN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI

BÙI THỊ GẤM

2016 - 2018
HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ UỶ QUYỀN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI

BÙI THỊ GẤM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn “ Pháp luật về ủy quyền trong hoạt động kinh doanh
thương mại” Xin cam đoan:
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
- Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn
Trí Tuệ
- Những thông tin, số liệu trong luận văn được trích dẫn trong luận văn
đầy đủ, trung thực, chính xác và có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong
các luận văn khác.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Gấm


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả quý thầy
cô đã giảng dạy trong chương trình Cao học Luật Kinh tế - Viện Đại học Mở
Hà Nội, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở
cho tôi thực hiện tốt luận văn này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Trí
Tuệ đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Thày đã

hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề
tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, cô Khoa đào tạo Sau đại học
- Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập. Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè những người
đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa
nhiều nên luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của
Thầy/Cô và các bạn học viên./.
Hà Nội, ngày … tháng… năm 2018
Học viên

Bùi Thị Gấm


MỤC MỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỦY QUYỀN TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI......................................... 6
1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh thương mại .............................. 6
1.2. Khái niệm uỷ quyền ........................................................................... 7
1.3. Hình thức thể hiện uỷ quyền ............................................................. 9
1.4. Đặc điểm hợp đồng uỷ quyền .......................................................... 11
1.4.1. Đặc điểm chung của hợp đồng uỷ quyền ...................................... 11
1.4.2. Đặc điểm đặc trưng của hợp đồng uỷ quyền trong quan hệ kinh
doanh thương mại .................................................................................. 17
1.5. Mục đích của uỷ quyền .................................................................... 18
1.6. Vai trò và ý nghĩa của uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh
thương mại .............................................................................................. 19
1.7. Kinh nghiệm quốc tế về vấn đề uỷ quyền trong hoạt động kinh

doanh thương mại ................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ỦY QUYỀN TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI....................................... 40
2.1. Quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng uỷ quyền trong hoạt
động kinh doanh thương mại ................................................................. 40
2.1.1. Nguồn luật điều chỉnh .................................................................. 40
2.1.1.1. Các văn bản trực tiếp ............................................................ 40
2.1.1.2. Các văn bản gián tiếp ............................................................ 40
2.1.2. Quy định về chủ thể của quan hệ uỷ quyền .................................. 41
2.1.2.1. Bên uỷ quyền ......................................................................... 43
2.1.2.2. Bên được uỷ quyền................................................................. 44
2.1.3. Quy định về nội dung của uỷ quyền ............................................. 46


2.1.4. Quy định về hình thức của hợp đồng............................................ 47
2.1.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ uỷ quyền .............. 50
2.1.5.1. Quyền và nghĩa vụ của bên uỷ quyền ..................................... 50
2.1.5.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được uỷ quyền ............................ 53
2.1.6. Quy định về thời hạn uỷ quyền .................................................... 57
2.1.7. Quy định về chấm dứt hợp đồng uỷ quyền ................................... 57
2.2. Thực trạng vận dụng quy định pháp luật về hợp đồng uỷ quyền
trong hoạt động kinh doanh thương mại ............................................... 59
2.2.1. Chủ thể hợp đồng uỷ quyền ......................................................... 60
2.2.2. Đối tượng của hợp đồng uỷ quyền ............................................... 64
2.2.3. Một số tranh chấp thực tế liên quan đến đại diện trong quan hệ hợp
đồng....................................................................................................... 65
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
HỢP ĐỒNG UỶ QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
THƯƠNG MẠI .......................................................................................... 73
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng uỷ quyền ......... 73

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về hợp đông uỷ
quyền ....................................................................................................... 73
3.2.1. Quy định về chủ thể của hợp đồng ............................................... 73
3.2.2. Quy định về hình thức của hợp đồng uỷ quyền ............................ 75
3.2.3. Quy định về nội dung của hợp đồng uỷ quyền ............................. 79
3.2.4. Quy định về chấm dứt hợp đồng .................................................. 80
KẾT LUẬN ................................................................................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 83


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1986 đánh dấu bước chuyển mình của Việt Nam thay đổi từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp cổ hủ, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế
và xã hội trong một thời gian dài sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhiều thành phần với sự quản lý sâu rộng của Nhà nước. Từ
thời điểm 1986 cho đến nay, qua bao giai đoạn phát triển của xã hội, trong
giai đoạn kinh tế thị trường này, những giao dịch về dân sự, thương mại trở
nên phổ biến hơn trong đời sống xã hội. Tuy nhiên có một thực tế là các chủ
thể khi tham vào các quan hệ giao dịch này có thể do những yếu tố, hoàn cảnh
khác nhau không phải lúc nào cũng có thể tự mình thực hiện các giao dịch mà
cần phải thông qua người được uỷ quyền. Các vấn đề về uỷ quyền có tầm
quan trọng đối với đời sống xã hội, là hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt
trên lĩnh vực kinh doanh thương mại đồng thời nó cũng là công cụ thúc đẩy
sự phát triển xã hội.
Hiện nay, pháp luật về uỷ quyền chủ yếu nằm trong Luật Thương mại
2005, Bộ luật dân sự 2015 và rải rác trong một số luật, văn bản khác. Quan hệ
uỷ quyền từ luật đi ra thực tế còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Việt Nam

đang trên đà phát triển như hiện nay, nhiều quy định còn chưa thể hiện được
xu thế chung, chưa phù hợp với một số quan điểm pháp lý phổ biến, được
nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và thực hiện
Các tranh chấp liên quan đến uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh
thương mại rất phổ biển cần có những giải pháp pháp lý phù hợp, kịp thời để
giải quyết và hạn chế phần nào các tranh chấp liên quan. Luận văn “Pháp luật
uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại” sẽ nghiên cứu một cách
toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về uỷ quyền trong
hoạt động kinh daonh thương mại, xem xét cụ thể các quy định pháp luật Việt


2

Nam về vấn đề này, từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện về những hạn chế, thiếu
xót của hệ thống pháp luật và đề xuất một một số giải pháp mang tính hoàn
thiện để phần nào giúp cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp luật Việt Nam
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các vấn đề pháp lý về uỷ quyền thực sự vô cùng phức tạp trong đời
sống xã hội, là mảnh đất màu mỡ đối với hoạt động nghiên cứu. Xuất phát từ
lý do này, trước khi bài nghiên cứu này được thực hiện cũng đã có một số
công trình nghiên cứu đã được tiến hành thực hiện, có thể kể đến như:
Luận văn thạc sĩ “Quan hệ đại diện theo uỷ quyền trong hoạt động
thương mại” do Ths. Định Thị Thanh Thuỷ do Tiến sĩ luật học Nguyễn Am
Hiểu hướng dẫn năm 2004.
Luận văn thạc sĩ “Hợp động uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam” do
Ths. Nguyễn Thị Lan Hương thực hiện năm 2008.
Luận văn thạc sĩ “Hợp đồng uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam và pháp
luật nước ngoài” của Ths. Nguyễn Thị Hạ do TS. Trần Minh Ngọc hướng
dẫn năm 2012.

Luận văn thạc sĩ “Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp
đồng” của Ths. Đỗ Hoàn Yến do TS. Ngô Huy Cương hướng dẫn năm 2012.
Ngoài ra còn một số cuốn sách, bài viết chuyên ngành nghiên cứu về
quan hệ uỷ quyền như: “Pháp luật về hợp đồng” của TS Nguyễn Mạnh Bách
(1995), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Dương
Đăng Huệ (2002), “Chế định hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không tồn tại”
của GS.TS Lê Hồng Hạnh (2003), “Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi
pháp luật Việt Nam về hợp đồng” (2004), “Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
và vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Hữu
Nghị (2005), “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của TS Phan Chí Hiếu,….


3

Các công trình nghiên cứu này đã được thực hiện từ lâu, hoàn cảnh xã
hội hiện nay đã không còn phù hợp và cần phải có những sự nghiên cứu
chuyên sâu hơn, mặt khác thì những sự nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về
uỷ quyền vấn chưa thực sự nhiều. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu
tập trung, chuyên sâu về quan hệ uỷ quyền thì chưa có nhiều,các công trình
khoa học liên quan chỉ dừng lại ở nghiên cứu khái quát, nghiên cứu vấn đề
này trong cái tổng thể, hay trong phạm vi hẹp về pháp luật về uỷ quyền, đặc
biệt là ủy quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại.
3. Mục đích - nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về uỷ quyền
trong hoạt động kinh doanh thương mại. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất định
hướng các giải pháp hoàn thiện pháp luật về uỷ quyền nói chung và về uỷ
quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng, góp phần làm cho
những quy định pháp luật về uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh thương
mại có tính thực tiễn cao hơn, giải quyết và hạn chế tốt hơn các tranh chấp
liên quan và góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về uỷ quyền trong hoạt động
kinh doanh thương mại.
+ Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về uỷ
quyền. Từ đó đưa ra những đánh giá về ưu, nhược điểm của những quy định
pháp luật cụ thể này.
+ Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những vấn đề lý luận khái quát


4

về uỷ quyền; những quy định pháp luật cụ thể về uỷ quyền trong hoạt động
kinh doanh thương mại; và tình hình thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật về
lĩnh vực này.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu các khía
cạnh của uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, luận
văn chỉ giới hạn nghiên cứu sâu về uỷ quyền cho các quan hệ hợp đồng trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại. Trên cơ sở những nghiên cứu này sẽ đưa ra
những nhận định sâu sắc, từ đó góp phần vào việc phát triển quan hệ hợp
đồng (có hoạt động uỷ quyền) trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ
nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam
về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
Phương pháp tổng hợp, phân tích, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn.

6. Những đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về uỷ
quyền và cụ thể là uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại. Từ đó
luận giải về một số những vấn đề cơ bản và đưa ra cách nhìn mới về những
vấn đề này.
- Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật Việt Nam điều
chỉnh về uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại. Trên cơ sở chỉ ra
những điểm bất cập, hạn chế, luận văn khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này, tạo ra một hành lang pháp lý an
toàn cho quan hệ uỷ quyền cũng như hạn chế phần nào những tranh chấp liên
quan có thể xảy ra.
- Trên cơ sở nghiên cứu xu hướng phát triển và thực tiễn áp dụng pháp


5

luật về uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại ở một số nước và
Việt Nam, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở Việt Nam.
Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về ủy quyền trong hoạt động kinh
doanh thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về ủy quyền trong hoạt động kinh
doanh thương mại
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng uỷ
quyền trong hoạt động kinh doanh thương mại.
Kết luận



6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỦY QUYỀN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI

1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh thương mại
Hoạt động kinh doanh thương mại có thể hiểu là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thương mại của thương nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân có liên quan bao
gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động
xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc thực hiện chính sách kinh
tế xã hội.
Trong định nghĩa trên có đề cập đến khái niệm “thương nhân”. Theo
quy định của Luật Thương mại 2005, thương nhân có thể là cá nhân có đủ
năng lực hành vi dân sự hay các hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật.
Hoạt động kinh doanh thương mại có chức năng tổ chức và thực hiện
việc mua bán trao đổi hàng hoá, cung cấp các dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất
và đời sống nhân dân. Hoạt động kinh doanh thương mại là khâu trung gian
nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng.1
Hoạt động kinh doanh thương mại gồm có những đặc điểm sau:
- Về hoạt động: Hoạt động kinh tế cơ bản là lưu chuyển hàng hoá (Lưu
chuyển hàng hoá là sự tổng hợp các hoạt động thuộc quá trình mua bán trao
đổi và dự trữ hàng hoá).
- Về hàng hoá: Hàng hoá trong kinh doanh thương mại gồm các loại vật
tư, sản phẩm có hình thái vật chất và phi vật chất mà doanh nghiệp mua về
với mục đích để bán.
1


/>

7

- Về phương thức lưu chuyển hàng hoá: Hoạt động kinh doanh thương
mại có 2 hình thức lưu chuyển chính là bán buôn, bán lẻ.
- Về tổ chức kinh doanh: có thể theo nhiều mô hình khác nhau như tổ
chức bán buôn, bán lẻ, công ty kinh doanh tổng hợp, công ty môi giới, công
ty xúc tiến thương mại...
- Về sự vận động của hàng hoá; sự vận động của hàng hoá không giống
nhau, tuỳ thuộc vào nguồn hàng và ngành hàng (hàng lưu chuyển trong nước,
hàng xuất nhập khẩu..). Do đó chi phí thu mua và thời gian lưu chuyển hàng
hoá cũng khác nhau giữa các loại hàng.
1.2. Khái niệm uỷ quyền
Trước khi đi vào tìm hiểu về uỷ quyền, trước tiên cần tìm hiểu về nguồn
gốc của nó là chế định đại diện. Có thể nói rằng hầu hết các trường hợp trong
đời sống dân sự, các chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự thường tự mình
xác lập các giao dịch bởi nhiều lý do khác nhau ví dụ như họ muốn cẩn trọng
và đảm bảo tốt nhất các quyền lợi về mình. Tuy nhiên không phải lúc họ cũng
có thể tự mình làm công việc này, vì nhiều lý do khách quan như ốm, bệnh,
bận công việc…, cá nhân phải cần đến sự giúp đỡ của người khác. Ngoài ra,
trong xã hội hiện đại, vai trò của tư vấn pháp luật để giải quyết các vấn đề
pháp lý phức tạp cần có sự chuyên môn hóa cao ngày càng được coi trọng. Đó
là chưa kể nếu không có chế định đại diện thì những người không có năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi sẽ không thể tham gia vào các
quan hệ giao dịch dân sự. Vì vậy, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa pháp lý của mình,
chế định đại diện giúp cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ giao dịch dân
sự có thể sử dụng tri thức, khả năng, kinh nghiệm của người đại diện và tiếp
nhận kết quả từ hành vi pháp lý của người đó. Đại diện là chế định có chức

năng trợ giúp xã hội, là một trong những thành quả của trí tuệ pháp lý của loài
người, mang tính nhân văn, nhân đạo.


8

Quan hệ đại diện phát sinh từ các căn cứ:
- Đại diện theo pháp luật: bao gồm đại diện theo quy định của pháp luật
và theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Đại diện theo ủy quyền: Theo hợp đồng ủy quyền.
Thẩm quyền đại diện của một người đối với chủ thể khác chỉ phát sinh
trên hai căn cứ đó mà không có căn cứ nào khác.
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định dựa trên các
tiêu chí: Do quan hệ đặc biệt giữa người được đại diện và người đại diện mà
phát sinh quan hệ đại diện đương nhiên (cha mẹ và con, vợ và chồng…);
Quan hệ đại diện phát sinh trên cơ sở một quan hệ pháp lý khác (giám hộ, lao
động, hợp tác…); Việc đại diện do cơ quan nhà nước (chủ yếu là Tòa án)
quyết định khi sự đại diện là cần thiết đối với người bị hạn chế, bị mất năng
lực hành vi. Điểm đặc thù của quan hệ đại diện theo pháp luật là bên cạnh
việc thực hiện hành vi đại diện, người đại diện còn thực hiện các chức năng
khác được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của người được đại
diện. Người đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền đại diện cho người khác
thực hiện một hoặc một số hành vi pháp lý cụ thể trong một thời hạn nhất
định mà không có quyền giao toàn bộ thẩm quyền đại diện cho người khác.
Trong trường hợp đó, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm
trước người được đại diện về việc thực hiện đúng đắn nghĩa vụ đại diện.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa
người đại diện và người được đại diện. Hình thức ủy quyền do các bên thỏa
thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành
văn bản. Tùy theo tính chất của việc đại diện mà hình thức hợp đồng có thể

đơn giản hoặc phức tạp khác nhau. Pháp luật dân sự không hạn chế một chủ
thể có quyền ủy quyền cho người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
nhân danh mình và vì lợi ích của mình xác lập và thực hiện các quyền và


9

nghĩa vụ dân sự, trừ những trường hợp mà pháp luật quy định phải do chính
người đó thực hiện. Phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác định cụ thể
trong văn bản ủy quyền. Quyền đại diện theo ủy quyền phụ thuộc vào loại ủy
quyền: ủy quyền một lần, ủy quyền riêng biệt hay ủy quyền chung. Ủy quyền
một lần chỉ cho phép thực hiện đại diện để thực hiện một hành vi nhất định
(nhận giúp bưu kiện, nhận tiền lương, bán một ngôi nhà…). Ủy quyền riêng
biệt quy định thẩm quyền đại diện trong một thời gian nhất định, đối với một
loại hành vi nhất định (đại diện cho chủ sở hữu thu tiền nhà trong một thời
gian). Theo ủy quyền chung, thẩm quyền đại diện có hiệu lực đối với nhiều
loại hành vi trong một thời gian nhất định.
Có thể hiểu rằng ủy quyền là việc một người giao cho người khác sử
dụng một số quyền mà pháp luật đã trao cho mình. Vấn đề ủy quyền là vấn đề
cơ bản trong các quan hệ giao dịch mà không dừng lại ở quan hệ hợp đồng
dân sự thông thường, nó điều chỉnh tư cách của người được uỷ quyền và thẩm
quyền của người ủy quyền mà vấn đề này không dừng lại trong lĩnh vực dân
sự mà sẽ điều chỉnh hết tất cả các lĩnh vực khác bao gồm cả hoạt động kinh
doanh thương mại.
1.3. Hình thức thể hiện uỷ quyền
Cá nhân, tổ chức lựa chọn hình thức ủy quyền phù hợp với nội dung
cần ủy quyền sẽ tạo thuận lợi cho người được uỷ quyền theo ủy quyền trong
việc xác lập, thực hiện nội dung ủy quyền. Do đó, việc chọn hình thức ủy
quyền do bên ủy quyền và bên được ủy quyền tự thỏa thuận với nhau, có thể
bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác.

a. Ủy quyền bằng lời nói
Đối với những giao dịch dân sự cơ bản không đòi hỏi nhiều về mặt
hình thức, giữa các chủ thể có uy tín, trách nhiệm, độ tin cậy lẫn nhau từ trước
thì bên được ủy quyền và bên ủy quyền có thể lựa chọn hình thức ủy quyền


10

bằng “lời nói” (trừ những trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải
lập thành văn bản). Ví dụ: vì đang đi công tác ở nên ông A có nhờ (bằng lời
nói) với ông B (người thân của ông mà ông tin tưởng nhất) đến nhà ông C lấy
lại khoản vay mà ô C đã vay của ông A từ trước đó, ông C giao tiền cho ông
B để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông A và ông B giao số tiền đã nhận từ
ông C cho ông A. Như vậy, ông A và ông B đã xác lập quan hệ uỷ quyền,
hình thức ủy quyền ở đây là bằng lời nói.
b. Ủy quyền bằng văn bản
- Hình thức ủy quyền bằng giấy giới thiệu (quyết định, công văn, thông
báo...): đây là hình thức ủy quyền bằng văn bản đơn giản nhất, mang tính chất
đặc thù của cơ quan, tổ chức. Thông qua việc ủy quyền này, lãnh đạo gián
tiếp cử, phân công người khác thay mình liên hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân
để thực hiện một hoặc một số công việc liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ,
nhiệm vụ của bên ủy quyền. Bên được uỷ quyền sẽ thực hiện các quyền hạn,
trách nhiệm mà bên uỷ quyền giao trong phạm vi pháp luật quy định, tính hợp
pháp của nó được thể hiện thông qua con dấu của bên uỷ quyền. Về phía cơ
quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận văn bản ủy quyền này, họ sẽ căn cứ vào tư
cách pháp nhân, địa vị pháp lý của người ký văn bản ủy quyền để thực hiện
các nội dung ủy quyền trong văn bản đó, là cơ sở pháp lý ràng buộc trách
nhiệm, quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Hình thức ủy quyền bằng giấy ủy quyền: hình thức ủy quyền này
được áp dụng rộng rãi nhất, phù hợp với nhiều loại nội dung ủy quyền. Tính

hợp pháp của giấy ủy quyền là việc chứng thực của cơ quan có thẩm quyền
hoặc chứng nhận của Công chứng viên. Đối với giấy ủy quyền, cơ quan có
thẩm quyền chỉ chứng thực chữ ký hoặc điểm chỉ của bên ủy quyền là giấy ủy
quyền có giá trị pháp lý, không bắt buộc phải chứng thực nội dung trong giấy
ủy quyền hoặc chữ ký của bên được ủy quyền. Bên được ủy quyền chấp nhận


11

nội dung ủy quyền bằng các hành vi cụ thể nhằm xác lập, thực hiện nội dung
ủy quyền; trong quá trình thực hiện đại diện ủy quyền, người được ủy quyền
phải xuất trình giấy tờ tùy thân để chứng minh với bên tiếp nhận giấy ủy
quyền về nhân thân của mình đúng là người được ủy quyền. Đặc điểm của
giấy ủy quyền là bố cục tùy nghi, nội dung linh hoạt, điều này rất thuận lợi
trong việc soạn thảo văn bản ủy quyền và việc chứng thực tính xác thực về
chữ ký, điểm chỉ của cơ quan có thẩm quyền, phù hợp với người làm công tác
chứng thực chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc áp
dụng hình thức ủy quyền bằng giấy ủy quyền có những hạn chế nhất định, do
nội dung trong giấy ủy quyền thường linh hoạt nên dễ bỏ sót những điều
khoản ràng buộc nghĩa vụ của các bên tham gia xác lập ủy quyền; khi có
tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền khó xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của
các bên để áp dụng phạm vi bồi thường thiệt hại.
- Hình thức ủy quyền bằng hợp đồng ủy quyền: là hình thức văn bản ủy
quyền chặt chẽ nhất so với các hình thức ủy quyền bằng văn bản nêu trên. Ưu
điểm nổi bật của hình thức này là cơ sở pháp lý vững chắc, nội dung thỏa
thuận của các bên về quyền lợi và nghĩa vụ được thể hiện rõ tại các điều
khoản cụ thể trong hợp đồng. Đây là những cơ sở pháp lý để xem xét trách
nhiệm của các bên xác lập hợp đồng ủy quyền, là cơ sở để xác định lỗi và
phạm vi bồi thường thiệt hại nếu có tranh chấp xảy ra.
1.4. Đặc điểm hợp đồng uỷ quyền

1.4.1. Đặc điểm chung của hợp đồng uỷ quyền
a. Chủ thể được phép tham gia với tư cách là người nhận ủy quyền có
thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định mới nhất của Bộ luật Dân sự
2015.
Đây là điểm đặc biệt vì trong đời sống pháp luật có rất nhiều chủ thể
khác nhau. Đó có thể là một cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình hoặc pháp nhân,
tổ chức, đại diện cho tất cả những chủ thể này phải là có thể là một con người


12

có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật hoặc là một pháp nhân.
- Đối với cá nhân, năng lực pháp luật là khả năng của cá nhân có quyền
và nghĩa vụ dân sự. Nó có từ khi con người sinh ra cho đến khi con người
chết đi và không thể đương nhiên bị bác bỏ, hạn chế ngoại trừ pháp luật quy
định trong những trường hợp đặc biệt. Điểm đặc biệt là mọi cá nhân đều bình
đẳng về năng lực pháp luật dân sự. Vì vậy, nếu người đại diện không có năng
lực pháp luật thì đương nhiên người đó không thể có đủ khả năng để làm
người đại diện. Khác với cá nhân, năng lực pháp luật của pháp nhân, tổ chức
không mặc nhiên mà có. Nó chỉ tồn tại khi pháp nhân, tổ chức đó tồn tại và
chấm dứt khi pháp nhân, tổ chức đó không còn. Năng lực pháp luật của pháp
nhân hay tổ chức phải phù hợp với mục đích hoạt động của nó. Điều này sẽ
dẫn đến việc năng lực pháp luật của các pháp nhân, tổ chức khác nhau sẽ có
sự khác nhau. Sự khác nhau này thể hiện ngay ở chính mục đích và lĩnh vực
hoạt động mà điều lệ của tổ chức đó ghi nhận và cho phép. Hoạt động của
pháp nhân không thể ra ngoài phạm vi khuôn khổ điều lệ của mình và giới
hạn pháp luật cho phép thực hiện.2
- Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Chỉ có thông qua
những hành vi cụ thể của mỗi một cá nhân con người mới có thể tác động đến

những chủ thể khác, tác động đến tài sản và xác lập các quyền lợi và nghĩa vụ
của họ đối với người khác. Tuy nhiên, đối với các chủ thể không phải là cá
nhân thì nó không thể tự mình thực hiện hành vi, mà phải thông qua người đại
diện mới có thể tạo ra các mối quan hệ với những chủ thể khác. Các hoạt
động của pháp nhân, tổ chức hoặc một nhóm người đối với một người thứ ba
sẽ phải thông qua đại diện để đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động, và về
nguyên tắc sẽ chỉ có duy nhất một người đại diện. Chúng ta sẽ thấy mặc dù
2

/>

13

chỉ có duy nhất một người đại diện cho một tổ chức nhưng tại cùng một thời
điểm, một tổ chức có cùng lúc nhiều hoạt động, nhiều mối quan hệ khác nhau
do nhiều người cùng lúc đại diện cho tổ chức đó để thực hiện. Tất cả các tư
cách đại diện đó đều xuất phát từ cơ chế ủy quyền của người đại diện theo
pháp luật mà có. Người được đại diện này cũng luôn phải đảm bảo có đầy đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Theo quy định pháp luật thì pháp
nhân cũng có thể tham gia quan hệ uỷ quyền với tư cách đại diện. Pháp nhân,
tổ chức đó, trong khuôn khổ điều lệ hoạt động của mình được pháp luật ghi
nhận có các nội dung hoạt động về các lĩnh vực có thể đại diện và sẽ giới hạn
ở một số lĩnh vực hoạt động mang tính chất đặc thù, công việc cụ thể. Trong
một số trường hợp đặc thù được luật pháp ghi nhận, vì một mục tiêu, nhiệm
vụ nhất định, một số tổ chức cũng được giao quyền đại diện cho các cá nhân
trong một phạm vi những quan hệ khá đặc biệt (các tổ chức bảo vệ quyền lợi
của phụ nữ, trẻ em….). Trong một số trường hợp khác, cơ chế đại diện vẫn là
những hợp đồng giữa các bên nhưng nó chỉ có thể gói gọn trong phạm vi hoạt
động kinh doanh ngành nghề đã được đăng ký như hoạt động đấu giá, hoạt
động dịch vụ kinh doanh bất động sản, dịch vụ chứng khoán…. Thông

thường, những hoạt động đại diện này mặc dù thuộc phạm vi hoạt động của
một tổ chức nhưng lại gắn chặt với từng con người cụ thể, thỏa mãn một số
yêu cầu, điều kiện của pháp luật thì mới có khả năng thực hiện được, hoặc
người thực hiện nghiệp vụ của tổ chức phải thỏa mãn một số yêu cầu, điều
kiện của pháp luật.
b. Người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người khác khi thực hiện
việc đại diện
Người đại diện có thể được trao cho nhiều quyền và các trách nhiệm
khác nhau nhưng mọi công việc, hoạt động, hành vi của người đại diện luôn
phải được thực hiện vì lợi ích của người được đại diện và trong phạm vi được


14

cho phép. Người đại diện hoạt động không nhân danh chính bản thân mình và
không được vì lợi ích của mình. Bản chất của đại diện là thực hiện công việc
theo uỷ quyền vì lợi ích của người giao đại diện, vì vậy người đại diện phải nỗ
lực hết mình để thực hiện các công việc được đại diện sao cho có lợi, vì lợi ích
của người mà mình đã đại diện. Người đại diện cho pháp nhân cũng không
ngoại lệ, họ phải luôn vì lợi ích của pháp nhân, tổ chức của mình và không thể
vì lợi ích cá nhân. Chính vì vậy mà người đại diện không được phép xác lập,
thực hiện các giao dịch với chính mình hoặc với người khác mà mình cũng là
người đại diện của người đó, trừ một số trường hợp đặc thù. Trong một số
trường hợp đặc thù, pháp luật có cho phép người đại diện được phép thực hiện
một số loại giao dịch này, nhưng để đảm bảo quyền lợi của người được đại
diện và tính khách quan của các giao dịch, pháp luật có những ràng buộc bằng
một số điều kiện, trình tự, thủ tục nhất định cho những trường hợp. Trong
trường hợp người được đại diện, vì một mục đích nào đó hoặc vì lợi ích của
bản thân, thực hiện công việc gây ra bất lợi hoặc thiệt hại cho người đã ủy
quyền, thì người đã ủy quyền có quyền khởi kiện để yêu cầu người được ủy

quyền bồi thường thiệt hại. Đồng thời, người được ủy quyền phải giao trả đầy
đủ tất cả mọi văn bản, giấy tờ, toàn bộ các khoản tiền, tài sản và tất cả lợi ích
thu được khi thực hiện các công việc được ủy quyền cho người đã ủy quyền.
Đây là nghĩa vụ của người được ủy quyền. Hợp đồng, giao dịch được ký kết và
thực hiện giữa người đại diện với chính mình hoặc với người thứ ba cũng do
chính mình là người đại diện có thể bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật. Điều này cũng cho thấy người đại diện và người được đại diện không thể
là những người có quyền, lợi ích trái ngược, xung đột.
c. Đối tượng của giao dịch ủy quyền chỉ đơn thuần là công việc có thể
thực hiện và được phép thực hiện.
Khác với các giao dịch khác, đối tượng của hợp đồng ủy quyền là các


15

công việc, hay nói cách khác là các hành vi cụ thể. Có thể các công việc này
có liên quan tới một tài sản nào đó, nhưng điều đó không có nghĩa tài sản này
là đối tượng của giao dịch. Một chủ sở hữu tác động tới tài sản, thực hiện các
quyền của mình thông qua những hành vi. Trường hợp họ không có khả năng
trực tiếp thực hiện thì bằng ý chí, hành vi của mình, họ có quyền thỏa thuận
với chủ thể khác có đủ điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi để
đại diện cho chủ sở hữu thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản
thông qua những công việc cụ thể được thỏa thuận giữa chủ tài sản và người
đại diện cho chủ tài sản. Thỏa thuận ủy quyền có người khác đại diện cho chủ
sở hữu không làm mất đi tư cách của chủ sở hữu đối với tài sản. Các nội dung
được ủy quyền chỉ là những công việc, hành vi cụ thể. Cũng chính vì vậy mà
người được ủy quyền không được phép vượt quá nội dung được ủy quyền, và
sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người ủy quyền nếu vượt quá nội dung này.
Đồng thời cũng chính điều này sẽ dẫn tới quan hệ ủy quyền đương nhiên bị
chấm dứt nếu người ủy quyền đó bị mất năng lực hành vi ví dụ như người đại

diện là cá nhân đã chết hoặc pháp nhân đã chấm dứt sự tồn tại. Vì vậy, người
ủy quyền chỉ có khả năng thực hiện giao dịch ủy quyền nếu họ là người có
quyền thực hiện các công việc, hành vi đó. Do vậy, trong những trường hợp
mà họ không có, không còn các quyền hoặc các quyền đó bị hạn chế vì một lý
do nào đó như có bản án, quyết định hành chính hoặc thông qua những thỏa
thuận đối với chủ thể khác qua các giao dịch dân sự, thì họ sẽ không thể ủy
quyền những công việc đó cho người khác để thực hiện được.
d. Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân
sự do người đại diện xác lập.
Trên thực tế, người đại diện thực hiện các công việc vì lợi ích của
người được đại diện chứ không vì lợi ích của mình. Mặt khác, người được đại
diện mới là người có quyền. Chính vì vậy, mọi vấn đề phát sinh từ quan hệ


16

đại diện, dù là đại diện theo ủy quyền luôn tạo ra quyền và nghĩa vụ cho chính
người được đại diện. Người đại diện theo ủy quyền có quyền và nghĩa vụ với
người được đại diện theo thỏa thuận tại hợp đồng ủy quyền và quy định của
pháp luật. Đối với trường hợp đại diện theo pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
người đại diện với người thứ ba trong giao dịch chỉ đơn thuần là các quyền,
nghĩa vụ mà luật quy định. Nhưng trong mọi trường hợp, các thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ giữa người đại diện và người được đại diện theo ủy quyền
không bao giờ có thể ràng buộc được người đại diện phải chịu trách nhiệm
với tư cách là chủ sở hữu của tài sản hoặc đương nhiên phải chịu trách nhiệm
đối với người thứ ba. Vì vậy, không thể tồn tại thỏa thuận “người được ủy
quyền phải hoàn toàn chịu mọi trách nhiệm khi thực hiện các công việc được
ủy quyền với người thứ ba”. Điều này cũng phù hợp với quy định người đã
giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc
hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ

giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết
hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch. Trường
hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người
được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
e. Phạm vi đại diện theo ủy quyền.
Trường hợp các bên lập hợp đồng ủy quyền để chỉ định người đại diện,
thì người đại diện chỉ được phép thực hiện chính xác các công việc được ghi
trong hợp đồng ủy quyền. Người đại diện không thể thực hiện các công việc
không được ghi nhận. Đây là phạm vi mà người đại diện được phép thực hiện
và không thể bước ra ngoài phạm vi này. Các công việc khi được ủy quyền sẽ
chỉ được phép làm trong phạm vi nội dung đã được uỷ quyền. Không thể sử
dụng lập luận rằng các công việc này có liên quan đến những công việc được


17

ủy quyền thì được phép thực hiện.
Mỗi pháp nhân có thể có nhiều cá nhân, pháp nhân làm đại diện và
trong thời hạn uỷ quyền, trong phạm vi uỷ quyền mà pháp luật cho phép. Các
ủy quyền này thông thường là các ủy quyền mang tính chất thường xuyên, có
tính chất quản trị hành chính nội bộ của doanh nghiệp. Mỗi tổ chức sẽ xác
định các nội dung ủy quyền này phù hợp với tính chất và mục tiêu hoạt động
cũng như cơ cấu tổ chức của chính mình. Tuy nhiên, người được ủy quyền
này cũng không thể vượt ra khỏi phạm vi được ủy quyền hay nói cách khác là
vượt khỏi thẩm quyền của mình. Mặc dù có nhiều công việc có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau nhưng nếu không có những ủy quyền đó thì người được ủy
quyền cũng không được phép thực hiện.
1.4.2. Đặc điểm đặc trưng của hợp đồng uỷ quyền trong quan hệ kinh
doanh thương mại

- Về bản chất: Đại diện thương mại là quan hệ trung gian thương mại,
quan hệ đại diện theo ủy quyền. Hoạt động này chỉ được diễn ra khi một chủ
thể có nhu cầu giao công việc cho một chủ thể khác thay mình thực hiện. Đây
cũng là một trong bốn hoạt động trung gian thương mại
- Về chủ thể: Bao gồm bên đại diện và bên giao đại diện. Bên giao đại
diện thương nhân có quyền thực hiện các hoạt động thương mại nhất định
theo quy định của pháp luật, tiến hành ủy quyền công việc đó cho một thương
nhân khác. Bên đại diện là thương nhân thực hiện hoạt động trung gian
thương mại, cung ứng dịch vụ, đại diện một cách chuyên nghiệp để kiếm lợi
nhuận.
- Tư cách pháp lý trong giao dịch với người thứ ba: Trong quan hệ đai
diện thương mại, bên đại diện nhân danh bên giao dịch với chủ thể thứ ba.
Giao dịch với bên thứ ba sẽ do bên đại diện thực hiện thông qua sự ủy quyền
của bên giao đại diện.


18

Trong phạm vi ủy quyền, bên đại diện được giao dịch với bên thứ ba,
mọi hành vi bên đại diện trực tiếp đem lại hậu quả pháp lý cho bên giao đại
diện. Vì thế, mối quan hệ và sự ràng buộc giữa bên giao đại diện và bên đại
diện là vô cùng chặt chẽ.
- Về mục đích: hoạt động đại diện thương mại mang tính chất lợi
nhiaanj. Do đó, quan hệ đại diện thương mại luôn mang tính song vụ, đền bù.
- Nội dung và phạm vi của hoạt động đại diện thương mại: do các bên
tham gia quan hệ thỏa thuận, bao gồm một phần hoặc tòa bộ các hoạt động
thương mại thuộc phạm vi hoạt động của bên giao đại diện. Nội dung phamjvi
đại diện gắn với các hoạt động thương mại. Hoạt động đại diện thương mại
thường khá rộng, được tiến hành trong suốt thời gian đại diện, không giới hạn
vào một vụ việc cụ thể. Bên đại diện được có thể được ủy quyền tiến hành một

hoặc nhiều hoạt động từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư như nghiên cứu thị trường,
lựa chọn, đàm phán với đối tác đến giai đoạn ký kết, thực hiện hợp đồng.
- Cơ sở pháp lý: Hợp đồng đại diện thương mại. Hợp đồng đại diện
thương mại là hợp đồng dịch vụ trung gian thương mại. Bên cung cấp dịch vụ
trung gian thương mại là bên đại diện, bên sử dụng dịch vụ là bên giao đại
diện. Hợp đồng đại diện thương mại bắt buộc phải được lập thành văn bản
hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Pháp luật hiện nay
không có quy định về các điều khoản bắt buộc của hợp đồng đại diện thương
mại mà các bên có quyền tự do thỏa thuận khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên,
các bên khi giao kết cần thỏa thuận về các điều khoản: phạm vi đại diện, thời
hạn, thù lao, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng, hình thức giải quyết tranh chấp.
1.5. Mục đích của uỷ quyền
Mục đích của hợp đồng ủy quyền là tạo điều kiện cho các chủ thể khi
tham gia vào quan hệ uỷ quyền có thể đạt được nhu cầu khi không có điều
kiện hoặc không muốn thực hiện một công việc nào đó.


19

Việc thực hiện công việc trong hợp đồng ủy quyền là rất rộng. Hơn
nữa, người được ủy quyền trong một phạm vi nhất định có thể quyết định việc
thực hiện các hành vi và việc thực hiện các hành vi này lại phát sinh trách
nhiệm của bên ủy quyền. Do đó, trong hợp đồng ủy quyền thường quy định
khá rõ về thẩm quyền đại diện. Khi phát sinh vấn đề ủy quyền lại thì phải
được sự chấp thuận của người ủy quyền ban đầu và việc ủy quyền lại không
được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu. Nghĩa là chỉ được ủy quyền lại
trong nội dung được uỷ quyền trước đó. Nếu vượt quá phạm vi ủy quyền ban
đầu thì phần vượt quá đó không có hiệu lực đối với người ủy quyền ban đầu.
1.6. Vai trò và ý nghĩa của uỷ quyền trong hoạt động kinh doanh thương

mại
Một cá nhân, một tổ chức trong một thời gian nhất định không chỉ tham
gia một giao dịch dân sự mà còn tham gia nhiều giao dịch dân sự. Trên thực
tế, không phải ai cũng có điều kiện trực tiếp tham gia vào tất cả các giao dịch.
Có thể vì một lý do nào đó như không có thời gian, sức khỏe hoặc không có
khả năng về chuyên môn. Vì vậy, pháp luật cho phép nếu những chủ thể này
không có điều kiện trực tiếp thực hiện những giao dịch đó họ có thể uỷ quyền
cho nguời thứ ba, thay mặt mình tham gia các giao dịch dân sự.
Theo quan niệm truyền thống thì hợp đồng uỷ quyền được hiểu như là
một công việc mà việc thực hiện công việc này mang tính chất tương trợ, giúp
đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Những người uỷ quyền thường là những người
do không thu xếp được công việc, do sức khoẻ, hoặc do ở xa, ... Vì vậy, có
thể nhờ người khác thực hiện công việc của mình. Người thực hiện uỷ quyền
có thể là những người thân thiết, việc thực hiện những công việc này mang
nặng vật chất, không đặt vấn đề về về thù lao và lợi nhuận.
Ngày nay, quan niệm về uỷ quyền và hợp đồng uỷ quyền đã có sự thay
đổi, ngoài ý nghĩa truyền thống, hợp đồng uỷ quyền còn được coi là một dịch


×