Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản tại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN HÀNH NGHỀ ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN TẠI VIỆT NAM- THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP

ĐỖ THỊ HOÀI

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN HÀNH NGHỀ ĐẤU GIÁ TÀI
SẢN TẠI VIỆT NAM- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
ĐỖ THỊ HOÀI

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

Người hướng dẫn khoa học:

TS. ĐỒNG NGỌC BA

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Hoài


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban giám hiệu, phòng
Sau Đại học, Khoa Đào tạo sau đại học– Viện Đại học Mở Hà Nội, các thầy giáo,
cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn đặc biệt đến TS. Đồng Ngọc Ba – người đã trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ về kiến thức, tài liệu và phương pháp để tôi hoàn thành đề tài
nghiên cứu khoa học này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo và gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã động viên, cổ vũ, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song có thể
còn có những mặt hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự

chỉ dẫn của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Hoài


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN HÀNH
NGHỀ ĐẦU GIÁ TÀI SẢN .................................................................................. 7
1.1. Lý thuyết về đấu giá tài sản và điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ............... 7
1.1.1. Khái niệm về đấu giá tài sản ................................................................... 7
1.1.2. Điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ........................................................ 8
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của điều kiện hành nghề đấu giá tài sản .................... 10
1.1.4. Vai trò của pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ................. 13
1.2. Nội dung pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ....................... 14
1.2.1. Quy định về đấu giá viên ...................................................................... 14
1.2.2. Quy định về tổ chức đấu giá tài sản ...................................................... 18
1.3. Các yếu tố hưởng đến nội dung của pháp luật về điều kiện hành nghề đấu
giá tài sản ............................................................................................................. 20
1.3.1. Đường lối chính sách của Đảng ............................................................ 21

1.3.2. Nhu cầu quản lý kinh tế xã hội của đất nước ......................................... 21
1.3.3. Các tư tưởng, học thuyết pháp lý .......................................................... 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN HÀNH NGHỀ
ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ............................................................................................ 25
2.1. Khái quát các quy định pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản. ... 25
2.1.1. Quá trình phát triển các quy định pháp luật về điều kiện hành nghề đấu
giá tài sản ở nước ta. ....................................................................................... 25
2.1.2. Điểm tiến bộ trong quy định về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản của
Luật Đấu giá tài sản năm 2016. ...................................................................... 33
2.2. Thực trạng pháp luật hiện hành về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản .. 39
2.2.1. Quy định về đấu giá viên ...................................................................... 39
2.2.2. Quy định về tổ chức bán đấu giá ........................................................... 43


2.3. Vướng mắc trong việc thực thi các quy định pháp luật về điều kiện hành
nghề đấu giá tài sản ở Việt Nam ......................................................................... 46
2.3.1. Đối với các quy định về đấu giá viên .................................................... 46
2.3.2. Đối với các quy định về tổ chức đấu giá ............................................... 48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN HÀNH NGHỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ........ 53
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ...... 53
3.1.1. Tiếp tục thể chế hóa đường lối của Đảng, Nhà nước trong pháp luật về
điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ................................................................ 53
3.1.2. Khắc phục những khó khăn, bất cập còn tồn tại trong các quy định pháp
luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ..................................................... 54
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thực thi pháp luật về điều kiện
hành nghề đấu giá tài sản ................................................................................... 57
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản.. 57

3.2.2. Một số giải pháp đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật về điều kiện hành
nghề đấu giá tài sản. ....................................................................................... 58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 64


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nghĩa của từ

ĐGTS

Đấu giá tài sản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, quyền tự do kinh doanh là một bộ
phận hợp thành trong hệ thống các quyền tự do của con người. Giá trị to lớn của
quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động kinh tế, tức là
khả năng mà cá nhân hay pháp nhân có thể xử sự như: tự do đầu tư tiền vốn để
thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, tự do lựa chọn
đối tác để thiết lập các quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự do định đoạt trong việc
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh. Quyền tự do kinh
doanh được thể hiện ở nhiều góc độ của hoạt động kinh doanh, trong đó có hoạt
động bán đấu giá tài sản. Trên góc độ kinh tế, đấu giá tài sản là một hình thức kinh
doanh đảm bảo tính công bằng cho cả người bán và người mua, người bán có quyền
bán hàng hóa với giá cao nhất có thể, còn người mua có quyền cạnh tranh với
những người mua khác để mua được hàng hóa mình cần. Việc đấu giá tài sản mang

tính tự do cao, thể hiện quyền lợi tự do mua bán hàng hóa của con người. Tuy
nhiên, trong xã hội ngày nay để đảm bảo và phát huy quyền này thì đòi hỏi Nhà
nước ghi nhận và bảo đảm quyền bằng pháp luật. Đồng thời trên góc độ quản lý xã
hội, vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe cộng đồng, bằng pháp luật, Nhà nước có thể xác định phạm vi “quyền tự
do kinh doanh” thông qua việc quy định các ngành nghề, các đối tượng, và các mặt
hàng được phép tham gia hoạt động đấu giá.
Có thể nói ngày nay đấu giá tài sản là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Đấu giá tài sản là một trong những cách
thức linh hoạt để chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp
phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá
nói riêng phát triển một cách đa dạng. Trong những năm qua, hoạt động bán đấu giá
tài sản ở nước ta đã từng bước phát triển, có những đóng góp quan trọng trong các
hoạt động kinh tế và cả trong công tác thi hành pháp luật, đặc biệt là công tác thi
hành án dân sự và xử lý vi phạm hành chính. Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn

1


bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm
những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài
sản, quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành, hành nghề đấu giá tài sản là một ngành nghề kinh doanh có
điều kiện được quy định trong Luật Đấu giá tài sản.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đang không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật để đáp ứng các yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội trong bối cảnh trong nước
và thế giới có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Theo đó, pháp luật về đấu giá tài sản
cũng là một nội dung cần hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu trong hoạt động kinh
doanh, cũng như là công cụ thuận lợi để hỗ trợ hoạt động xử lý vi phạm hành chính,
thi hành án dân sự, đặc biệt là trong các tranh chấp, các vụ án kinh tế lớn.

Kể từ khi Luật Đấu giá tài sản năm 2016 và Nghị định 62/2017/NĐ-CP ra
đời và có hiệu lực đã góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện pháp luật về đấu
giá tài sản ở Việt Nam. Hiện nay hệ thống các quy định pháp luật về đấu giá tài sản
về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, một số quy định
pháp luật còn chưa thực sự chặt chẽ, dẫn đến vướng mắc trong quá trình áp dụng
trong thực tế. Một số quy định còn chưa rõ ràng, khiến cho việc hiểu và áp dụng
trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Đồng thời hiện nay, trong xã hội đã xuất hiện
nhiều loại hình kinh doanh và nhiều mặt hàng kinh doanh mới, dẫn đến các quy
định pháp luật về đấu giá tài sản còn cần tiếp tục hoàn thiện hơn thì mới đáp ứng
được yêu cầu về quản lý xã hội, quản lý hoạt động kinh doanh và quyền tự do kinh
doanh trong tương lai.
Trong những năm qua, đã có nhiều nghiên cứu về khoa học pháp lý trong đấu
giá tài sản, góp phần bổ sung cơ sở lý luận cũng như hoàn thiện hệ thống các quy
định pháp luật về đấu giá tài sản trong thực tiễn. Tuy nhiên cùng với sự chuyển biến
của kinh tế - xã hội, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu
nhằm nâng cao hiệu quả và hoàn thiện pháp luật đấu giá tài sản trong tương lai.
Từ những vấn đề trên và từ thực tiễn tìm hiểu, nghiên cứu về pháp luật đấu
giá tài sản trong thực tiễn, tác giả quyết định chọn đề tài “Pháp luật về điều kiện
hành nghề đấu giá tài sản tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài Luận

2


văn Thạc sỹ Luật học của mình, với mong muốn tìm hiểu và đánh giá một cách thấu
đáo các khía cạnh của vấn đề này. Thông qua việc khái quát đặc điểm, tính chất, vai
trò và các nhân tố ảnh hưởng, đồng thời trên cơ sở xem xét và đánh giá thực trạng
áp dụng pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ở Việt Nam. Từ đó đưa ra
các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nhỏ vào việc giảm bớt các vướng mắc còn
tồn tại, cũng như tăng tính hiệu quả của pháp luật về đấu giá tài sản ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến vấn đề pháp luật về đấu giá tài sản ở Việt Nam. Có thể kể đến
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
• Đỗ Thị Hoa (2010), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Bán đấu giá tài sản theo
pháp luật Việt Nam”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
• Võ Đình Toàn (2011), Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về
bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”, Bộ Tư Pháp.
• Bùi Thị Thu Hiền (2013), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
• Trần Tiến Hải (2015), Luận án tiến sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật về đấu
giá quyền sử dụng đất ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay”, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
• Ngô Thế Giáp (2015), Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về đấu giá tài
sản trong thương mại: Thực trạng và giải pháp”, Viện đại học Mở Hà Nội.
• Nguyễn Cao Trí (2016), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về quản lý
bán đấu giá tài sản từ thực tiễn tỉnh Gia lai”, Học viện Hành chính Quốc gia.
• Vũ Quang Hiệp (2017), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bán đấu
giá quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tại tỉnh Hà Nam”, Viện
Đại học Mở Hà Nội.
• Lê Thanh Trang (2018), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bán đấu
giá tài sản - Thực tiễn áp dụng tại Thành phố Cần Thơ”, trường Đại học Trà Vinh.

3


Các luận văn, đề tài nghiên cứu kể trên mặc dù đều nhằm mục đích nghiên cứu
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các vấn đề liên quan đến pháp luật về đấu giá tài
sản. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nêu trên nhằm vào nhiều khía cạnh của

pháp luật về đấu giá tài sản nhưng chưa có nghiên cứu nào về điều kiện hành nghề
đầu giá tài sản. Do vậy, vẫn cần thiết thực hiện một công trình nghiên cứu về vấn đề
này ở mức độ toàn diện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích
Mục đích chung của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận cũng
như hệ thống các quy định pháp luật, đặc biệt là quy định pháp luật hiện hành và
thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản tại Việt Nam, từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện hành nghề đấu
giá tài sản ở nước ta.
Mục đích cụ thể của đề tài bao gồm:
• Nghiên cứu lý luận về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản tại Việt Nam và sự
điều chỉnh của pháp luật.
• Phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật về điều kiện hành nghề
đấu giá tài sản tại Việt Nam trong những giai đoạn khác nhau, đặc biệt là các quy
định hiện hành.
• Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về điều kiện hành
nghề đấu giá tài sản tại Việt Nam.
• Xác định yêu cầu hoàn thiện, đồng thời đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về điều kiện
hành nghề đấu giá tài sản tại Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của nghiệp vụ
bán đấu giá tài sản cho đến nay, phân tích khái niệm, các loại tài sản bán đấu giá,
chủ thể tham gia bán đấu giá, các đơn vị được tiến hành bán đấu giá, trình tự và thủ

4



tục bán đấu giá trong các quy định hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và
những nội dung cơ bản của điều kiện hành nghề đấu giá tài sản theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm
pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản trong thực tiễn nước ta, đồng thời
phân tích những tồn tại xung quanh việc quy định về điều kiện hành nghề đấu giá
tài sản và thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải hoàn
thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về vấn đề
này trong pháp luật Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn về điều kiện hành
nghề giá tài sản theo pháp luật Việt Nam cụ thể là: lịch sử hình thành và khái
niệm bán đấu giá tài sản, điều kiện hành nghề đấu giá tài sản trong các quy định
hiện hành.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những quy định pháp luật và thực
trạng áp dụng các quy định pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ở Việt
Nam hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
• Phương pháp luận: Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, những quan điểm chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản cũng như các quy định pháp luật
về đấu giá tài sản ở Việt nam nói chung và hành nghề đấu giá tài sản ở Việt Nam
hiện nay nói riêng.
• Phương pháp nghiên cứu: Thông qua các phương pháp liệt kê, tổng hợp, quy
nạp, phân tích, so sánh, đối chiếu, luận văn muốn làm rõ các quy định pháp luật liên
quan đến hành nghề đấu giá tài sản ở Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau cũng
như đưa ra những đánh giá của tác giả đề tài trên cơ sở thông tin, dữ liệu thu thập
được về vấn đề nghiên cứu của Luận văn.


5


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học
Đề tài đã phân tích và đánh giá một cách có hệ thống các quy định pháp luật
liên quan đến vấn đề về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ở Việt Nam qua các
giai đoạn khác nhau khi thực hiện chủ trương của Nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được tham khảo trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản nói chung, về điều kiện
hành nghề đấu giá tài sản ở Việt Nam nói riêng. Ngoài ra đề tài cũng có thể được sử
dụng làm tài liệu học tập và nghiên cứu về lĩnh vực này.
Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân
liên quan trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về đấu giá tài sản nói
chung, và trong đó có các quy định về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản ở Việt
Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về điều kiện hành nghề đầu giá tài sản
Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thực thi pháp luật về
điều kiện hành nghề đấu giá tài sản

6


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
ĐIỀU KIỆN HÀNH NGHỀ ĐẦU GIÁ TÀI SẢN
1.1. Lý thuyết về đấu giá tài sản và điều kiện hành nghề đấu giá tài sản
1.1.1. Khái niệm về đấu giá tài sản
Đấu giá là một quá trình mua và bán bằng cách đưa ra món hàng cần bán, ra
giá và sau đó bán món hàng cho người ra giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá
khởi điểm của chủ sở hữu tài sản. Về phương diện kinh tế, một cuộc đấu giá là
phương pháp xác định giá trị của món hàng chưa biết giá hoặc giá trị thường thay
đổi. Trong một số trường hợp, có thể tồn tại một mức giá tối thiểu hay còn gọi là giá
sàn; nếu sự ra giá không đạt đến được giá sàn, món hàng sẽ không được bán (nhưng
người đưa món hàng ra đấu giá vẫn phải trả phí cho nơi người phụ trách việc bán
đấu giá). Đấu giá có thể áp dụng cho nhiều loại mặt hàng: đồ cổ, bộ sưu tập
(tem, tiền, xe cổ, tác phẩm nghệ thuật, bất động sản, tài sản tịch thu xung công quỹ,
các mặt hàng đã qua sử dụng, sản phẩm thương mại (cá, tôm), giống ngựa đua thuần
chủng và các cuộc bán đấu giá cưỡng ép (thanh lý, phát mãi).
Theo quan niệm truyền thống, đấu giá là việc mua bán hàng tài sản công khai
mà những người mua sẽ trả giá từ giá thấp cho tới khi trả giá cao nhất và người bán
đấu giá đồng ý bán bằng cách gõ búa. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định pháp luật
của hầu hết các nước, định nghĩa về bán đấu giá tài sản thường được quy định trong
những điều luật cụ thể: Chẳng hạn điều 3, Luật về bán đấu giá tài sản nước Cộng
hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa năm 1996 quy định “Bán đấu giá là hình thức bán
và mua tài sản công khai, theo đó các tài sản và quyền tài sản được bán cho người
trả giá cao nhất”. Đạo luật của Florida năm 2003 đưa ra khái niệm “Bán đấu giá
tuyệt đối” là cuộc bán đấu giá không yêu cầu giá khởi điểm tối thiểu mà hàng hoá sẽ
được bán cho người trả giá cao nhất. Còn Quy chế của Ủy ban đấu giá bang
Alabama (Hoa kỳ) đưa ra khái niệm: “Bán đấu giá là việc bán công khai một tài sản
cho người trả giá cao nhất”. Các khái niệm này đều đúng và tiếp cận với ý nghĩa của
bán đấu giá trong xã hội ngày nay.

7



Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm
2006, trang 31 có nêu: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản,
một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá
cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản. Theo tác
giả đề tài, khái niệm mà từ điển Luật học 2006 đưa ra là chính xác và tương đồng
với các khái niệm về bán đấu giá trên thế giới.
1.1.2. Điều kiện hành nghề đấu giá tài sản
Về bản chất điều kiện hành nghề đấu giá là thuộc về điều kiện đầu tư kinh
doanh theo quy định của pháp luật. Hiện nay, khái niệm “điều kiện đầu tư kinh
doanh” có nhiều cách hiểu khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ, điều kiện đầu tư kinh
doanh có thể được hiểu là những yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư kinh doanh
hay còn gọi đó là môi trường kinh doanh. Điều kiện đầu tư kinh doanh cũng có thể
hiểu là những yêu cầu, đòi hỏi mà chủ thể kinh doanh phải có hay phải thực hiện
trước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh nhất định như sản xuất, phân phối,
buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Theo ý kiến của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa thì “Điều kiện kinh doanh là mọi
sự can thiệp của cơ quan hành chính vào quyền tự do kinh doanh của người dân,
thường được cụ thể hóa bằng những hành vi của nhân viên hành chính có quyền
chấp nhận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng kí hoặc tổ chức những hoạt động kinh
doanh cụ thể”. Trong đó, việc chấp nhận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng kí hoặc
tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ thể được quy định trong văn bản quy phạm
pháp luật được biểu hiện thông qua hành vi chấp nhận hoặc từ chối cấp giấy phép,
giấy chứng nhận đủ điều kiện, chứng chỉ hành nghề... hoặc thông qua hành vi kiểm
tra, giám sát của cơ quan hành chính về việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh của
các chủ thể.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì: “Điều
kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh
doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng

nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”. Luật Đầu tư

8


năm 2014 không giải thích “điều kiện đầu tư kinh doanh” mà chỉ giải thích khái
niệm “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện” thông qua việc nêu mục đích
của việc Nhà nước phải đặt ra điều kiện để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh
trong ngành, nghề đó là vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Khoản 7 Điều 2 Nghị định số
118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Đầu tư quy định: “Điều kiện đầu tư kinh doanh là
điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị
định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong
các ngành, nghề quy định tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư”.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP thì các
điều kiện đầu tư kinh doanh bao gồm: (i) Giấy phép; (ii) Giấy chứng nhận đủ điều
kiện; (iii) Chứng chỉ hành nghề; (iv) Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp; (v) Văn bản xác nhận; (vi) Các hình thức văn bản khác theo quy định của
pháp luật ngoài các hình thức điều kiện trên; (vii) Các điều kiện mà cá nhân, tổ
chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh mà không cần
phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức văn bản. Trong đó, Chứng chỉ
hành nghề là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc
Hiệp hội nghề nghiệp được Nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp với một ngành, nghề nhất định. Chứng
chỉ hành nghề thường có thời hạn ngắn từ một đến ba năm tùy theo thâm niên của
người hành nghề. Người được cấp chứng chỉ hành nghề phải tuân thủ quy định về
đạo đức nghề nghiệp và hàng năm phải tham gia lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, cập nhật thông tin mới trong lĩnh vực hành nghề. Nếu vi phạm một

trong những quy định đó có thể bị thu hồi chứng chỉ hành nghề hoặc không cấp lại
và sẽ không được tiếp tục hành nghề. Như vậy, có thể thấy rằng, chứng chỉ hành
nghề là loại chứng chỉ cấp cho cá nhân hành nghề, không cấp cho pháp nhân, tổ
chức, không phải là một điều kiện kinh doanh.
Bên cạnh đó, đối với điều kiện hành nghề đấu giá tài sản, bên cạnh các điều
kiện về chủ doanh nghiệp, trụ sở, cơ sở vật chất, còn phải đáp ứng điều kiện về tên

9


doanh nghiệp. Tên của doanh nghiệp đấu giá tư nhân do chủ doanh nghiệp lựa chọn,
tên của công ty đấu giá hợp danh do các thành viên thỏa thuận lựa chọn và theo quy
định của Luật doanh nghiệp nhưng phải bao gồm cụm từ “doanh nghiệp đấu giá tư
nhân” hoặc “công ty đấu giá hợp danh”. Điều này cũng siết chặt hơn điều kiện thành
lập công ty đấu giá tài sản, hạn chế tình trạng các doanh nghiệp đấu giá được thành
lập tràn lan, không đủ tiêu chuẩn. Sau khi doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện trên
thì gửi một bộ hồ sơ đề nghị đăng ký hoạt động đấu giá tài sản đến Sở Tư pháp nơi
doanh nghiệp đặt trụ sở và nộp phí theo quy định của pháp luật. Hồ sơ bao gồm: (i)
Giấy đề nghị đăng ký hoạt động; (ii) Điều lệ của doanh nghiệp đối với công ty đấu
giá hợp danh; (iii) Bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu
Chứng chỉ hành nghề đấu giá của chủ doanh nghiệp đấu giá tư nhân, Chứng chỉ hành
nghề đấu giá của thành viên hợp danh, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty
đấu giá hợp danh; (iv) Giấy tờ chứng minh về trụ sở của doanh nghiệp đấu giá tài sản,
cam kết bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động đấu giá tài sản.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp cấp
Giấy đăng ký hoạt động cho doanh nghiệp đấu giá tài sản; trường hợp từ chối thì phải
thông báo lý do bằng văn bản. Doanh nghiệp bị từ chối cấp Giấy đăng ký hoạt động
có quyền khiếu nại, khởi kiện theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của điều kiện hành nghề đấu giá tài sản
Điều kiện hành nghề đấu giá có những đặc điểm chung của điều kiện đầu tư

kinh doanh và những đặc điểm riêng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể có thẩm quyền và hình thức quy định điều kiện hành
nghề đấu giá
Điều kiện hành nghề đấu giá là yêu cầu, đòi hỏi được Nhà nước đặt ra và quy
định trong văn bản quy phạm pháp luật. Cũng như bất kỳ điều kiện đầu tư kinh
doanh trong các lĩnh vực khác, điều kiện hành nghề đấu giá phải được Nhà nước
quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Việc đặt ra các điều kiện đầu tư kinh
doanh là một trong các biện pháp quản lý của nhà nước có tác động đến quyền tự
nhiên vốn có của mỗi cá nhân theo hướng “hạn chế quyền”. Theo đó, các hạn chế
này phải được pháp luật quy định, là những quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt

10


buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Theo pháp luật Việt Nam hiện
hành thì bên cạnh điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên thì điều kiện đầu tư kinh doanh phải được quy định tại các luật, pháp
lệnh, nghị định. Tức là, chủ thể có thẩm quyền quy định về điều kiện đầu tư kinh
doanh chỉ bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Các quy
định về điều kiện đầu tư kinh doanh quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật
khác (như Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng các Bộ,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định của
Ủy ban nhân dân các cấp...) không có hiệu lực thi hành. Như vậy, không phải chủ
thể nào có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đều có thẩm quyền đặt
ra điều kiện đầu tư kinh doanh. Có thể thấy, tùy thuộc vào thời điểm, yêu cầu quản
lý và phát triển kinh tế - xã hội thì Nhà nước đặt ra các điều kiện đầu tư kinh doanh
khác nhau và cho phép chủ thể nhất định có thẩm quyền quy định về điều kiện đầu
tư kinh doanh. Nếu như trước đây theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, điều kiện đầu
tư kinh doanh được quy định trong các luật, pháp lệnh, nghị định hoặc quyết định
của Thủ tướng Chính phủ thì hiện nay, điều kiện đầu tư kinh doanh chỉ được quy

định trong các luật, pháp lệnh, nghị định. Thực tế thời gian thực hiện Luật Doanh
nghiệp năm 2005 cho thấy, có rất nhiều điều kiện kinh doanh được quy định tại các
văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp.
Tình trạng này dẫn đến việc tràn lan giấy phép con, gây khó khăn cho cá nhân,
doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường, thực hiện đến hoạt động đầu tư kinh
doanh. Chính vì vậy, triển khai Luật Đầu tư năm 2014, tất cả các điều kiện đầu tư
kinh doanh đang được quy định tại các văn bản không phải luật, pháp lệnh, nghị
định phải được rà soát để đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ
quy định theo đúng thẩm quyền. Theo đó, các điều kiện đầu tư hành nghề đấu giá
cũng phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật, mà cụ thể là phải được
quy định trong các luật, pháp lệnh hoặc nghị định.
Thứ hai, về phạm vi áp dụng điều kiện hành nghề đấu giá
Điều kiện đầu tư kinh doanh luôn gắn với ngành nghề đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên, không phải ngành nghề đầu tư kinh doanh nào cũng phải đáp ứng điều

11


kiện đầu tư kinh doanh mà chỉ những ngành nghề cần phải quản lý để bảo đảm các
vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe cộng đồng. Điều kiện hành nghề đấu giá chỉ áp dụng đối với hoạt
động kinh doanh đấu giá tài sản.
Thứ ba, về hình thức của điều kiện hành nghề đấu giá
Điều kiện đầu tư kinh doanh nói chung được áp dụng theo các hình thức như
giấy phép, giấy chứng nhận đủ điều kiện, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, văn bản xác nhận, các hình thức văn bản khác theo
quy định của pháp luật; các điều kiện mà các chủ thể đầu tư kinh doanh phải đáp
ứng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh mà không cần phải xác nhận, chấp
thuận dưới các hình thức văn bản... Mỗi hình thức này có giá trị pháp lý khác nhau,
được áp dụng theo từng trường hợp cụ thể. Có điều kiện phải đáp ứng khi đăng ký

kinh doanh/đăng ký doanh nghiệp, có điều kiện phải đáp ứng sau khi đăng ký kinh
doanh/đăng ký doanh nghiệp (đăng ký hoạt động...). Trong lĩnh vực đấu giá tài sản
các điều kiện hành nghề được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hành nghề.
Thứ tư, về thời gian các chủ thể hành nghề phải đáp ứng các điều kiện hành
nghề đấu giá
Chủ thể hành nghề đấu giá phải đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Việc đáp ứng các điều kiện này sẽ được
các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát bằng cơ chế hậu kiểm. Nếu không
đáp ứng đầy đủ các điều kiện hoạt động thì các chủ thể sẽ bị xử lý theo quy định của
pháp luật, có như vậy mới bảo đảm mục tiêu quản lý của nhà nước khi lựa chọn
biện pháp điều kiện đầu tư kinh doanh để điều tiết nền kinh tế và quản lý xã hội,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực có thể gây ra từ hoạt động kinh doanh các ngành, nghề.
Thứ năm, về mục đích của điều kiện hành nghề đấu giá
Bản thân điều kiện đầu tư kinh doanh đã là những giới hạn quyền tự do kinh
doanh của chủ thể kinh doanh và là cơ sở để quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh.
Theo đó, điều kiện đầu tư kinh doanh trong một lĩnh vực cụ thể sẽ giới hạn quyền tự
do kinh doanh của chủ thể kinh doanh và là cơ sở quản lý hoạt động đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực đó. Quyền tự do kinh doanh vốn là gắn với quyền con người.

12


Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tổ chức, cá nhân có thể bị Nhà nước hạn chế vì
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Điều kiện hành nghề đấu giá là những giới hạn quyền tự do kinh doanh của chủ thể
kinh doanh và là cơ sở để quản lý hoạt động đấu giá tài sản.
1.1.4. Vai trò của pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản
Pháp luật là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý xã hội. Trong thế giới
hiện đại, việc sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là một nguyên tắc tối cao
trong quản lý của bất kỳ Nhà nước nào. Mọi sự điều hành của Nhà nước đều phải

được thể chế thành pháp luật. Pháp luật về đấu giá tài sản chứa đựng hai vấn đề cơ
bản là pháp luật về hoạt động đấu giá tài sản của các chủ thể kinh doanh và pháp
luật về quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh. Theo đó, pháp luật về
điều kiện hành nghề đấu giá tài sản là một bộ phận quan trọng của pháp luật về đấu
giá tài sản nói chung.
Pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá là một bộ phận của pháp luật về
đấu giá tài sản. Pháp luật về điều kiện hành nghề là tổng thể các quy phạm pháp
luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh mối quan hệ phát
sinh giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đấu giá tài sản nhằm
thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động đấu giá tài sản
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá là mối
quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý kinh tế - xã hội trong lĩnh vực đấu giá tài
sản. Pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản là các quy định pháp luật điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý kinh tế - xã hội, do đó các quan
hệ này không mang tính chất hành chính đơn thuần, nên dù do nhà nước đặt ra, chịu
sự chi phối bởi yếu tố quyền lực công, quan hệ này vẫn mang yếu tố tài sản, trách
nhiệm vật chất và bị chi phối bởi các quy luật kinh tế.
Phương pháp điều chỉnh pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá là
phương pháp mệnh lệnh hành chính, hướng dẫn mà không dùng phương pháp
thỏa thuận bình đẳng. Các điều kiện hành nghề là các yêu cầu, đòi hỏi có tính
chất bắt buộc đối với tất cả các chủ thể khi đầu tư kinh doanh vào các ngành
nghề có điều kiện. Các chủ thể đầu tư kinh doanh không có quyền lựa chọn, thỏa

13


thuận thực hiện hay không thực hiện, tuân thủ hay không tuân thủ các quy định
về điều kiện đó. Tính mệnh lệnh của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh
còn thể hiện ở cơ chế kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với các chủ thể kinh doanh trong các ngành nghề kinh doanh có điều kiện

trong suốt quá trình hoạt động của các chủ thể này. Trường hợp phát hiện các
chủ thể này không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện theo quy định thì các chủ
thể sẽ bị xử phạt, buộc đáp ứng đầy đủ các điều kiện hoặc chấm dứt hoạt động
kinh doanh. Tuy nhiên, mặc dù phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp
mệnh lệnh nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ quan nhà nước còn có
trách nhiệm hướng dẫn các chủ thể đầu tư kinh doanh đáp ứng đầy đủ các điều
kiện theo quy định. Các cơ quan nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các hoạt
động kinh doanh của các chủ thể mà chỉ thẩm định, thẩm tra, xác nhận bảo đảm
đầy đủ các điều kiện kinh doanh.
1.2. Nội dung pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản
Nội dung pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản là tất cả các quy
định pháp luật điều chỉnh điều kiện hành nghề đấu giá tài sản. Nhằm làm rõ hơn lý
thuyết về pháp luật về điều kiện hành nghề đấu giá tài sản, tác giả đề tài xin đi vào
xem xét nội dung pháp luật về vấn đề này ở một số quốc gia trên thế giới.
1.2.1. Quy định về đấu giá viên
Trên thế giới, một số quốc gia sử dụng thuật ngữ Đấu giá viên đang làm việc
tại các công ty bán đấu giá để chỉ người điều hành phiên bán đấu giá. Pháp luật mỗi
nước lại quy định điều kiện trở thành đấu giá viên là khác nhau. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp pháp luật một số nước như Nhật Bản, Pháp quy định chấp hành
viên, công chứng viên, thừa pháp lại cũng có thể điều hành phiên bán đấu giá.
1.2.1.1. Tiêu chuẩn đấu giá viên
Hầu hết pháp luật về bán đấu giá tài sản quy định các điều kiện để trở thành
đấu giá viên hết sức chặt chẽ. Họ phải qua đào tạo, tập sự hành nghề và trải qua kỳ
thi đủ điều kiện mới được cấp Chứng chỉ/Giấy phép hành nghề. Tại một số nước
còn quy định rõ về trách nhiệm của đấu giá viên khi vi phạm đạo đức nghề nghiệp
và vi phạm pháp luật.

14



Ở Trung Quốc, theo Luật Bán đấu giá tài sản thì Đấu giá viên là người trực
tiếp chủ trì các cuộc đấu giá. Người muốn trở thành đấu giá viên trước hết phải đáp
ứng các điều kiện sau: có bằng tốt nghiệp đại học và kinh nghiệm chuyên môn về
bán đấu giá; đã làm việc trong doanh nghiệp bán đấu giá từ 2 năm trở lên; có tư
cách đạo đức tốt. Để được công nhận chính thức là đấu giá viên, người đáp ứng
những điều kiện trên phải tham gia kỳ thi tuyển chọn đấu giá viên do Hiệp hội bán
đấu giá tổ chức.
Ở Pháp, đấu giá viên là một nghề có uy tín và thu nhập tương đối cao trong
xã hội. Họ là những người không chỉ có kiến thức pháp luật, kiến thức về tài sản
mà còn có kiến thức sâu rộng về thị trường, về giá trị tài sản và giá trị nghệ thuật.
Theo quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản của Pháp thì người muốn trở thành
đấu giá viên phải có bằng luật (cử nhân luật) và kiến thức lịch sử nghệ thuật (Đại
học đại cương 02 năm) và phải trải qua một kỳ thực tập đấu giá là 02 năm tại các
tổ chức bán đấu giá tài sản. Khi hành nghề đấu giá, đấu giá viên bị ràng buộc bởi
nhiều nghĩa vụ do pháp luật quy định, phải có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
Đấu giá viên có hành vi vi phạm thì tùy theo mức độ có thể do Hội đồng đấu giá
viên quốc gia thi hành kỷ luật hoặc bị quy trách nhiệm theo Bộ luật Hình sự Pháp.
Ngoài ra, trong Bộ luật Hình sự Pháp cũng có điều khoản về tội thông đồng, dìm
giá của những người tham gia đấu giá, nhờ đó, trong thực tế hiện tượng này xảy ra
không nhiều.
Ở Hoa Kỳ, Quy chế về bán đấu giá của Uỷ ban đấu giá bang Alabama (Hoa
Kỳ) cũng quy định rất chặt chẽ tiêu chuẩn để trở thành đấu giá viên. Người muốn
trở thành đấu giá viên phải trải qua khóa đào tạo nghề đấu giá. Đạo luật Florida năm
2003 (Hoa Kỳ) quy định rất chặt chẽ về đấu giá viên và tiêu chuẩn nghề nghiệp đối
với đấu giá viên. Theo đó, đấu giá viên là người được cấp phép và có giấy phép
hành nghề đấu giá viên của bang còn hiệu lực. Đấu giá viên là người trực tiếp thực
hiện việc bán đấu giá; đấu giá viên phải qua quá trình đào tạo và tập sự nghề
nghiệp. Trước khi trở thành đấu giá viên chính thức, đấu giá viên phải qua một giai
đoạn tập sự với chức danh đấu giá viên tập sự. Đạo luật cũng quy định người không
được cấp giấy phép đấu giá viên tập sự bao gồm: người dưới 18 tuổi hoặc người có


15


bất cứ hành vi bất hợp pháp nào hoặc phạm tội quả tang tại bang này hoặc nơi khác
và nếu các hành vi này có thể bị áp dụng các biện pháp kỷ luật theo quy định của
pháp luật về đấu giá.
Ở Canada, Đạo luật về bán đấu giá công khai của bang Alberta (Canada) quy
định đấu giá viên là người được cấp Chứng chỉ/Giấy phép hành nghề đấu giá viên,
có đủ các điều kiện quy định tại Đạo luật, Quy chế. Ngoài ra, Đạo luật còn quy định
cụ thể đạo đức nghề nghiệp của đấu giá viên; quy định về các quy tắc ứng xử của
người kinh doanh dịch vụ đấu giá và người điều hành bán đấu giá. Người vi phạm
các quy định tại Đạo luật hoặc Quy chế bị phạt tiền đến 1000 đô la Mỹ. Trong các
trường hợp khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự là 2 năm.
1.2.1.2. Đào tạo, tập sự nghề đấu giá viên
Hầu hết pháp luật các nước đều quy định khá chặt chẽ việc đào tạo và tập sự
hành nghề đấu giá.
Ở Pháp, pháp luật về bán đấu giá quy định đấu giá viên phải qua một kỳ thực
tập đấu giá là 02 năm tại các tổ chức bán đấu giá tài sản. Để được thực tập tại các cơ
sở bán đấu giá tài sản, người có nguyện vọng thực tập phải vượt qua một kỳ thi đầu
vào. Đây là một kỳ thi rất khó, trung bình chỉ có 10% trên tổng số thí sinh thi đạt
yêu cầu.
Ở Trung Quốc, Luật đấu giá tài sản tuy không yêu cầu về đào tạo nhưng yêu
cầu đấu giá viên có kinh nghiệm chuyên môn về đấu giá tài sản và đã làm việc tại tổ
chức đấu giá 2 năm.
Ở Hoa Kỳ, Quy chế về bán đấu giá của Uỷ ban đấu giá bang Alabama (Hoa
Kỳ) quy định người muốn trở thành đấu giá viên phải trải qua khóa học gồm những
môn sau đây: kỹ năng trả giá theo từng bậc; pháp luật về đấu giá và đạo đức của đấu
giá viên; luật hợp đồng; luật về người uỷ quyền và đại lý; điều hành phiên bán đấu

giá; nghiệp vụ sổ sách và tài chính; quảng cáo (thông báo) bán đấu giá; bán đấu giá
vật nuôi; bán đấu giá bất động sản; bán đấu giá tại các cơ sở bán đấu giá; bán đấu
giá nông trại; bán đấu giá tài sản di chúc và nợ phá sản; bán đấu giá máy móc và
thiết bị; bán đấu giá ôtô; thanh lý tài sản doanh nghiệp; bán đấu giá đồ cổ và đấu giá

16


để gây quỹ. Đối với phần đào tạo trên lớp, sinh viên được yêu cầu tham gia bán đấu
giá trên thực tế. Việc thực tập bán đấu giá là một phần học có hướng dẫn của nhà
trường. Diện mạo cá nhân, cư xử lịch thiệp và kỹ năng quảng cáo là yêu cầu cần
thiết để gây ấn tượng mạnh cho mọi người tham dự. Kinh nghiệm thực hành về sổ
sách, ngân quỹ, dán nhãn và mua bán hàng hóa cũng là nội dung được đào tạo. Tại
bang Florida (Hoa Kỳ) thì người trực tiếp thực hiện việc bán đấu giá, đấu giá viên
cần phải trải qua quá trình đào tạo và tập sự nghề nghiệp. Trước khi trở thành đấu
giá viên chính thức, đấu giá viên phải trải qua một giai đoạn tập sự hay chức danh
đấu giá viên tập sự. Trước khi trở thành một đấu giá viên chính thức, đấu giá viên
tập sự phải trải qua một thời gian tập sự rất nghiêm ngặt dưới sự hướng dẫn của một
đấu giá viên chính thức. Đấu giá viên chính thức được phép hướng dẫn đấu giá viên
tập sự phải là người đã có giấy phép hành nghề có hiệu lực trong 3 năm liên tiếp,
tính từ ngày đấu giá viên đó được chỉ định làm người hướng dẫn đấu giá viên tập
sự. Một đấu giá viên không được hướng dẫn quá 3 đấu giá viên tập sự. Trong giai
đoạn tập sự, đấu giá viên tập sự phải chịu sự hướng dẫn đào tạo của đấu giá viên
hướng dẫn theo đúng chương trình đã được Uỷ ban đấu giá Florida quy định; phải
tham gia tích cực vào các hoạt động bán đấu giá theo quy định của Uỷ ban đấu giá
Florida; phải lưu giữ hồ sơ cho từng cuộc bán đấu giá để làm cơ sở để xác nhận sự
tham gia của mình. Đấu giá viên tập sự không được phép thực hiện hoạt động bán
đấu giá khi chưa có sự chấp thuận rõ ràng bằng văn bản của người hướng dẫn. Đấu
giá viên tập sự và đấu giá viên hướng dẫn tập sự phải gửi báo cáo kết quả tập sự,
hướng dẫn cho Uỷ ban đấu giá Florida. Đấu giá viên tập sự có thể thay đổi đấu giá

viên hướng dẫn được chỉ định trong giấy phép trước đó bằng cách nộp đơn đề nghị
cấp phép mới và nộp lệ phí cấp phép. Đấu giá viên tập sự không được thực hiện
hoặc ký hợp đồng thực hiện việc bán đấu giá mà không có sự chấp thuận rõ ràng
của người giám sát. Sau khi đã có giấy phép đấu giá viên tập sự, đã qua thời gian
tập sự hành nghề một năm hoặc đã hoàn thành một khoá đào tạo với ít nhất là 80
giờ hướng dẫn theo các tiêu chuẩn đã được Uỷ ban đấu giá Florida thông qua, đấu
giá viên tập sự phải trải qua kỳ thi viết do Uỷ ban đấu giá Florida tổ chức. Nội dung
kiểm tra kiến thức đấu giá viên tập sự bao gồm: Pháp luật của bang liên quan tới các

17


quy định của Bộ luật Thương mại liên bang về bán đấu giá tài sản, pháp luật về đại
lý và các quy định của Đạo luật của Florida về bán đấu giá tài sản; đặc biệt là các
quy định pháp luật về hợp đồng.
1.2.1.3. Công nhận nghề đấu giá viên
Phần lớn các nước quy định để được công nhận là đấu giá viên thì ngoài các
điều kiện phải đào tạo, tập sự thì phải trải qua kỳ thi và được cấp Giấy Chứng nhận/
Chứng chỉ hành nghề đấu giá.
Ở Trung Quốc, Luật Bán đấu giá tài sản quy định để được công nhận chính
thức là đấu giá viên, người đáp ứng những điều kiện trên phải tham gia kỳ thi tuyển
chọn đấu giá viên do Hiệp hội bán đấu giá tổ chức. Những người đạt yêu cầu của kỳ
thi sẽ được Hiệp hội cấp chứng chỉ đấu giá viên. Khi được cấp Chứng chỉ đấu giá,
họ sẽ được chủ trì các cuộc bán đấu giá tài sản.
Ở Hoa Kỳ, theo Quy chế về bán đấu giá của bang Florida (Hoa Kỳ) thì đấu giá
viên là người được cấp phép theo quy định của Luật này và có giấy phép hành nghề
đấu giá viên của bang còn hiệu lực. Sau khi đã có giấy phép đấu giá viên tập sự, đã
trải qua thời gian tập sự hành nghề và vượt qua được kỳ kiểm tra thì Uỷ ban đấu giá
Florida sẽ cấp giấy phép hành nghề đấu giá viên chính thức và độc lập tham gia vào
hoạt động bán đấu giá tài sản tại Florida. Giấy phép hành nghề của đấu giá viên tập

sự có thời hạn là hai năm và có thể được gia hạn.
Ở Canada, Đạo luật về bán đấu giá công khai của bang Alberta - Canada thì
quy định Chủ tịch cơ quan quản lý bán đấu giá tài sản có quyền cấp giấy phép cho
người nộp đơn yêu cầu nếu xét thấy người làm đơn có đủ điều kiện trở thành đấu
giá viên. Người được cấp phép muốn tạm ngừng hoạt động có thời hạn phải thông
báo cho Chủ tịch qua thư bảo đảm và khi hoạt động trở lại cũng phải thông báo.
Chủ tịch có quyền tước hoặc đình chỉ sử dụng giấy phép, nếu người kinh doanh đấu
giá vi phạm luật hoặc quy chế hoặc nếu lợi ích công cộng yêu cầu.
1.2.2. Quy định về tổ chức đấu giá tài sản
1.2.2.1. Hình thức
Pháp luật các nước quy định hình thức của tổ chức bán đấu giá bao gồm các
doanh nghiệp như Công ty cổ phần về bán đấu giá, công ty TNHH, Công ty hợp
danh; đại lý bất động sản, đại lý cổ phiếu.

18


×