Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 91 trang )

p
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN

TRẦN NGỌC TÂN

HÀ NỘI - 2018

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TRẦN NGỌC TÂN
CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ

: 8380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ TÌNH

HÀ NỘI - 2018

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được
sử dụng trong luận văn là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu
khoa học nào. Những kết quả nêu trong luận văn chưa được sử dụng trong bất kỳ
công trình nào khác. Những thông tin tham khảo trong luận văn đều được trích dẫn
cụ thể nguồn sử dụng.

Tác giả luận văn

Trần Ngọc Tân

3


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ
nhiệt tình của nhiều cá nhân và tổ chức.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Tình đã
hướng dẫn, động viên giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn này.
Những gợi ý, định hướng và nhận xét, đánh giá của cô đã giúp tôi hoàn thiện công
trình nghiên cứu của mình.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Luật, các thầy cô trong
Khoa đào tạo sau Đại học Viện Đại học mở Hà Nội đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho tôi trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn của mình.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ, hỗ trợ về tài liệu cũng
như động viên tinh thần cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Nội dung luận văn có thể còn tồn tại, rất mong nhận được sự góp ý hoàn
thiện để tiếp tục nghiên cứu các vấn đề có liên quan.

Tác giả luận văn

Trần Ngọc Tân

4


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢNG CÁO NHẰM
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH .......................................................... 11
1.1. Khái quát về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

11

1.1.1. Khái niệm về quảng cáo và quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ... 11
1.1.2. Đặc điểm của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ........... 17

1.1.3. Hậu quả của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............. 23
1.2. Khái quát pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

24

1.2.1 Khái niệm pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh .......... 24
1.2.2. Nội dung pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh........... 25
1.3. Ý nghĩa của việc kiểm soát hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh ............................................................................................................ 32
Kết luận chương 1: .............................................................................................. 35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÀNH VI QUẢNG CÁO
NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN .................................................................................................................... 36
2.1. Thực trạng pháp luật về hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối, gây
nhầm lẫn cho khách hàng và thực tiễn thực hiện

36

2.1.1. Hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng
về giá sản phẩm ..................................................................................................... 40
2.1.2. Hình thức quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng về bao bì và nguồn gốc sản phẩm .................................................................. 44

5


2.1.3. Hình thức quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng về chất lượng hàng hóa, dịch vụ .................................................................... 46
2.2. Thực trạng pháp luật về hành vi quảng cáo bắt chước và thực tiễn thực hiện 49
2.3. Thực trạng pháp luật về hành vi quảng cáo so sánh và thực tiễn thực hiện ...... 56

Kết luận chương 2 ............................................................................................... 70
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH .................................................................................................................. 71
3.1. Phương hướng hoàn thiện

71

3.2. Giải pháp cụ thể

72

3.2.1. Giải pháp đối với Quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho
khách hàng ............................................................................................................ 72
3.2.2. Giải pháp đối với hành vi quảng cáo bắt chước ............................................ 73
3.2.3. Giải pháp đối với hành vi quảng cáo so sánh................................................ 74
Kết luận chương 3: .............................................................................................. 76
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 78

6


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. CHND: Cộng hòa nhân dân
2. TPP: Trafic- Pacific Partnership (Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương).
3.TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.

7



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 2.1:

Biểu đồ đánh giá mức độ tin cậy vào thông tin quảng cáo

Hình 2.2:

Biểu đồ khảo sát nhãn hiệu bột giặt người tiêu dùng đang sử dụng

Hình 2.3:

Biểu đồ nhận diện bột giặt được so sánh trong sản phẩm quảng cáo
tại TP Việt trì, tỉnh Phú Thọ

Hình 2.4:

Biểu đồ nhận diện bột giặt được so sánh trong sản phẩm quảng cáo
tại huyện Thanh Hà, Hải Dương

Hình 2.5:

Biểu đồ nhận diện bột giặt được so sánh trong sản phẩm quảng cáo
tại TP. Nam Định, tỉnh Nam Định

Hình 2.6:

Biểu đồ nhận diện bột giặt được so sánh trong sản phẩm quảng cáo
tại Q. Cầu Giấy, Hà Nội


Hình 2.7:

Biểu đồ thể hiện tác động của quảng cáo đến hành vi mua của người
tiêu dùng

Hình 2.8:

Biểu đồ đánh giá mức độ tin cậy vào thông tin quảng cáo

Hình 2.9:

Biểu đồ về nhận thức của người tiêu dùng về khả năng vi phạm
pháp luật cạnh tranh của hành vi quảng cáo

8


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Với đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam vận dụng những nguyên
lý của cơ chế thị trường mà trước đây chưa từng được biết đến trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung. Chúng ta đã dần quen với việc vận dụng động lực mới của sự
phát triển là cạnh tranh. Khái niệm cạnh tranh có thể hiểu theo nhiều góc độ khác
nhau, trong đó, dưới góc độ kinh tế học, cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa
các chủ thể kinh tế cùng tham gia thị trường nhằm giành giật các lợi ích kinh tế.
Cạnh tranh đã đem lại cho thị trường và cho đời sống xã hội một diện mạo
mới, linh hoạt hơn, đa dạng phong phú hơn và ngày càng phát triển, đồng thời cũng
làm nảy sinh những vấn đề xã hội mà trước đây chưa từng xuất hiện trong thực tế.
Cho đến nay, cạnh tranh đã không còn là khái niệm mới mẻ trong đời sống kinh tếxã hội và trong khoa học pháp lý của Việt Nam. Tuy nhiên công tác lập pháp và
thực thi pháp luật về cạnh tranh còn chưa thực sự đạt được hiệu quả.

Cạnh tranh là “quan hệ tay ba” giữa các doanh nghiệp với nhau và với người
tiêu dùng. Các doanh nghiệp đua nhau lấy lòng khách hàng. Khách hàng là người có
quyền lựa chọn chủ thể sẽ cung ứng sản phẩm cho mình. Kết quả của cuộc cạnh
tranh trên thương trường làm cho người chiến thắng mở rộng được thị phần và tăng
lợi nhuận. Chính bởi sự “giục giã” của lợi nhuận mà các chủ thể tham gia hoạt động
sản xuất, kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn không ngừng ganh đua để có
thể tranh giành những cơ hội tốt nhất cho mình. Họ tích cực giới thiệu sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ và thương hiệu của mình tới người tiêu dùng. Cũng bởi lẽ đó mà
hoạt động quảng cáo ra đời, cụ thể là quảng cáo nhằm mục đích thương mại.
Ý nghĩa của hoạt động quảng cáo là những nỗ lực nhằm tác động tới hành vi,
thói quen mua hàng của người tiêu dùng bằng cách cung cấp những thông điệp bán
hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay dịch vụ của người bán. Theo chiều dài
lịch sử, quảng cáo đã trở nên đa dạng về hình thức như: quảng cáo truyền hình; báo

1


chí; Internet; phát thanh; quảng cáo qua bưu điện; quảng cáo trên các phương tiện vận
chuyển; quảng cáo qua ấn phẩm danh bạ của các doanh nghiệp; quảng cáo trên tờ rơi,
áp-phích, pano hay băng rôn, trên bao bì sản phẩm, truyền miệng, qua SMS,…
Có thể thấy trong thời đại kinh tế thị trường ngày càng phát triển, quảng cáo
đã trở thành công cụ giúp các doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm của mình tới khách
hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả đồng thời giúp họ nâng cao khả năng cạnh
tranh, thu hút khách hàng nhằm chiếm lĩnh thị trường. Còn đối với người tiêu dùng,
quảng cáo giúp họ nắm bắt thông tin sản phẩm, thông tin thị trường từ đó giúp họ
đưa ra những quyết định tiêu dùng hợp lí. Chính bởi vai trò quan trọng này mà hoạt
động quảng cáo đã nảy sinh nhiều mặt trái, đôi khi nó trở thành phương tiện hữu
hiệu để các doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Đã có không ít các doanh nghiệp lợi dụng quảng cáo như một phương tiện để
hạ thấp sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh hoặc cố tình đưa thông tin gây nhầm

lẫn cho người tiêu dùng về một hoặc một vài đặc tính của sản phẩm nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình một cách trái luật,
trái đạo đức kinh doanh. Đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Có thể kể đến
quảng cáo của bột giặt Ariel, quảng cáo bắt chước Pond’s của E100, quảng cáo
không trung thực về nguồn gốc, chất lượng sản phẩm của đồ gia dụng Sunhouse,
mỳ ăn liền Omachi, mỹ phẩm White Doctors và vô vàn những cái tên khác.
Quảng cáo là cách dễ dàng nhất để tiếp cận với người tiêu dùng, Việt Nam
đứng thứ 8 trong top 10 quốc gia tin vào quảng cáo nhất theo nghiên cứu của công
ty Nielsen. Trong nhiều năm qua, hàng loạt các sản phẩm kém chất lượng đã được
bán ra dưới sự giúp sức của các quảng cáo sai lệch. Một lần nữa cho thấy người tiêu
dùng không thực sự là thượng đế mà chỉ là miếng mồi ngon. Phải chăng niềm tin
của thượng đế đặt nhầm chỗ hay vì những quảng cáo sai lệch không được xử lý
nghiêm minh. Là thượng đế với vị thế của mình, người tiêu dùng đáng lẽ ra sẽ luôn
nhận được những sản phẩm cạnh tranh với chất lượng uy tín và dịch vụ tin cậy nhất
từ các nhà cung cấp, và sẽ chẳng có gì đáng để nói nếu như những sản phẩm thực sự

2


tốt được quảng bá dưới những chương trình quảng hấp dẫn và đáng tin cậy. Rất tiếc
để cạnh tranh, để có lợi nhuận, người ta đã ko tiếc tiền tạo ra những sản phẩm
quảng cáo thổi phồng chất lượng của những sản phẩm tồi. Mặt khác, dù một quảng
cáo so sánh chất lượng sản phẩm dù có đúng, có giúp ích cho người tiêu dùng
nhưng vẫn vi phạm đạo đức kinh doanh bởi đạo đức kinh doanh không cho phép
chà đạp lên danh tiếng, thương hiệu mà người khác đã đổ mồ hôi công sức ra để xây
dựng, việc đánh giá sản phẩm nào tốt hơn là việc của người tiêu dùng.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy định về quảng cáo cũng luôn
được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề tồn tại
nhiều mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật thực định với thực tiễn áp dụng và
triển khai của đời sống xã hội, đặc biệt là những quy định của pháp luật về hành vi

quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Trên thực tế, đã có nhiều công trình khoa học và các bài viết, tạp chí bàn về
các khía cạnh pháp lý khác nhau của vấn đề quảng cáo nói chung và quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng song việc tiếp cận các vấn đề này còn
dừng ở mức chung chung về lí luận đối với tất cả các hành vi quảng cáo hoặc chỉ đi
vào cụ thể chi tiết đối với một hoặc một số hành vi mà chưa có những khảo sát cụ
thể gắn với thực tiễn.
Xuất phát từ những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật về quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh và tình hình nghiên cứu vấn đề nêu trên, tác giả
nhận thấy việc triển khai nghiên cứu về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh theo hướng tiếp cận tập trung vào vấn đề áp dụng pháp luật thực định
vào thực tế là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực.
Từ những lý do và cách tiếp cận vấn đề nêu trên, tác giả đã mạnh dạn xây
dựng và tiến hành việc nghiên cứu với đề tài là “Pháp luật về quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

3


2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật thực định về vấn
đề quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Việc nghiên cứu đối tượng của đề
tài được triển khai trong điều kiện kết hợp với thực trạng áp dụng các quy định của
pháp luật đó trong thực tiễn cuộc sống để có được cách tiếp cận đầy đủ và khách
quan cho những đánh giá và kết luận của đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Về mặt lý luận: Đề tài nhằm hệ thống hóa, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
- Về mặt thực tiễn: Bên cạnh mục tiêu nghiên cứu về mặt lý luận, tác giả đi
sâu nghiên cứu việc áp dụng và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật đối với hành

vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Trên cơ sở đó, đề tài hướng tới
việc đưa ra một số đánh giá về xu hướng và đề xuất hoàn thiện các quy định của
pháp luật về vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện những mục tiêu trên và có được hướng nghiên cứu đúng đắn,
điều tiên quyết là sử dụng được các phương pháp nghiên cứu phù hợp. Theo hướng
đó, tác giả bước đầu tìm kiếm các dữ liệu thông tin liên quan đến vấn đề quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp. Sau khi thu thập đầy đủ
các dữ liệu cần thiết cho việc nghiên cứu, tác giả tiến hành phân tích các dữ liệu đã
thu thập được để có định hướng đúng đắn cho vấn đề đang được tìm hiểu. Dưới đây
là một số phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp quan sát trực tiếp: Đây là phương pháp được sử dụng trong
quá trình tác giả tìm hiểu những vụ việc xảy ra trong thực tế liên quan đến hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, là cơ sở thực tiễn của việc tác giả
triển khai nghiên cứu đề tài của mình.

4


- Phương pháp phân tích dữ liệu: Phương pháp này được áp dụng để phân
tích những thông tin và dữ liệu cần thiết. Phương pháp này bao gồm các hoạt động:
phân tích, so sánh với tình hình chung sau đó đưa ra những kết luận về vấn đề đang
nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra: Phương pháp này được tác giả sử dụng để khai thác,
tiếp cận các ý kiến của người tiêu dùng và các chủ thể có liên quan xoay quanh vấn
đề quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Với phương pháp này, tác giả tiếp
cận được các quan điểm của các chủ thể một cách khách quan, toàn diện, từ đó có
cái nhìn đa chiều về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thông kê: Đây là phương pháp sử dụng để tổng hợp lại kết
quả mà chúng tôi điều tra nhận thức của người tiêu dùng và các chủ thể khác có liên

quan đến vấn đề quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Thông qua các con
số, dữ liệu điều tra, tác giả tiến hành phân tích, thống kê và thể hiện thông qua biểu
đồ phần trăm.
- Phương pháp hệ thống: Việc sử dụng phương pháp hệ thống là làm sáng tỏ
nội dung lý luận của hệ thống pháp luật liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh. Từ những vụ việc đã xảy ra trong thực tế và ý kiến của các
chuyên gia trong việc áp dụng các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, tác giả đưa ra ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy
định của pháp luật để ngăn chặn, hạn chế các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người
tiêu dùng.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một đề tài luận văn thạc sỹ có sự giới hạn về mặt thời
gian, không gian cũng như sự thay đổi của pháp luật cạnh tranh tại thời điểm nghiên
cứu, tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài trong các quy định của pháp luật hiện hành
về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật
Cạnh tranh 2004 (có sự so sánh với Luật Cạnh tranh sửa đổi năm 2018), Luật

5


Quảng cáo 2012, Luật Thương mại 2005 và việc áp dụng các quy định đó vào thực
tiễn cuộc sống. Luận văn không đề cập đến tố tụng (xử lý vụ việc) về quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh,
6. Tình hình nghiên cứu trong nước
Quảng cáo là một công cụ đắc lực trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Song họ luôn khát khao tối đa hóa lợi
nhuận, đôi khi là bất chấp tất cả để đạt được mục đích. Do đó, quảng cáo không còn
mang ý nghĩa như ban đầu, mà bị biến dạng, trở thành công cụ để hạ bệ nhau. Vậy
nên quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là đề tài nhận được nhiều sự quan

tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước trong thời gian vừa qua. Dưới đây
là một số công trình nghiên cứu đáng chú ý:
- “Phân cấp thẩm quyền quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo thương
mại theo pháp luật Việt Nam” của ThS. Lê Thị Lợi- Tạp chí Luật học số 7/2014;
Trong bài viết này, ThS. Lê Thị Lợi đã tiến hành phân tích hệ thống cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quản lý hoạt động quảng cáo thương mại và đặt vấn đề là
phát sinh sự chồng chéo trong quy định của pháp luật về thẩm quyền quản lý nhà
nước trong các trường hợp xảy ra tranh chấp. Cuối cùng, tác giả đưa ra kiến nghị
cần hoàn thiện quy định về thẩm quyền quản lý hoạt động quảng cáo theo hướng
quy định chức năng, nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền chính và các cơ quan
phối hợp.
- “Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo trên truyền hình
tại Việt Nam”- của ThS. Lê Hương Giang- Tạp chí Luật học số 8/2014;
Bài viết này đã chỉ rõ thẩm quyền và nội dung quản lí nhà nước đối với hoạt
động quảng cáo trên truyền hình, chủ yếu dựa trên các quy định pháp luật hiện hành
mà chưa có minh chứng cụ thể. Mặt khác, phạm vi của bài viết rất hẹp, chỉ xoay
quanh hoạt động quảng cáo trên truyền hình, trong khi quảng cáo còn được thực
hiện trên nhiều các phương tiện như quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy
tính, xuất bản phẩm, pa – nô, áp phích,…

6


- “Quảng cáo so sánh trong pháp luật cạnh tranh- một nghiên cứu so sánh
luật” của TS. Phan Huy Hồng- Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2007;
Bài viết đã tiến hành đối chiếu các quy định của pháp luật Việt Nam và các
quy định của pháp luật châu Âu về hành vi quảng cáo so sánh, tác giả bài viết đã chỉ
ra được sự giống và khác nhau trong cách thức nhận định hành vi so sánh giữa hai
hệ thống pháp luật này, nêu ra lý do vì sao pháp luật Việt Nam chỉ hướng đến việc
cấm quảng cáo so sánh trực tiếp và cho rằng những lí do này là hợp lí tuy nhiên

thực tiễn áp dụng lại phát sinh nhiều vấn đề mà luật không dự liệu được.
- “Khái niệm "quảng cáo" trong pháp luật việt nam và ảnh hưởng của nó đến
việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo” của ThS. Nguyễn Thị Dung- Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 12/2005;
Bài viết chủ yếu đi sâu vào việc phân tích khái niệm quảng cáo trong pháp
luật của một số nước trên thế giới, thông qua đó đối chiếu sang pháp luật của Việt
Nam để có cái nhìn đúng đắn hơn đối với hệ thống pháp luật quốc gia. Trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo:
+ Một là, cần xác định quảng cáo có bản chất một hoạt động thương mại và
phải sử dụng các quy định của Luật Thương mại để điều chỉnh hoạt động quảng
cáo. Điều này phù hợp với bản chất kinh tế của quảng cáo và thông lệ quốc tế.
+ Hai là, xuất phát từ bản chất kinh tế của quảng cáo, nên phân cấp rõ thẩm
quyền quản lí hoạt động quảng cáo thuộc về cơ quan quản lí nhà nước về thương
mại. Thực tiễn quốc tế cũng cho phép học tập kinh nghiệm về vấn đề này. Ở Trung
Quốc, các cơ quan quản lí nhà nước về thương mại và công nghiệp cấp tỉnh hoặc
cấp cao hơn chịu trách nhiệm quản lí và giám sát hoạt động quảng cáo. Ở Hoa Kỳ,
cơ quan liên bang có thẩm quyền điều tiết hoạt động quảng cáo là Hội đồng thương
mại liên bang (FTC).
+ Ba là, do là một nhóm quy định thuộc lĩnh vực pháp luật thương mại nên
quá trình hoàn thiện pháp luật quảng cáo phải chịu tác động của quá trình tự do hóa

7


thương mại, bảo đảm tính minh bạch, phù hợp, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Tuy nhiên, bài viết mới chỉ đề cập đến việc ảnh hưởng của khái niệm quảng
cáo đến việc hoàn thiện pháp luật mà chưa đề cập đến các vấn đề khác.
- “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm
2004” của ThS. Phùng Bích Ngọc- Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2013;

Trong bài viết này, tác giả chú trọng vào việc phân tích đánh giá các quy
phạm pháp luật được quy định trong luật cạnh tranh năm 2004 về quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh và thực tiễn áp dụng. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến
nghị như sau:
+ Một là, sửa đổi khái niệm cạnh tranh không lành mạnh quy định tại Khoản
4 Điều 2 Luật Cạnh tranh 2004 là: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
của doanh nghiệp gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác và người tiêu dùng.”
+ Hai là, bổ sung hành vi quảng cáo sai sự thật là một hình thức quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong Khoản 2 Điều 45 Luật Cạnh tranh năm
2004. Vì Luật Thương mại năm 2005 quy định quảng cáo sai sự thật là một dạng
cùng với quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh
tranh 2004 là những hành vi cấm quảng cáo.
+ Ba là, cần sửa đổi “so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng
hóa, dịch vụ cùng loại với doanh nghiệp khác” quy định tại Khoản 1 Điều 45 Luật
Cạnh tranh 2004 thành “so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa dịch vụ
cùng loại với doanh nghiệp khác”. Vì bản chất của quảng cáo so sánh là hành vi
quảng cáo cho sản phẩm của mình có nhiều ưu thế hơn sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh khác về cùng loại.

8


Mặc dù bài viết đã đưa ra được nhiều kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật, nhưng mới đề cập đến Luật Cạnh tranh mà chưa xem xét đến
các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Thương mại, Luật Quảng cáo,…
- “Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh- một số vấn đề lý
luận” của ThS. Hồ Thị Duyên- Tạp chí Thanh tra số 5/2015;
Bài viết đã tập trung khái quát một số vấn đề lí luận về hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh như khái niệm, đặc điểm, hậu quả mà hành vi đó

mạng lại. Tuy nhiên bài viết mới chỉ dừng lại ở khía cạnh lí luận mà chưa đi sâu vào
việc phân tích thực trạng về pháp luật ra sao, thực tiễn áp dụng như thế nào.
- “Đạo đức kinh doanh trong hoạt động quảng cáo” của ThS. Hồ Thị DuyênTạp chí Dân chủ và pháp luật số 5/2015;
Trong bài viết này, tác giả nhận định việc thực hiện các quy tắc về đạo đức
kinh doanh trong hoạt động quảng cáo được thể hiện cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, quảng cáo phải đảm bảo tính trung thực.
+ Thứ hai, quảng cáo phải tôn trọng đối thủ cạnh tranh.
+ Thứ ba quảng cáo phải đảm bảo sự tôn trọng con người.
+ Thứ tư, doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội cả trong hoạt động
quảng cáo.
+ Thứ năm, sản phẩm quảng cáo không chứa đựng các thông tin nhằm dụ dỗ,
lôi kéo khách hàng.
+ Thứ sáu, sản phẩm quảng cáo không chứa đựng nội dung, hình ảnh gây
phản cảm.
Mặc dù bài viết đã phân tích khá chi tiết song chỉ là đạo đức kinh doanh
trong lĩnh vực quảng cáo, chưa xem xét đến các lĩnh vực kinh doanh khác.
Các bài viết này từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã có những đóng góp
nhất định trong việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến hành vi quảng cáo

9


nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, đa phần các tác giả mới chỉ đề cập
đến vấn đề này dưới góc độ pháp lý, tức chỉ tập trung đi sâu vào phân tích các quy
định của pháp luật. Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả đã kế thừa những kết quả của
các bài viết, các công trình nghiên cứu trước đó. Bên cạnh đó, tập trung khai thác
các tình huống trong thực tế về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, đồng
thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến
vấn đề nghiên cứu. Từ đó đưa khái niệm quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh đến gần hơn với độc giả và người tiêu dùng, giúp họ tiếp cận vấn đề dễ dàng

hơn và trở thành công cụ giúp người tiêu dùng có thể bảo vệ quyền lợi chính đáng
của mình nếu hành vi trên xâm hại đến quyền lợi của họ.
7. Kết cấu của đề tài
- Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.
- Chương II: Thực trạng pháp luật đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh và thực tiễn thực hiện.
- Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

10


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ
QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Khái quát về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1. Khái niệm về quảng cáo và quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1.1 Quảng cáo
Khi tìm hiểu về một vấn đề, điều đầu tiên cần phải làm đó là tìm hiểu xem
vấn đề đó là gì, làm thế nào để phân biệt nó với những vấn đề khác. Quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng không phải là ngoại lệ. Vậy quảng cáo là
gì? Thế nào là quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh?
Xét về khía cạnh ngôn ngữ học, quảng cáo xuất phát từ “adverture” trong
tiếng Latinh có nghĩa là sự thu hút lòng người, là gây sự chú ý và gợi dẫn. Sau này,
thuật ngữ trên được sử dụng trong tiếng Anh là “advertise”. Các dịch giả giải thích
“advertise” là gây sự chú ý ở người khác, thông báo cho người khác một sự kiện gì
đó. Ở góc độ ngôn ngữ, quảng cáo đơn giản chỉ là một hoạt động thông tin, có tính
chất thông báo rộng rãi, nhưng trong đời sống kinh tế pháp lý, quảng cáo có không
gian tồn tại riêng của nó.
Xét về khía cạnh luật học, khái niệm quảng cáo được ghi nhận tại Khoản 1

Điều 2 Luật Quảng cáo năm 2012: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện
nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi;
sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin
cá nhân”. Quảng cáo có thể là hoạt động có mục đích sinh lời hoặc không có mục
đích sinh lời. Quảng cáo về hoạt động kinh doanh, về hàng hóa dịch vụ của thương
nhân hay hoạt động quảng cáo cho thương nhân khác để hưởng thù lao dịch vụ
được gọi là quảng cáo thương mại (quảng cáo có mục đích sinh lời). Hoạt động
thông tin tuyên truyền, cổ động do Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội…
thực hiện nhằm tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chinh sách kinh tế - xã hội

11


của Đảng và Nhà nước được coi là quảng cáo không có mục đích sinh lời. Như vậy,
trong pháp luật hiện hành, quảng cáo thương mại là một hoạt động của quảng cáo
nói chung. Khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài đồng nhất khái niệm
quảng cáo và quảng cáo thương mại. Luật Quảng cáo của CHND Trung Hoa ngày
27/10/1994 (có hiệu lực từ ngày 1/2/1995) quy định: “Quảng cáo được hiểu là một
quảng cáo mang tính thương mại mà người cung cấp hàng hóa, dịch vụ giới thiệu
cho hàng hóa, dịch vụ của mình, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp, thông qua các
hình thức thông tin công cộng”; “người quảng cáo được hiểu là một thực thể pháp
lý, dù là tổ chức kinh tế hay pháp nhân mà mục đích của họ là bán các mặt hàng,
dịch vụ thiết kế, sản xuất hay xuất bản thuộc lĩnh vực quảng cáo”. Trong Bộ luật
Thương mại của Cộng hòa Pháp, tại Điều 2 Pháp lệnh số 82-280 ngày 23/7/1992 áp
dụng cho Khoản 1 Điều 27 của Luật ngày 30/9/1986 về tự do thông tin và quy định
những nguyên tắc chung về chế độ áp dụng cho quảng cáo và tài trợ cũng quy định
cụ thể: “Mọi loại thông tin truyền hình phát có thu tiền hoăc đổi bù nhằm quảng bá
cho việc cung cấp sản phẩm hay dịch vụ kể cả thông tin được giới thiệu dưới dạng
tên gọi chung, trong khuôn khổ một hoạt động thương mại, công nghiệp, thủ công,

hay nghề nghiệp tự do, hay nhằm đảm bảo quảng bá thương mại cho một doanh
nghiệp Nhà nước hoặc tư nhân đều được coi là quảng cáo”. Tương tự quy định
này, Chỉ thị 97/360/CE của Quốc hội Châu Âu và Cộng đồng Châu Âu sử đổi Chỉ
thị 89/552/CE của Cộng đồng Châu Âu nhằm phối hợp một số biện pháp pháp luật,
quy tắc và hành chính của các quốc gia thành viên về việc thực hiện các hoạt động
phát thanh truyền hình cũng khẳng định: “Quảng cáo truyền hình là mọi loại thông
tin truyền hình, có thù lao hay thanh toán tương tự, hoặc được truyền hình vì mục
đích khuyến mại (khuyến khích bán hàng) cho một doanh nghiệp Nhà nước hay tư
nhân thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động thương mại, công nghiệp hay thủ
công hoặc nghề nghiệp tự do nhằm khuyến khích việc cung cấp, có thù lao vật phẩm
hoặc dịch vụ, kể cả bất động sản, hoặc chi phiếu và kỳ phiếu.”
Theo quy định tại Luật Thương mại 2005: “Quảng cáo thương mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt

12


động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình.”1. Về mặt bản chất, quảng cáo
thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại2 nhằm tìm kiếm cơ hội để mua bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Về mặt chủ thể, chỉ có thương nhân mới được phép
thực hiện hoạt động này.
Các định nghĩa trên đây cho thấy, với tính chất là một thuật ngữ pháp lý,
“quảng cáo” luôn chứa đựng các thông tin thương mại, bao gồm các thông tin về
tính năng tác dụng, phẩm chất, kiểu dáng, giá cả, tính ưu việt… của hàng hóa, dịch
vụ, thông tin về hoạt động kinh doanh của người kinh doanh. Do mục đích giới
thiệu các thông tin này là nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ nên người
có nhu cầu và thực hiện quảng cáo là thương nhân và họ phải thanh toán tiền cho
việc thực hiện mục đích đó. Khẳng định tính thương mại này, Luật của Cộng đồng
Châu Âu còn phân biệt rõ: “Quảng cáo không gồm: các thông tin do cơ quan phát
thanh phát có liên quan tới chương trình của cơ quan và các sản phẩm phụ trực

tiếp của các chương trình này; các thông tin về dịch vụ công cộng và các lời kêu
gọi cho việc làm từ thiện miễn phí”. (Điều 18- Chỉ thị 97/360/CE của Quốc hội Châu
Âu và Cộng đồng Châu Âu sửa đổi Chỉ thị 89/552/CE của Cộng đồng Châu Âu).3
1.1.1.2 Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Để hiểu khái niệm quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, trước hết
phải làm rõ khái niệm cạnh tranh. Xét từ góc độ tổng thể nền kinh tế, cạnh tranh
được hiểu là cuộc cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm
giành giật các lợi ích kinh tế về mình. Xét ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp được Mác đề cập như sau: “cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự
ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch”. Ở
đây, Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong một không gian hẹp chủ nghĩa tư

1

Xem Điều 102 Luật thương mại 2005
Xem khoản 10 Điều 3 Luật Thương mại 2005
3
ThS Nguyễn Thị Dung, “ Khái niệm về quảng cáo trong pháp luật Việt Nam và ảnh hưởng của nó
đến việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2005
2

13


bản lúc này cạnh tranh được xem là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại, quan niệm
về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ khá tiêu cực.
Tuy nhiên, ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận và coi
cạnh tranh là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội, nâng cao
hiểu biết của dân cư bởi một khi có cạnh tranh thì vô hình chung tạo ra một cuộc

chạy đua giữa các chủ thể trong cùng một lĩnh vực, thúc đẩy sự sáng tạo, đa dạng
hóa sản phẩm và phương thức kinh doanh tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội,
đồng thời cũng đem lại không ít lợi ích cho người tiêu dùng. Đó là nhìn nhận cạnh
tranh dưới góc độ tích cực.
Ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp được hiểu một cách cứng nhắc. Trong một thời kỳ dài, chúng ta
chỉ nhìn thấy mặt trái của cạnh tranh, phê phán cạnh tranh, coi cạnh tranh là mạnh
đè bẹp yếu mà chưa thấy được những mặt tích cực của cạnh tranh. Chuyển sang nền
kinh tế thị trường, quan niệm về cạnh tranh của các doanh nghiệp ở nước ta đã được
thay đổi. Ngày nay, các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh, coi cạnh
tranh là môi trường và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh của các
doanh nghiệp được quan niệm là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản
xuất kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
nhằm giành được những điều kiện thuận lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá,
dịch vụ để thu được lợi nhuận lớn nhất đồng thời thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển. Chúng ta cũng có thể hiểu theo nghĩa chung nhất cạnh tranh của các doanh
nghiệp là sự ganh đua giữa họ trong việc giành giật khách hàng hoặc thị trường mà
kết quả cuối cùng là để tiêu thụ được ngày càng nhiều hàng hoá với lợi nhuận cao.
Nếu xét trong mối tương quan giữa các doanh nghiệp với nhau và trên cơ sở
nhu cầu mua sắm của xã hội thì chúng ta hiểu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là
quá trình các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh tế tích cực sáng tạo nhằm tồn
tại được trên thị trường và ngày càng thu được nhiều lợi nhuận trên cơ sở tạo ra các

14


ưu thế về sản phẩm cũng như trong tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, ở đâu có kinh tế, ở
đó có cạnh tranh.
Trong kinh doanh, quảng cáo được coi là phương pháp cạnh tranh mang lại
hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh. Đối với doanh nghiệp, quảng cáo hàng

hóa dịch vụ sẽ giúp họ giới thiệu sản phẩm của mình đến với khách hàng một cách
nhanh chóng và rộng rãi nhất. Đồng thời đó cũng là biện pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh, thu hút khách hàng nhằm chiếm lĩnh thị trường. Đối với người tiêu
dùng, quảng cáo giúp họ nắm bắt được sản phẩm, thông tin thị trường để từ đó có
thể đưa ra những quyết định tiêu dùng hợp lí. Cũng chính bởi vai trò quan trọng này
đã khiến cho hoạt động quảng cáo xảy ra nhiều mặt trái. Đôi khi nó trở thành phương
tiện hữu hiệu để doanh nghiệp thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
Cạnh tranh 2004 (nay là Luật Cạnh tranh 2018, có hiệu lực từ 01/07/2019)4. Hành
vi này được hiểu là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác hoặc người tiêu dùng (Luật cạnh tranh 2004)5. Đến năm 2018, phạm vi đối
tượng bị tác động bởi hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được tiếp cận theo
hướng thu hẹp lại chỉ gồm “doanh nghiệp khác”, cụ thể, hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập
quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.6 Nhìn chung,
cách tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt
Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp cũng như pháp luật của một số nước khác.

4
5
6

Xem Điều 1 Luật Cạnh tranh 2004 và Điều 1 Luật Cạnh tranh 2018
Xem khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004
Xem Khoản 6, Điều 3, Luật Cạnh tranh 2018


15


Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không có quy định như thế nào là hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Pháp lệnh quảng cáo năm 2001, Luật
Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh 2018, Luật Thương mại năm 2005 hay Luật
Quảng cáo năm 2012 chỉ dừng lại ở việc liệt kê các hành vi quảng cáo bị cấm, bị coi
là hành vi cạnh tranh không lành mạnh vì có khả năng xâm phạm đến quyền, lợi ích
của các chủ thể khác.
Hiện nay, quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh còn nhiều
quan điểm, cách tiếp cận khác nhau. Trong bài viết “Quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Viên
Thế Giang- tạp chí Nhà nước và pháp luật số tháng 2/2013 có trích dẫn lời TS. Đinh
Thị Mỹ Loan và các cộng sự: “Cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng
cáo là những hành vi quảng cáo không trung thực và không thiện chí của doanh
nghiệp, thương nhân nhằm mục đích cạnh tranh. Không trung thực thể hiện ở việc
cung cấp những thông tin sai lệch, gian dối để lôi kéo khách hàng. Không thiện chí
thể hiện ở việc công kích hoặc lợi dụng hoạt động kinh doanh của đối thủ để nâng
cao vị thế của mình. Như vậy, hành vi quảng cáo tiềm ẩn nguy cơ cạnh tranh không
lành mạnh rất cao bởi tính chất thông tin một chiều, không đầy đủ, nội dung do nhà
quảng cáo trả tiền để chi phối với mục đích dẫn dắt tiêu dùng của khách hàng đối
với sản phẩm của mình”.
Tác giả Viên Thế Giang cũng trích dẫn lời TS. Lê Anh Tuấn tiếp cận trên cơ
sở mô tả về quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh
tranh quan niệm: “hành vi quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh
là các hành vi trái pháp luật được thể hiện bằng quảng cáo theo kiểu so sánh hàng
hóa, dịch vụ; bắt chước sản phẩm quảng cáo khác; đưa thông tin gian dối, gây
nhầm lẫn cho khách hàng... Đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trực tiếp
xâm hại đến đối thủ cạnh tranh, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
Hàng hóa dịch vụ ở đây phải là hàng hóa dịch vụ tồn tại trên thị trường liên quan,

nơi mà hiện đang có nhiều hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác
cạnh tranh”.

16


Tóm lại, việc không quy định chi tiết thế nào là hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh là một trong những điều cần sửa đổi của pháp luật hiện
hành. Dù được hiểu theo khía cạnh nào thì hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh đều xuất phát từ động cơ thiếu tính chuẩn mực của các chủ thể
kinh doanh, gây tổn hại cho Nhà nước, doanh nghiệp khác và người tiêu dùng.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà ngày 8/3/2018, mười một quốc gia thuộc
khu vực vành đai Thái Bình Dương đã cùng nhau đi đến thoả thuận ký kết hiệp ước
Thương mại tự do thế hệ mới được gọi là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), dự kiến sẽ có hiệu lực từ năm 2019. Việt Nam là
một trong những quốc gia thành viên của hiệp định này. Việc kí kết CPTPP mở ra
cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng đem lại vô vàn thách thức, một trong những
khó khăn được dự báo trước đó là các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với
sự cạnh tranh không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau mà còn là cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài , các “ông lớn” đã có thương hiệu, có tiềm
lực kinh tế cũng như chất lượng sản phẩm luôn đạt mức cao. Trong thời gian chuẩn
bị, để đạt được những mong muốn và kỳ vọng khi ký kết CPTPP, chúng ta cần phải
thiết lập lại một trật tự quản lý kinh tế nói chung và quản lý cạnh tranh nói riêng
một cách chặt chẽ và lành mạnh. Như đã đề cập ở trên, quảng cáo là một trong
những phương pháp hữu hiệu trong cuộc chiến cạnh tranh của các chủ thể tham gia
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, từ những yêu cầu phát triển của nền kinh tế,
pháp luật cạnh tranh, cụ thể là pháp luật về cạnh tranh bằng hình thức quảng cáo
cũng càng phải được quan tâm hơn nữa.
1.1.2. Đặc điểm của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh tất yếu đòi hỏi doanh nghiệp phải thúc đẩy tìm mọi biện pháp để

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao và
cạnh tranh hơn để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Từ đó, người tiêu
dùng dễ dàng lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Bên
cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có thể mang lại những hậu quả tiêu cực to lớn,

17


×