TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA: THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – MARKETING
BỘ MÔN: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
TOÀN CẦU HÓA VÀ
MÔI TRƯỜNG KINH TẾ
CHÂU MỸ
DANH SÁCH NHÓM:
NGUYỄN HOÀI AN KD2
PHÙNG NGUYỄN TRÂM ANH KD2
TRẦN CÔNG TẠO KD2
CHU THIÊN KIM KD3
GIẢNG VIÊN: TS. QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
------
Tháng 11 – 2011
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
LỜI MỞ ĐẦU
Theo Thomas L.Friedman - Chuyên gia bình luận hàng đầu của Mỹ về quan hệ quốc tế, kỷ
nguyên “Toàn cầu hóa” là kỷ nguyên tiếp nối sau thời kỳ “Chiến tranh lạnh”. Có thể nói, đây là
“Làn sóng Toàn cầu hóa thứ ba” trên thế giới. Rõ ràng ta nhận thấy, có 2 xu hướng hoàn toàn
đối lập giữa “Toàn cầu hóa” và “Chiến tranh lạnh”. Nếu như “Chiến tranh lạnh” là sự phân chia
biệt lập, rạch ròi giữa các quốc gia thì “Toàn cầu hóa” là sự hội nhập. Nếu như “Chiến tranh
lạnh” dựng nên bức tường chia rẽ mọi người thì “Toàn cầu hóa” là một Website liên kết mọi
người lại với nhau. Nếu như “Chiến tranh lạnh” là những hiệp định chính trị thì “Toàn cầu hóa”
là những thỏa thuận thương mại. Thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh: Một nửa thế giới ra khỏi cuộc
chiến, cố gắng sản xuất và cải tiến cho những chiếc xe Lexus sang trọng , nửa thế giới còn lại
vẫn cố gắng tranh giành xem ai là chủ của một cây Oliu nào đó. Cây Oliu có ý nghĩa quan
trọng, nhưng nếu cứ khư khư giữ lấy nó thì con người sẽ cố chấp tận diệt các cộng đồng khác.
Chiếc xe Lexus chính là động lực thúc đẩy con người tồn tại, cải tiến, làm giàu trong hệ thống
Toàn cầu hóa ngày nay.
Toàn cầu hóa tác động trên tất cả mọi lĩnh vực, trong đó, có thể nói, trên lĩnh vực kinh tế,
toàn cầu hóa có sức tác động mạnh mẽ, gây nên những biến động lớn cho nền kinh tế thế giới.
Nội dung của bài tiểu luận này đề cập đến vấn đề Toàn cầu hóa tác động đến môi trường kinh
tế của Châu Mỹ với 2 đại điện là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ và Cộng Hòa Liên Bang Brasil.
Qua đó, thấy được những cơ hội và thách thức mà Toàn cầu hóa đem lại cho hai nền Kinh tế
này. Từ đó, đứng trên góc độ là một nhà kinh doanh quốc tế, có thể lựa chọn được một quốc
gia để đầu tư vào một ngành theo một phương thức kinh doanh hợp lý.
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN MÔI TRƯỜNG KINH TẾ..............................1
Nước Mỹ..............................................................................................................................1
Sơ nét về quá trình toàn cầu hóa ở Mỹ ...........................................................................................1
Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì cho nền Kinh tế của Hoa Kỳ?....................................................1
Toàn cầu hóa gây ra những thách thức gì cho nền Kinh tế Hoa Kỳ?.............................................5
Brasil ...................................................................................................................................10
Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì đến nền kinh tế Brasil?..............................................................10
Toàn cầu hóa gây ra những thách thức gì đến nền kinh tế Brasil?...............................................12
Quy mô ảnh hưởng của Toàn cầu hóa đến 2 nền Kinh tế.......................................................14
GDP..................................................................................................................................................14
Hoạt động xuất – nhập khẩu............................................................................................................17
Một số chỉ tiêu khác............................................................................................................19
SỰ KHÁC BIỆT VỀ MÔI TRƯỜNG KINH TẾ GIỮA MỸ VÀ BRAZIL.........................20
Giống nhau...........................................................................................................................20
Khác nhau.............................................................................................................................20
CHỌN QUỐC GIA, CHỌN NGÀNH VÀ PHƯƠNG THỨC KINH DOANH....................29
Lý do lựa chọn ngành da giày tại Brazil................................................................................29
Những lưu ý cần thiết cho doanh nghiệp Việt Nam...............................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Tác động của Toàn cầu hóa đến môi trường Kinh tế:
1. Nước Mỹ:
a) Sơ nét về quá trình toàn cầu hóa ở Mỹ:
Kể từ cuộc Đại suy thoái những năm 1930 và Thế chiến II, Hoa Kỳ đã tìm cách giảm rào
cản thương mại và phối hợp hệ thống kinh tế thế giới. Hoa Kỳ ngày càng mở cửa thương mại
như một phương tiện không chỉ thúc đẩy lợi ích kinh tế mà còn là một chìa khóa để xây dựng
các mối quan hệ hòa bình giữa các quốc gia. Hoa Kỳ thống trị thị trường xuất khẩu của thời kì
sau chiến tranh Thế giới thứ II và có những tiến bộ vượt bậc về việc phát triển khoa học – công
nghệ, máy móc thiết bị. Đến những năm 1970, khoảng cách về sản lượng xuất khẩu giữa Hoa
Kỳ so với các nước khác được thu hẹp dần.
Giai đoạn 1980 – 1990, cán cân thương mại của Mỹ bị thâm hụt. Nước Mỹ phải đối mặt với
những cuộc cạnh tranh gay gắt từ những nước khác. Lúc này, xu hướng tự do hóa thương mại
bị lung lay tại Mỹ khi mà Quốc hội nước này nhen nhóm thực hiện các chính sách bảo hộ mậu
dịch trong nước.
Mặc dù vậy đến những năm 1990, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thúc đẩy tự do hóa thương mại trong
các cuộc đàm phán quốc tế, phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), hoàn
thành Vòng đàm phán Uruguay của đàm phán thương mại đa phương, và tham gia trong các
hiệp định đa phương để thiết lập quy tắc quốc tế nhằm bảo vệ sở hữu trí tuệ và thương mại dịch
vụ viễn thông tài chính và cơ bản.
Vào cuối những năm 1990, Mỹ vẫn cam kết thương mại tự do theo đuổi một vòng mới của
cuộc đàm phán thương mại đa phương, làm việc để phát triển các hiệp định thương mại tự do
hóa khu vực liên quan đến châu Âu, Mỹ Latinh, và châu Á, và tìm cách giải quyết tranh chấp
thương mại song phương với các quốc gia khác nhau. Một số cuộc khủng hoảng tài chính, đặc
biệt là làm rung chuyển châu Á vào cuối những năm 1990, đã chứng minh sự phụ thuộc lẫn
nhau tăng lên giữa các thị trường tài chính toàn cầu. Hoa Kỳ và các quốc gia khác làm việc để
phát triển các công cụ để giải quyết hoặc ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng đó.
b) Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì cho nền Kinh tế của Hoa Kỳ?
Cơ hội đầu tư của những doanh nghiệp Mỹ ra nước ngoài trở nên thuận lợi hơn
Như chúng ta đã biết, thị trường lao động Mỹ có giá cả khá cao so với thị trường lao động ở
một số nước đông dân, lực lượng lao động nhiều như Ấn Độ, Trung Quốc, một số nước thuộc
Trang 4
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan, Philippine,… Việc các doanh nghiệp Mỹ muốn
sản xuất ra được những sản phẩm giá rẻ để có thể cạnh tranh nhưng họ phải trả chi phí nhân
công quá cao thôi thúc người Mỹ muốn tìm kiếm, đầu tư trên những thị trường lao động giá rẻ
để tiết kiệm chi phí nhân công. Hơn nữa, tại các quốc gia này, việc tiêu thụ hàng hóa cũng trở
nên đảm bảo hơn do dân số đông. Nhờ Toàn cầu hóa mà những doanh nghiệp Mỹ đã có được
những cơ hội đầu tư tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Một ví dụ điển hình cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Mỹ đó là làn sóng các “đại
gia” của Mỹ đổ vào đầu tư tại các tỉnh phía tây nam Trung Quốc – nơi có thị trường dồi dào
nhưng đỡ phải cạnh tranh hơn kinh đô Bắc Kinh sầm uất của Trung Quốc. Tại đây, các doanh
nghiệp Mỹ hy vọng rằng sẽ kiếm được một nguồn lợi nhuận đáng kể trong tương lai. Ford,
Wal-Mart và một số công ty Mỹ khác đã lập kế hoạch đầu tư và mở rộng kinh doanh ở các
thành phố miền tây này, tiêu biểu là Trùng Khánh, hấp dẫn với 32 triệu dân. Theo thống kê,
tỉnh Tứ Xuyên có 1.171 công ty Mỹ đăng ký kinh doanh.
Ngoài đầu tư vào những thị trường rộng lớn có giá nhân công rẻ, Mỹ còn ra sức mở rộng
đầu tư vào những thị trường có nguồn nguyên liệu dồi dào, giá rẻ. Điển hình có thể nhắc tới
công ty khai khoáng Mines Ltd. thuộc quyền điều hành của nhà tỷ phú người Mỹ Robert
M.Friedland. Ngày 31/3/2008, doanh nghiệp tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và
Thương mại Mông Cổ cấp giấy phép cho dự án khai thác khoáng sản tại khu mỏ Ovoot Tolgoi
nằm ở phía Nam nước này. Ngày 10/4/2008, Ivanhoe Mines Ltd. tiếp tục công bố thông tin sẽ
bán 42% cổ phần đang nắm giữ tại chi nhánh Jin Shan Gold Mines cho China National Gold
Group và tiến hành một chương trình liên kết khai thác thị trường Trung Quốc.
Như vậy, nhờ tác động của toàn cầu hóa, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các quốc
gia được khuyến khích, giúp Mỹ có được những cơ hội thuận lợi để đầu tư vào những quốc gia
này, nhất là tại những quốc gia đang phát triển. Từ việc đầu tư ra nước ngoài, hằng năm, nước
Mỹ thu được những nguồn lợi béo bở do tiết kiệm được chi phí nhân công và tìm được những
nguồn nguyên liệu giá rẻ, hơn nữa lại có thể đảm bảo được thị trường tiêu thụ rộng lớn, ổn
định.
Những hàng rào thuế quan được gỡ bỏ hoặc giảm bớt tạo điều kiện cho Mỹ xuất
hàng hóa của mình một cách thuận lợi
Khi toàn cầu hóa diễn ra, việc trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các nước ngày càng trở nên
rộng rãi và phát triển mạnh mẽ hơn. Để thúc đẩy việc trao đổi và mua bán với nước ngoài, hầu
hết các quốc gia đều gỡ bỏ hoặc giảm bớt những hàng rào thuế quan cho một số hàng hóa nhập
Trang 5
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
vào nước mình. Việc làm này của các quốc gia giúp cho những hàng hóa của Mỹ có thể dễ
dàng xâm nhập thị trường nước ngoài hơn, điển hình, ta có thể xem xét một số ví dụ sau đây:
Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA nối kết 3 nền kinh tế lớn là Mỹ, Canada và
Mexico tạo ra một thị trường hàng hoá và dịch vụ lớn nhất thế giới. Trong khi triển khai,
NAFTA yêu cầu loại bỏ ngay lập tức các loại thuế quan của hơn nửa số lượng mặt hàng nhập
khẩu của Mỹ từ Mexico và trên 1/3 số lượng mặt hàng xuất khẩu của Mỹ sang Mexico.
NAFTA đã cam kết tất cả các bên chấm dứt những hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài
là thành viên của NAFTA, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ cao, và tự do hoá thương mại
dịch vụ. Tính đến 01 tháng 1 năm 2008, tất cả các thuế quan giữa ba nước đã được loại bỏ. Từ
1993-2009, thương mại tăng gấp ba lần từ 297 tỷ USD lên 1,6 nghìn tỷ USD.
Khi là thành viên của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và Tổ
chức Kinh tế Thế giới (WTO), cũng như những thành viên khác, Mỹ được hưởng những chính
sách mở cửa, Tự do hóa thương mại và đầu tư tập trung vào việc mở cửa thị trường, được cắt
giảm và dần dần dẫn đến loại bỏ hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại và
đầu tư. Các biện pháp tự do hoá đã dẫn tới việc cắt giảm khá lớn các loại thuế suất.
Ví dụ: Để thực hiện lời hứa khi Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc cắt giảm thuế
quan nhập khẩu của một số sản phẩm điện tử, như máy tính xách tay và máy ảnh kỹ thuật số
50%, mang lại lợi ích các công ty đa quốc gia, bao gồm Hewlett-Packard Co (HP) và Dell Inc,
và kích thích doanh số bán hàng của họ trên thế giới phát triển nhanh nhất trong thị trường IT.
Các công ty nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Mỹ
Theo Cơ quan Nghiên cứu Phục vụ Quốc hội (CRS), các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu
khoảng 10% tổng tài sản tài chính của nước Mỹ, bao gồm cổ phiếu công ty, trái phiếu và cổ
phiếu chính phủ. Họ cũng đầu tư trực tiếp vào các công ty thiết bị và thị trường bất động sản
của Mỹ. Vào năm 2006, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư gần 1,8 nghìn tỷ USD vào nền kinh
tế Mỹ, khoảng 184 tỷ USD trong số đó là đầu tư trực tiếp, phần còn lại là đầu tư vào cổ phiếu
và trái phiếu. Với các cách tính toán khác nhau thì tổng lượng tiền đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Mỹ trong năm 2005 là từ 1,6 nghìn tỷ đến 2,8 nghìn tỷ USD. “Hoa Kỳ là quốc gia có lượng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào lớn nhất trên thế giới và cũng là nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài lớn nhất trên thế giới”
Trong một thập kỷ gần đây, sự vùng dậy phát triển mạnh mẽ của của nền kinh tế Trung
Quốc cũng gây những tác động không nhỏ đến kinh tế thế giới. Cũng nằm trong tác động toàn
Trang 6
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
cầu hóa, Trung Quốc ra sức mở rộng việc đầu tư của mình ra nước ngoài và Hoa Kỳ cũng là
một trong những lựa chọn của quốc gia này. Trong khoảng từ nay đến năm 2020, Mỹ trông đợi
các doanh nghiệp Trung Quốc triển khai khoảng 1 – 2 nghìn tỷ đô la cho việc đầu tư ra nước
ngoài. Mỹ có thể sẽ là một đối tác được hưởng lợi nhiều nhất từ sự đầu tư này. Trong một
nghiên cứu mới nhất, nước Mỹ đã thấy rằng chi phí đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp
Trung Quốc vào Mỹ trong năm 2009 và 2010 đã tăng hơn 130% một năm. Tính riêng năm
2010, các công ty Trung Quốc đã dành hơn 5 tỷ đô la đầu tư vào Mỹ ở 25 dự án. Các công ty
của Trung Quốc ngày nay đã đầu tư ít nhất vào 35 trên tổng số 50 bang của Mỹ và đang tiếp
tục mở rộng phạm vi hoạt động. Việc các nhà đầu tư Trung quốc tăng cường đầu tư ở Mỹ đã
tạo ra những lợi ích lớn cho nền kinh tế Mỹ như tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao
động Mỹ.
Giúp tăng năng suất sản xuất ở một số ngành Kinh tế của Mỹ
Do thay đổi công nghệ và toàn cầu hóa mà một quốc gia phát triển mạnh về công nghệ
không cần phải chuyên môn hóa hoàn toàn vào một loại hàng hóa hay dịch vụ mà có thể vào
từng bước cụ thể trong quá trình sản xuất. Các công đoạn có giá trị gia tăng thấp được chuyển
tới các nước đang phát triển vốn có nhân công rẻ hơn. Những công việc “cao cấp” hơn như
nghiên cứu và phát triển sẽ được giữ lại để thực hiện tại Mỹ.
Ví dụ như tập đoàn Apple đã chuyển việc sản xuất và lắp ráp linh kiện cho các nhà máy
như Foxconn ở Trung Quốc, Holdings ở Đài Loan … còn việc nghiên cứu và phát triển sản
phẩm mới vẫn được thực hiện tại trụ sở chính của Apple tại thung lũng Silicon để công việc
này được chuyên môn hóa hơn và giúp giữ được bí mật công nghệ
Người Mỹ có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hóa với chủng loại đa dạng hơn và giá cả
thấp hơn
Toàn cầu hóa giúp cho hàng hóa của Mỹ vào thị trường các nước khác trở nên dễ dàng hơn
thì ngược lại cũng giúp cho các hàng hóa của nước ngoài xâm nhập vào thị trường Mỹ đa dạng
và phong phú hơn. Điều này thực tế có lợi cho người tiêu dùng Mỹ khi cơ hội có được sự lựa
chọn nhiều hơn cho các mặt hàng. Chính vì tính chất cạnh tranh để chiếm được thị phần tại Mỹ,
những mặt hàng này phải thực hiện cuộc chạy đua về giá, chất lượng (tuy nhiên không được vi
phạm luật chống phá giá)… để có thể cạnh tranh được với những sản phẩm của những hãng
khác. Chính vì vậy, người tiêu dùng tại Mỹ vẫn có thể có được những sản phẩm với giá thấp và
chất lượng cao.
Trang 7
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Ví dụ như người tiêu dùng Mỹ sử dụng các mặt hàng may mặc của Trung Quốc và Việt
Nam do giá rẻ hơn. Những mặt hàng điện tử đa dạng, nhiều chủng loại của Samsung, Sony
cũng tràn ngập trên thị trường Mỹ thay vì chỉ có JVC. Người tiêu dùng Mỹ có thể thỏa sức lựa
chọn cho mình những mặt hàng phù hợp với nhiều mức giá, khiến cho việc mua sắm trở nên
phong phú hơn.
c) Toàn cầu hóa gây ra những thách thức gì cho nền Kinh tế Hoa Kỳ?
Người lao động Mỹ có nguy cơ bị mất việc làm
Khi các doanh nghiệp Mỹ chạy đua trong việc tìm kiếm nguồn nhân công giá rẻ và đầu tư
tại các quốc gia đang phát triển thì hàng triệu lao động Mỹ rơi vào cảnh khốn đốn vì việc làm
của họ đã bị chuyển sang cho người lao động tại các nước khác. Trong số 15.000 nhân viên mà
Caterpillar Inc tuyển dụng trong năm 2010, có tới hơn một nửa là ở bên ngoài nước Mỹ. Xu
hướng trên lý giải tại sao tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn ở mức cao – 9,8% trong tháng 11/2010.
Xu hướng trên không giới hạn ở những công ty lớn nhất nước Mỹ. Giờ đây, dù trong lĩnh vực
công nghệ, bán lẻ hay sản xuất thì các doanh nghiệp đều thuê nhân công ngoại quốc ngay từ
đầu.Theo nhà kinh tế học Sachs, các tập đoàn đa quốc gia không có sự lựa chọn nào khác, nhất
là khi hiện tại, chất lượng lao động toàn cầu đã cải thiện. Ông nhận định nước Mỹ đang không
cung cấp đủ số lao động có trình độ cao trong khi các nước khác lại làm được: “Chúng ta đang
không đáp ứng được nhu cầu về giáo dục cho thanh niên. Trong một thế giới toàn cầu hóa, điều
đó sẽ đem lại những hậu quả nghiêm trọng.”
Một lí do nữa khiến cho lao động ở Mỹ mất việc đó là do tình hình kinh tế thế giới nói
chung và Mỹ nói riêng gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp phải đóng cửa do không thể
đứng vững được trước sóng gió của nền Kinh tế đã khiến nhiều người lao động phải nghỉ việc.
Trong số những người Mỹ vừa gia nhập vào hàng ngũ thất nghiệp có đến 60% đến từ các
doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, cho đến nay, khi nền kinh tế Mỹ đang dần hồi phục thì tỉ lệ thất
nghiệp ở Mỹ vẫn cao. Nguyên nhân là do chi phí lao động đắt đỏ hơn trong khi thiết bị máy
móc rẻ hơn do giá thiết bị giảm và chính sách miễn giảm thuế đối với đầu tư vốn đã dẫn đến
việc các công ty Mỹ chi nhiều hơn để mua sắm máy móc, thiết bị thay vì thuê thêm nhân công.
Sự đầu tư của Mỹ ra nước ngoài có thể gặp rủi ro nếu bị ăn cắp bí quyết kinh
doanh và công nghệ làm mất đi lợi thế cạnh tranh của Mỹ
Đối với những quốc gia tiếp nhận đầu tư của Mỹ thông qua các hình thức như hợp đồng
chuyển nhượng License hay Franchise, họ sẽ cố gắng tiếp thu các bí quyết công nghệ và quản
Trang 8
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
lý kinh doanh mà những doanh nghiệp của Mỹ đã tích lũy qua nhiều năm, sau đó khi hết hiệu
lực sử dụng hợp đồng, những công ty tiếp nhận này đã có thể có đủ thời gian để nắm hết các bí
quyết công nghệ này thậm chí cải tiến và khắc phục được những điểm yếu của công nghệ. Điều
này sẽ giúp cho những nước tiếp nhận đầu tư học hỏi và nắm giữ được những bí quyết quan
trọng để phát triển ngành hàng, ngược lại sẽ làm cho Mỹ bị mất đi những bí quyết giúp họ tạo
nên lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Nhìn lại quá khứ, tháng 6-1888, George Eastman được nhận bằng sáng chế cho chiếc máy
ảnh sử dụng phim dạng cuộn đầu tiên trên thế giới có tên gọi: Kodak. Chiếc máy ảnh Kodak đã
thực sự tạo ra một cuộc cách mạng trong lưu giữ hình ảnh của nhân loại. Do đó, Kodak khiến
cả thế giới sục sôi kiếm tìm và trong bốn năm đầu, có tới 73.000 chiếc được tiêu thụ với giá 25
USD/chiếc. Trên cơ sở đó, thương hiệu lừng danh EK ra đời. Chỉ 5 năm sau khi được giới thiệu
tại Mỹ, EK đã khai trương văn phòng đầu tiên tại London và nhanh chóng mở rộng khắp châu
Âu. Năm 1930, Kodak có 75% thị phần trên thế giới trong ngành hàng thiết bị chụp ảnh và
khoảng 90% lợi nhuận. Tuy nhiên, sau khi công nghệ máy ảnh này được thế giới biết đến, sự
hùng mạnh của thương hiệu EK bỗng khựng lại bởi cuộc tấn công của kỹ nghệ ảnh số. Khi phát
minh ra chiếc máy ảnh kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới vào năm 1975, Kodak lúc đó đã chần
chừ với ý tưởng giảm bớt sự phụ thuộc vào máy ảnh cơ khi đó đang thu lợi nhuận cao. Như
vậy, thay vì tập trung tiếp tục phát tiển công nghệ đổi mới sản phẩm khi biết những bí quyết
công nghệ của EK đã bị học hỏi và phát triển cao hơn thì EK lại chạy theo lợi nhuận trước mắt
trên thị trường film và máy ảnh cơ. Trong lúc đó các đối thủ của họ ở Nhật Bản là Canon và
Sony có cơ hội vươn lên về máy ảnh kĩ thuật số đặc biệt vào những năm 90 của thế kí XX. Như
vậy, một hãng máy ảnh của Mỹ đã từng rất lừng lẫy trong lĩnh vực nhiếp ảnh đã bị mất đi lợi
thế cạnh tranh vào tay Nhật Bản
Sự đầu tư quá lớn của nước ngoài vào Mỹ có thể chi phối nền Kinh tế Mỹ
Nhiều chuyên gia lo ngại về tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế Mỹ của các chính phủ nước
ngoài, khoảng 16% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2005.Các nhà đầu tư nước ngoài sở
hữu hơn một nửa chứng khoán kho bạc của Mỹ. Và khi nhận được khá nhiều sự đầu tư của
nước ngoài vào Mỹ sẽ rất dễ khiến Mỹ trở thành con nợ và rất có thể nền kinh tế sẽ bị tác động
mạnh từ những chủ nợ này.
Khi đề cập tới các chủ nợ của Mỹ là nói tới nợ công. Đó là khoản nợ mà công chúng gồm
các cá nhân, tập đoàn, chính quyền bang và địa phương, chính phủ nước ngoài, mua từ chính
phủ liên bang Mỹ dưới dạng trái phiếu ngân khố Mỹ. Để đánh giá mức độ trầm trọng của việc
Trang 9
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
nợ nần, nợ liên bang thường được tính theo số phần trăm GDP - hay giá trị tổng số hàng hóa và
dịch vụ tạo ra trong một nước. Tại Mỹ, số % này tăng mạnh, từ 36% năm 2003 lên tới 62%
năm 2010. Nói một cách khác, Mỹ đã tiêu hơn nửa số tiền đang có vào việc trả nợ.
Dưới đây là các chủ nợ lớn của Mỹ:
•Trung Quốc
Số tiền Mỹ nợ Trung Quốc vào năm 2010 là 884 tỷ USD, số phần trăm nợ là 9,8%.
Từ năm 2005 đến 2010, Trung Quốc mua gần 500 tỷ USD tài sản ở Mỹ. Đầu năm 2011,
quan hệ tài chính giữa Mỹ và Trung Quốc đi tới một mốc quan trọng mới: Giá trị trái phiếu kho
bạc mà Trung Quốc nắm giữ lên tới 1 nghìn tỷ USD. Điều này có thể khiến một số người Mỹ
chạy vội tới ngân hàng để đổi USD sang nhân dân tệ. Song, đây chưa phải là tin tức xấu. Thực
tế, khi căng thẳng giữa Mỹ và chủ nợ đói trái phiếu nhất trở nên băng giá và nếu Trung Quốc
bắt đầu bán trái phiếu Mỹ để trả đũa thì nó sẽ tạo ra một hiệu ứng dây chuyền khủng khiếp
khắp Thái Bình Dương, làm tăng lãi suất và giảm giá trị đồng USD.
•Nhật
Số tiền Mỹ nợ Nhật vào năm 2010 là 865 tỷ USD, số phần trăm nợ là 9,6%.
Kể từ khi trái phiếu Mỹ được cho là khoản đầu tư an toàn nhất mà một người nên mua (nói
một cách khác, chính phủ Mỹ giỏi việc thanh toán nợ, thậm chí là điều này khiến Mỹ phải tăng
thâm hụt ngân sách), Nhật đã mua phần lớn trái phiếu để giúp bình ổn nền kinh tế. Dù có
những lo ngại rằng Mỹ sẽ vỡ nợ, đe dọa làm giảm giá trị trái phiếu Mỹ, Nhật vẫn tự tin khoản
đầu tư vào Mỹ sẽ được hoàn trả đầy đủ.
•Anh
Số tiền Mỹ nợ Anh vào năm 2010 là 459 tỷ USD, số phần trăm nợ là 5,1%.
Năm 2010, trong khi chính phủ liên bang Mỹ tiếp tục các nỗ lực phục hồi thị trường và nền
kinh tế của mình, số nợ của Mỹ với Anh vẫn tăng 246%, lên hơn 500 tỷ, số tiền lớn nhất từ
trước tới nay mà Mỹ nợ Anh.
Lo sợ sự đầu tư của nước ngoài
Mặt khác, đôi khi chính vì sự sợ hãi, lo lắng quá mức trước sự đầu tư của nước ngoài vào
Mỹ đã làm cho những chính sách kinh tế của Mỹ trở nên gay gắt, làm mất đi những cơ hội kinh
doanh có lợi cho nước Mỹ. Rất ít công dân Hoa Kỳ biết được được rằng Mỹ chỉ xếp thứ 20
trong danh sách những nước có độ mở lớn nhất với dòng lưu chuyển tư bản, thứ 21 trong số
các quốc gia có hàng rào thương mại thấp nhấp, và thứ 35 về nỗ lực làm giảm tình trạng
Trang 10
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
thương mại bị bóp méo thông qua biện pháp thuế quan và trợ cấp (theo số liệu Báo cáo Cạnh
tranh Toàn cầu 2008 – Global Competitive Report).
Lợi ích của Trung Quốc cũng có thể là lợi ích của Mỹ, giống như đã được chứng thực bởi
sự đầu tư sớm quanh khu vực châu Á: Các công ty Nhật Bản đã có một sự khởi đầu đầy khó
khăn tại Mỹ vào những năm 80, khi mà họ được “chào đón” với một chủ nghĩa hoài nghi và
đầy lo ngại. Ngày nay, các công ty Nhật Bản sử dụng khoảng 700.000 nhân công Mỹ với số
tiền phải trả hàng năm gần 50 tỷ đô la.
Tuy nhiên, cũng giống như Nhật Bản, sự phát triển đầu tư của Trung Quốc đang khuấy
động cơn bão chính trị tại Mỹ. Các cuộc tranh luận gần đây đã nổ ra xung quanh việc đầu tư đa
dạng bởi nhà cung cấp thiết bị viễn thông Huawei, cũng như nhà sản xuất thép Anshan tại
Missisipi và việc chế tạo thành công máy bay hạng nhỏ Cirrus tại một công ty nhà nước của
Trung Quốc.
Một nguy cơ rõ ràng là các hành động phản ứng chống Trung Quốc sẽ chỉ gia tăng khi mà
các con số nói trên tăng nhanh và kết quả là sẽ hạn chế quan hệ với các công ty đến từ Trung
Hoa đại lục. Một chính sách đóng cửa như vậy sẽ rất bất lợi đối với các công ty Trung Quốc.
Nó cũng sẽ là một bi kịch cho cộng đồng Mỹ vì sẽ mất đi nhiều việc làm, sự cải tiến, thuế thu
nhập....
Việc ngăn cản sự đóng cửa trong đầu tư song phương sẽ đòi hỏi sự nỗ lực không mệt mỏi từ
hai phía. Quốc hội và Chính phủ Mỹ phải cùng nhau đưa ra một thông điệp rõ ràng có sự đồng
thuận của cả hai đảng rằng các nhà đầu tư Trung Quốc được chào đón tại Mỹ, vì sợ rằng các
nhà đầu tư này sẽ chuyển hướng vào các quốc gia khác
Những sản phẩm của Mỹ vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ những sản phẩm
nước ngoài
Trong môi trường Toàn cầu hóa, nhất là khi tham gia các tổ chức kinh tế thế giới như WTO
hay NAFTA… Mỹ được nới lỏng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để hàng hóa dễ dàng
xâm nhập thị trường nước ngoài hơn, thì ngược lại, bản thân nước Mỹ cũng phải nới lỏng
những hàng rào này cho hàng hóa của những nước khác. Niềm tin của người Mỹ vào sự cạnh
tranh chính vì vậy trở nên suy yếu. Việc nới lỏng dần các quy định pháp lý về chống độc quyền
đã tạo điều kiện cho những con kình ngư sau khi sáp nhập thống trị toàn bộ thị trường. Mà trớ
trêu thay, những vụ hợp nhất, sáp nhập này lại vẫn thường được biện minh bằng thuyết “thị
trường tự do”. Ngoài ra, các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường Mỹ còn làm cho lãi
suất và giá cả tại Mỹ thấp hơn mức thông thường, gây ra một làn sóng tiêu dùng hàng hóa một
cách ồ ạt, bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu.
Trang 11
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Giờ đây , những chiếc xe hơi của các hãng sản xuất của Mỹ như GM hay Ford sẽ phải cạnh
tranh quyết liệt và gay gắt hơn với những chếc xe hơi ngoại nhập như Toyota hay Honda của
Nhật Bản, xe hơi Hyundai của Hàn quốc,....Hay chiếc điện thoại Motorola hay iPhone của Mỹ
cũng phải cạnh tranh với những chiếc điện thoại Nokia của Phần Lan, Samsung của Hàn Quốc,
Siemens của Đức.
Sự trả đũa về kinh tế của một số quốc gia
Nhiều ngành công nghiệp Mỹ và các đại diện của họ trong Quốc hội khẳng định rằng các
ngân hàng trung ương ở Đông Á đang sử dụng chứng khoán kho bạc Mỹ để thao túng tỷ giá
hối đoái, làm tăng lượng hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu vào thị trường Mỹ. “Đồng thời, các
chính phủ nước ngoài đang thực hiện hoạt động thôn tính, thông qua phối hợp hoặc hành động
riêng lẻ, nhằm tác động lên tỷ giá hối đoái của đồng đô-la”, CRS nhận định.
Nhiều chuyên gia e sợ rằng việc các chính phủ nước ngoài nhanh chóng nhượng lại tài sản
đầu tư trên nước Mỹ của họ sẽ gây ra rắc rối nghiêm trọng cho nền kinh tế thế giới. Các chính
phủ thù địch nước ngoài có thể lôi kéo và vận động rút tiền hàng loạt ra khỏi các thị trường
chứng khoán tại Mỹ nhằm gây bất ổn cho nền kinh tế Mỹ. Hoặc các chính phủ nước ngoài có
thể quyết định đầu tư tiền của họ vào nơi khác khi mà giá trị tài sản của họ tại Mỹ bắt đầu suy
giảm.
Gia tăng khoảng cách giàu nghèo:
Khủng hoảng kinh tế và mất việc làm đã làm cho khoảng cách giàu nghèo của Nước Mỹ
vốn rộng nay còn rộng hơn. Thật là một con số đáng kinh ngạc khi trong 20 năm gần đây, chỉ
5% dân số mỹ nắm giữ 60% tài sản quốc gia. Theo báo cáo của Cục điều tra dân số Mỹ, thu
nhập bình quân của các gia đình trung lưu ở Mỹ khoảng 50.303 USD/năm. Còn tiêu chuẩn
người nghèo ở Mỹ là thu nhập một năm dưới 10.991 USD. Báo cáo công bố ngày 26/10/2011
của Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) cho biết, trong thời gian từ năm 1979-2007, thu
nhập của 1% những người giàu nhất nước Mỹ tăng 275% trong khi thu nhập của 20% những
người nghèo nhất nước Mỹ chỉ tăng 18%.
Mặc dù người Mỹ chấp nhận mức chênh lệch về thu nhập, nhưng họ ngày càng thất vọng khi
cảm thấy những người giàu, nhất là giới doanh nhân, được hưởng quá nhiều chính sách ưu ái
của chính phủ. Người dân Mỹ trở nên phẫn nộ hơn bao giờ hết khi chính phủ cố gắng bơm tiền
để cứu lấy các doanh nghiệp trong khi người dân đang phải sống chật vật trong thời buổi Kinh
tế khó khăn. Kéo theo đó là cuộc biểu tình “Chiếm lấy phố Wall” đã tạo nên một làn sóng biểu
tình kéo theo ở một số thành phố lớn như London, ToKyo, Melbourne.
Trang 12
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
2. Brasil:
a) Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì đến nền kinh tế Brasil?
Những hàng rào kinh tế được dở bỏ, mở ra những cơ hội thị trường to lớn
Toàn cầu hóa phát triển kéo theo sự ra đời của nhiều liên minh kinh tế quốc tế ở nhiều cấp
độ khác nhau. Sự thành lập các liên minh này nhằm thiết lập quan hệ giữa các nước và quan
trọng hơn hết là dở bỏ dần những cản trở trong thương mại. Và để góp phần xúc tiến thương
mại của mình, Brasil đã gia nhập nhiều tổ chức kinh tế như WTO, MERCOSUR,G-20, …
Brasil là một trong những thành viên tích cực của MERCOSUR - Mục đích của khối này là
khuyến khích hợp tác, trao đổi kinh tế, thương mại trong khu vực và giữa MERCOSUR với
các khu vực khác (trước hết là với khu vực châu Á-TBD, trong đó có ASEAN). Giữa các nước
thành viên thì xóa bỏ các hàng rào thuế quan, hàng hóa trao đổi không bị đánh thuế.
Brasil có thế mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với nền kinh tế thị trường phát triển khá đầy đủ, kinh tế mở cửa, Brasil có thế mạnh thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, việc kháng cự tốt với cuộc khủng hoảng toàn cầu
cũng là một lợi thế. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và mức lãi suất thực gần 6% khiến thị
trường Brasil trở thành điểm đến hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài.
Brasil là quốc gia thu hút vốn FDI nhiều nhất trong số các nước Mỹ La Linh. Vào năm
2008, khu vực Mỹ La tinh và Caribe nhận 142,3 tỷ USD FDI, trong đó Brasil thu hút FDI đạt
45,7 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI tại Brasil đạt 11 tỷ USD trong 5 tháng
đầu năm 2009. Trong năm 2010, chỉ riêng Trung Quốc đã đầu tư 12,7 tỷ USD vào Brasil. 45%
vào khu vực năng lượng; 20% vào ngành công nghiệp khai thác quặng mỏ và 20% vào các hoạt
động nông nghiệp của Brasil. Năm 2011, Bộ trưởng Mỏ và Năng lượng Brasil Edison Lobao
cho biết Trung Quốc muốn cho công ty dầu khí quốc doanh Petrobras của Brasil vay 10 tỷ USD
để giúp khai thác các giếng dầu mới có trữ lượng lớn ở vùng biển nước sâu ngoài khơi Rio de
Janeiro.
Hiện tại, Chính phủ Brasil đang ra sức thu hút đầu tư vào phát triển các ngành công nghệ
cao như dầu mỏ và công nghệ thông tin. Hãng IBM (Mỹ) đã chọn Brasil làm nơi đặt cơ sở
nghiên cứu mới đầu tiên của họ trong 12 năm qua. Brasil hiện chiếm đến gần 50% tổng mức
đầu tư cho công nghệ thông tin tại Nam Mỹ. Và một trong những nguyên nhân giúp Brasil thu
hút đầu tư công nghệ cao là do đây là nơi có đến gần 200 triệu người tiêu dùng mà đa phần là
thích xài hàng công nghệ cao, 89 triệu điện thoại di động đang được sử dụng và bùng nổ nhu
Trang 13
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
cầu về máy tính (chỉ trong 5 năm từ 2005-2010 đã tăng từ 3 triệu đơn vị lên hơn 14 triệu đơn
vị).
Tăng cường đầu tư ra nước ngoài
Nếu chỉ tính từ năm 1990 đến tháng 6/2007, Brasil đã đầu tư ra nước ngoài 31,2 tỷ USD, là
nước đầu tư nhiều nhất trong số các nước đang phát triển có đầu tư ra nước ngoài lúc bấy giờ.
Brasil là nước có nền công nghiệp phát triển nhất Nam Mỹ, đầu tư ra nước ngoài chủ yếu tập
trung ở các nước trong khu vực Nam Mỹ. Ngoài ra dòng đầu tư của Brasil có xu hướng tăng
nhanh sang các nước Bắc Mỹ, EU và châu Á, châu Phi. Các ngành đầu tư ra nước ngoài tập
trung chủ yếu vào năng lượng, thuỷ điện, dầu khí, công nghiệp máy bay,...
Thời gian gần đây, khi đồng Real tăng giá khiến Brasil tăng cường đầu tư ra nước ngoài hơn
nữa. Vào tháng 4/2011, theo số liệu của Bộ Tài chính Mỹ, Brasil đã mua 13,4 tỷ USD nợ của
chính phủ Mỹ, nhiều hơn bất cứ nước nào khác, và gần gấp đôi lượng mua vào của Trung
Quốc. Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu chính phủ Mỹ của Brasil tăng mạnh trong đó Ngân hàng trung
ương chiếm 90% do can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm ngăn đồng Real lên giá.
Một lượng tiền lớn đổ vào đất nước và giảm nợ nước ngoài do ngành nông nghiệp
và khai thác mỏ làm tăng đáng kể thặng dư trao đổi.
Có thể thấy trong hai thập kỷ rưỡi qua, kể từ khi mở cửa kinh tế, Brasil là một trong những
nước sản xuất lớn nhất thế giới nhiều loại ngũ cốc và thịt quan trọng, nhờ tăng cường đầu tư
cho công nghệ và quỹ đất nông nghiệp.
Một số nông sản thế mạnh mà Brasil dẫn đầu về xuất khẩu:
ĐƯỜNG: Brasil hiện là nước sản xuất và xuất khẩu đường lớn nhất thế giới, dự kiến sẽ sản
xuất kỷ lục 40,9 triệu tấn đường mía trong vụ này, chiếm một nửa thị trường đường toàn cầu.
CÀ PHÊ: Brasil cũng là nước sản xuất và xuất khẩu lớn nhất thế giới, với sản lượng từ 35 - 55
triệu bao cà phê mỗi năm. Họ kiểm soát tới 30% thị trường cà phê nhân thế giới.
NƯỚC CAM: Brasil là nước sản xuất và xuất khẩu nước cam lớn nhất thế giới.
THỊT BÒ: Brasil có lượng bò nuôi thương phẩm lớn nhất thế giới, khoảng 200 triệu con.
THUỐC LÁ: Brasil là nước sản xuất thuốc lá lớn nhất thế giới
Thêm vào đó, Brasil hiện là nước khai thác quặng sắt xếp thứ 2 thế giới và đồng thời Brasil
cũng tiên phong về lĩnh vực nghiên cứu thăm dò dầu trong vùng nước sâu.
Sự gia nhập của các công ty đa quốc gia từ nước ngoài tạo ra thị trường hàng hóa
đa dạng, nhiều chủng loại, giá thấp, thị trường lao động được cải thiện.
Trang 14