Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

VĂN HÓA QUỐC TẾ-HOÀN CHỈNH.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 33 trang )

1. DẪN NHẬP
Văn hóa là kiến thức có được mà con người dùng để giải
thích những điều đã trải qua và tạo ra hành vi xã hội. Văn
hóa được chia sẽ bởi các thành viên trong một nhóm, tổ
chức hoặc xã hội. Thông qua văn hóa chúng ta xây dựng
giá trị và thái độ định hướng cho hành vi của cá nhân và
nhóm. Văn hóa được hiểu thông qua giáo dục và kinh
nghiệm. Văn hóa cũng trãi qua từ thế này sang thế hệ
khác, văn hóa được lưu truyền. Trong cùng thời gian văn
hóa ít thay đổi trừ khi con người thích nghi trong những điều kiện mới. Trong hầu hết các nước,
văn hóa trong những năm 90 không giống như trong những năm 60.
Ví dụ: Trong văn hóa Việt Nam thái độ khiêm tốn, tự xóa bỏ bản thân, nhún nhường được xem là
một giá trị tích cực; nhưng trong văn hóa Mỹ thái độ tự khẳng định ( self-assertiveness) thường
được đề cao hơn, được xem là một giá trị tích cực.
Để thành công trong kinh doanh quốc tế, con người phải hiểu văn hóa của các nước khác nhau
và biết các thích nghi chúng. Xét trong một phạm vi, tất cả các cá nhân sẽ có hướng hành động
theo văn hóa nước nhà, thách thức trong kinh doanh quốc tế là phải biết cách mở rộng tầm nhìn
để tránh những quyết định dựa trên những quan niệm sai lầm.
Một nguyên nhân của những quan niệm sai lầm này là chủ nghĩa chủng (ethnocentrism), cho
rằng cách mà họ thực hiện là ưu việt so với người khác. Có nhiều hình thức của hành vi tự cao
này. Một vài hình thức phổ biến như thái độ bề trên, thiếu tôn trọng, cung cách kẻ cả, và hành vi
cứng rắn. Hành vi tự cao này có thể tìm thấy trong cả cá nhân và tổ chức. Trường hợp là cá nhân
trong xã hội thường cho là “chúng ta là tốt hơn người khác”. Trong
trường hợp là tổ chức điển hình là MNC sử dụng những chiến lược ra
nước ngoài giống như đã sử dụng trong nước vì cho rằng cách kinh
doanh trong nước là tốt nhất để sử dụng trong thị trường cạnh tranh ở
nước ngoài. Ngoài ra còn có những trường hợp khác như: (1) không
thay đổi sản phẩm theo những yêu cầu của thị trường riêng biệt, (2)
mang lợi nhuận trở về nước nhà mà không tái đầu tư thị trường nước
ngoài, (3) đặt ở những vị trí then chốt những nhà quản trị làm việc
tốt trong nước nhưng không có kinh nghiệm nước ngoài. Hành vi tự cao có thể tránh nếu hiểu


biết văn hóa nơi tiến hành hoạt động kinh doanh. Những điều này có thể thực hiện nếu nghiên
cứu các yếu tố văn hóa.
Việc không nắm bắt được những tinh tế ẩn sâu sau những hình thức biểu hiện văn hóa như nghi
lễ chào đón và cách sắp xếp chỗ ngồi có thể làm thất bại một giao dịch kinh doanh quố tế, mà lẽ
ra có thể thành công. Văn hoá ảnh hưởng tới những hình thức giao tiếp kinh doanh và giao tiếp
cá nhân cơ bản nhất, từ việc ra quyết định tới phong cách quản lý. Đến lượt mình, văn hóa quốc
gia quyết định văn hóa doanh nghiệp, ảnh hưởng tới cấu trúc bên trong của một hãng, tới hành vi
marketing và quan điểm của hãng đối với đối tác kinh doanh nước ngoài cũng như đối với các
hợp đồng. Dự án kinh doanh “quốc tế” nào mà không vượt qua được các rào cản về văn hóa thì
không thể nào thực hiện thành công được.
2. CÁC YẾU TỐ VĂN HÓA (ELEMENTS OF CULTURE)
văn hóa là một đối tượng phức tạp và đa dạng. Để hiểu về bản chất của văn hóa, chúng ta cần
xem xét các yếu tố: ngôn ngữ, tôn giáo, giá trị và thái độ, cách cư xử và thói quen, thể chất và
thẩm mỹ, giáo dục và thái độ xã hội.
2.1 Ngôn ngữ (language).
Ngôn ngữ là sự thể hiện rõ rệt của văn hóa vì đó là phương tiện
sử dụng để truyền thông tin và ý tưởng. Sự hiểu biết về ngôn
ngữ địa phương có thể hữu ích về bốn vấn đề. Trước hết cho
phép hiểu rõ hơn về tình huống. Sự hiểu biết trực tiếp một ngôn
ngữ giúp nhà doanh nghiệp không phải dựa vào người khác để
cảm nhận hay giải thích. Thứ hai, ngôn ngữ giúp trực tiếp tiếp
cận người dân địa phương, là những người thường dùng cách
truyền thông của họ với người khác khi giải quyết vấn đề với
những người khác ngôn ngữ. Thứ ba, một số hiểu biết về ngôn
ngữ cho phép con người nhận biết sắc thái, nhấn mạnh ý nghĩa, và những thông tin không được
trình bày rõ ràng. Cuối cùng, ngôn ngữ giúp con người hiểu văn hóa tốt hơn.
Ngôn ngữ không chỉ là những từ được nói hoặc viết ra. Tất cả các hình thức như giao tiếp phi
ngôn ngữ, cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể, nét mặt đều chuyển tải những thông điệp nhất định. Khi hai
người không có chung ngôn ngữ và bắt buộc phải sử dụng một người phiên dịch, hình thức giao
tiếp phi ngôn ngữ là dạng tiếp xúc trực tiếp duy nhất và là phương pháp duy nhất có thể để các cá

nhân có thể giao tiếp trực tiếp với nhau. Nếu không hiểu bối cảnh văn hóa trong đó những cuộc
giao tiếp phi ngôn ngữ dạng này xảy ra, bạn không những có thể gặp phải rủi ro là không hiểu
được người đối thoại với mình mà còn có thể phát đi những tín hiệu hoàn toàn sai lạc.
Một vấn đề khác về giá trị ngôn ngữ là giá trị hiểu biết về những thành ngữ và cách nói xã giao
hằng ngày. Ví dụ, một nghiên cứu sinh người Trung Quốc thảo luận về thời khóa biểu học với
một nghiên cứu sinh khác và biểu lộ vài lo lắng về chương trình học. Người sinh viên Mỹ đảm
bảo rằng nếu cô ta chăm chỉ thì khóa học sẽ như “một miếng bánh (a piece of cake)”. Bối rối bởi
thành ngữ khác thường này cô ta đến hỏi giáo sư cố vấn thành ngữ này có ý nghĩa gì trong tình
huống đó. Trong những trường hợp khác ý nghĩa của những thành ngữ và lời xã giao giũa các
nước sẽ khác nhau.
Kiến thức về ngôn ngữ cũng quan trọng vì sự dịch thuật trực tiếp có thể không tương xứng hoặc
sai lệch. Ví dụ nhiều quốc gia trên thế giới từ “aftertaste” (dư vị) không tồn tại. Để truyền đạt ý
nghĩa phải dịch mở rộng và chi tiết. Trong những trường hợp khác dịch đúng nguyên văn thì
không chính xác.
Trong quảng cáo có những ví dụ điển hình. Khi Ford giới thiệu xe vận tải giá thấp “Feira” ở một
vài nước kém phát triển, thật không may tên này có ý nghĩa là “phụ nữ già xấu xí(ugly old
woman)” ở Tây Ban Nha. Không cần nói, tên này không khuyến khích mức bán. Ford cũng đã
trải qua kinh nghiệm mức bán thấp khi giới thiệu xe gắn máy “comet” ở Mexico dưới tên
“Caliente”. Lý do mức bán thấp sau cùng mới hiểu nhờ Ford khám phám từ này là tiếng lóng của
dân trộm cắp đường phố. Một công ty sản xuất bột giặt muốn
tiếp xúc với nhiều địa phương trước khi bắt đầu chiến dịch
chiêu thị ở Trung Đông. Những nhà quảng cáo của công ty đã
đặt hình ảnh quần áo bẩn ở bên trái hộp xà phòng và hình ảnh
quần áo sạch ở bên phải. Nhưng vì trong những vùng này người
ta có khuynh hướng đọc từ phải qua trái, nhiều khách hàng tiềm
năng giải thích thông điệp này là xà phòng làm bẩn quần áo.
Một trong những cách phổ biến để giải thích hàng rào ngôn ngữ
là dùng những người phiên dịch. Điều này đặc biệt quan trọng trong tình huống viết thông điệp
mà nhiều người cho là dịch thông tin gấp đôi. Đầu tiên thông điệp được dịch sang ngôn ngữ thứ
hai và được dịch trở lại để xem thông điệp đầu tiên và thông điệp được dịch lại có như nhau

không. Tuy nhiên, việc sử dụng hình thức “dịch ngược lại” không hoàn hảo. Những nhà nghiên
cứu thấy rằng ngay cả khi chuyên gia giỏi hai thứ tiếng được sử dụng vẫn có vấn đề trong dịch
thuật. Không có sự thay thế nào là tốt nhất cho việc viết và đọc một ngôn ngữ trôi chảy.
2.2 Tôn giáo
2.2.1 Định nghĩa
Tôn giáo hay đạo (tiếng Anh: “religion” và “religion” lại xuất
phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm
sức mạnh siêu nhiên - xét trên một cách thức nào đó, đó là một
phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu
nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người), đôi khi đồng
nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào
những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những
đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ
2.2.2 Vai trò của tôn giáo
Chức năng tích hợp xã hội hay còn gọi là kết hợp xã hội chức liên quan đến niềm tin đó tôn
giáo có các giá trị, tiêu chuẩn của nó, vì thế những người có cùng một tôn giáo gắn bó với nhau
hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn chung ấy. Từ xã hội nguyên thủy, những thành viên của xã
hội đã có chung một vật tổ - biểu hiện hữu hình của sự gắn kết
Tôn giáo, dẫu đó là Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo hay Do Thái giáo, cũng đều cung
cấp cho người ta ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống của họ. Nó mang đến cho họ những giá trị
tối hậu và những cùng đích nào đó để giữ họ chung lại với nhau. Trong những thời điểm khủng
hoảng hay hỗn loạn, tôn giáo cũng giúp cho con người gắn bó với nhau hơn. Tuy vậy, tôn giáo
không phải là định chế xã hội duy nhất có chức năng tích hợp, tinh thần yêu nước, lòng tự hào
dân tộc...cũng là chất keo gắn kết những thành viên của một xã hội. Mặt khác, cũng có khi sự
"rối loạn chức năng" xảy ra, đó là lúc tôn giáo góp phần vào sự căng thẳng, thậm chí xung đột
giữa các nhóm hoặc giữa các quốc gia với nhau
Chức năng kiểm soát xã hội: tôn giáo không có chức năng kiểm soát xã hội, vì xã hội đối với
tôn giáo chưa đủ "tiêu chuẩn" đáng để tôn giáo có thể xét đến, vì hiện tại nó quá nhiều khiếm
khuyết về tính thánh thiện và đạo đức.


Chức năng hỗ trợ xã hội: dù ít hay nhiều, con người thường phải đối
mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bại, thiên tai, bệnh tật,... cái chết của
những người thân thuộc, yêu quý và cái chết của chính bản thân mình. Trong
những lúc như thế, cuộc sống rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm
tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn
giáo còn cung cấp cho con người những biện pháp như cầu nguyện, cúng bái
thần linh trong niềm tin rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải thiện tình
hình. Trên góc độ khác, tôn giáo còn cho con người một cứu cánh trong bất
hạnh đó là coi bất hạnh ấy là ý của đấng thiêng liêng và có một ý nghĩa nào đấy mà con người
không nhận thức được. Trong nghĩa cơ bản, tôn giáo tạo ra phương tiện để giải quyết những vấn
đề sau cùng: sống, chết mà không có lẽ phải thông thường nào có thể đưa ra lời giải đáp
2.2.3 Các tôn giáo
Niềm tin và thực tiễn tôn giáo vô cùng đa dạng và có rất nhiều tôn giáo trên thế giới ngày nay,
có tôn giáo chỉ hạn chế trong một vùng địa lý không lớn nhưng có những tôn giáo có thể gọi là
tôn giáo thế giới với nhiều triệu tín đồ ở khắp nơi trên thế giới. Nói chung có khoảng 87 phần
trăm dân số thế giới đang gắn bó với một tôn giáo nào đó; chỉ có khoảng 13 phần trăm là không
tôn giáo.
Các tôn giáo trên Thế Giới
Tôn giáo Số lượng
tín đồ
Vùng lãnh thổ chủ yếu
Kitô giáo 2,1 tỷ Khắp thế giới, trừ Tây Phi, Bắc Phi, bán đảo Ả Rập và một phần
của Trung Á, Đông Á, Đông Nam Á.
Hồi giáo 1,5 tỷ Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á, Nam Á, Tây Phi, Đông Phi, Nam
Á, Đông Nam Á, Albania, một phần lãnh thổ Nga, các tỉnh phía
tây Trung Quốc.
Ấn Độ giáo 900 triệu Nam Á, Đông Nam Á, Fiji, Guyana, Mauritus.
Đạo giáo 400 triệu Trung Quốc, Singapore, Malaysia và cộng đồng người Hoa hải
ngoại
Tôn giáo dân 394 triệu Trung Quốc

gian Trung Quốc
Phật giáo 365 triệu Đông Á và Ấn Độ
Tôn giáo của các
bộ tộc
300 triệu Khắp thế giới trừ Châu Âu
Nho giáo 150 triệu Đông Á và cộng đồng người Hoa ở hải ngoại
Tôn giáo truyền
thống Châu Phi
100 triệu Châu Phi
Shintō 30 triệu Nhật Bản
Đạo Sikh 23 triệu Ấn Độ, Pakistan, Canada, Mỹ, Anh
Do Thái giáo 14 triệu Israel, Mỹ, châu Âu
Bahá'í giáo 9 triệu Tín đồ phân bố rải rác nhiều nơi trên thế giới
Cao Đài 5 triệu Việt Nam, Châu Âu, Bắc Mỹ, Úc
Đạo Jain 1,2 triệu Ấn Độ, Pakistan, Canada, Mỹ, Anh
Kitô giáo: với ba ngánh lớn của nó là Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương và
Tin Lành là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới, khoảng 2,1 tỷ tín đồ chủ yếu ở
Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Âu và rải rác ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Hồi giáo: là tôn giáo có số lượng tín đồ đông thứ hai trên thế giới với khoảng 1,5 tỷ tín đồ
chủ yếu tập trung ở Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á và rải rác ở khắp nơi trên trái đất. Hồi giáo ra
đời vào thế kỷ thứ 7, do Muhammad sáng lập
Ấn Độ giáo: được coi là 1 trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới
[11]
, bắt nguồn từ Ấn
Độ khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Khác với Kitô giáo và Hồi giáo, Ấn Độ giáo không
liên kết với đời sống của một cá nhân nào, hay nói cách khác, không có người sáng lập. Qua
hàng ngàn năm, Ấn Độ giáo và xã hội Ấn Độ với hệ thống đẳng cấp đan quyện, gắn bó chặt chẽ
với nhau đến mức người ta không thể dễ dàng mô tả riêng biệt, cũng chính vì thế mà Ấn Độ giáo
khó truyền bá đến các xã hội khác.
Phật giáo: cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ và khởi nguồn khoảng 500 năm trước Công nguyên.

Tôn giáo này có nhiều phương diện giống với Ấn Độ giáo nhưng gắn với cuộc đời của người
sáng lập - Đức Phật Thích Ca (Siddartha Gautama). Phật giáo là tôn giáo lớn trên thế giới hiện có
khoảng 365 triệu người người, chủ yếu tập trung ở Châu Á và đang lan truyền khắp thế giới.
Nho giáo: hình thành ở Trung Quốc và do Đức Khổng Tử (551 - 479 trước Công nguyên)
sáng lập. Có ít nguồn số liệu thống kê về các tín đồ Nho giáo nhưng ước tính có hơn 150 triệu
người là tín đồ của tôn giáo này và số người chịu ảnh hưởng còn nhiều hơn nữa
[13]
chủ yếu tập
trung ở Trung Quốc, Đông Bắc Á, Việt Nam, Singapore
Do Thái giáo: cũng hình thành ở vùng Trung Đông như Hồi giáo và Kitô giáo vào thời kỳ Đồ
Sắt (khoảng 2000 năm trước Công nguyên). Mặc dù chỉ có khoảng 14 triệu tín đồ, chủ yếu ở
Israel, Mỹ và châu Âu nhưng Do Thái giáo là một tôn giáo quan trọng vì đã tạo nền tảng lịch sử
cho sự hình thành của Kitô giáo và Hồi giáo. Do Thái giáo do Abraham, tổ tiên và là nhà tiên tri
của người Do Thái sáng lập
2.2.4 Tôn giáo trong văn hóa quốc tế
Tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến lối sống, niềm tin, giá trị và thái
độ, các cư xử của con người. Tôn giáo còn ảnh hưởng đến chính trị
và môi trường kinh doanh. Trong văn hóa các nước, tôn giáo là chủ
đề riêng tư và nhạy cảm, có những điều cấm kị của một số nền văn
hóa có nguồn gốc từ những giáo lý của tôn giáo. Do đó khi kinh
doanh ở bất cứ nơi đâu và bất cứ quốc gia nào tì chúng ta phải
nghiên cứu, hiểu những tôn giáo phổ biến tại nơi đó, làm việc với
các đối tác cũng cần tìm hiểu xem họ theo tôn giáo nào , thì sẽ tránh được nhiều rủi ro trong kinh
doanh.
2.3 Giá trị và thái độ
2.3.1 Giá trị
Giá rị là những quan niêm làm căn cứ để con người đánh giá
đúng sai, tốt xấu, quan trọng và không quan trọng.
Giá trị ảnh hưởng đến văn hoá.
VD: Giá trị của người Mỹ hiện nay là sự phân chia bình đẳng trong

công việc đó là kết quả của pháp chế và hành động chống lại sự phân
biệt chủng tộc. Giá trị này thay đổi cũng phản ánh thái độ mới về
hướng xử lí tội lỗi về sự phân biệt.
2.3.2 Thái độ
Thái độ là những khuynh hướng không thay đổi của sự cảm nhận và hành xử theo một
hướng xác định đối với một đối tượng
VD: Người Nga tin tưởng rằng cách nấu ăn của MCDonald là ngon nhất đối với họ (giá trị phán
đoán) và vui lòng đứng xếp hàng dài để ăn. Ở Pháp General Foods bán chewing gum mang nhãn
hiệu Hollywood có mang hình thiếu niên cưỡi xe đạp trên bãi biển vì họ thấy rằng khách hàng
thích liên tưởng trực tiếp với Mỹ (giá trị) và kết quả là mức bán cao (thái độ). Tương tự, những
nhà sản xuất socola Thuỵ Sỹ biết khách hàng Mỹ tin tưởng sản phẩm socola Thuỵ Sỹ có chất
lượng cao (giá trị), do vậy các công ty nhấn mạnh đến nguồn gốc Thuỵ Sỹ và nhờ vậy tạo được
mức bán cao.
Trong những trường hợp khác có thái độ tiêu cực đối với sản phẩm nước ngoài, do đó công ty
không nên quá nhấn mạnh đến nguồn gốc.
VD: Nhiều doanh nghiệp nước ngoài ở Mỹ, tên công ty không
chỉ rõ trong quan hệ sở hữu nước ngoài như: Firestone Tire &
Rubber là của Bridgestone là một công ty Nhật; Ponds (kem
thoa tay) là của Uniliver, một công ty của Anh
Thái độ bắt nguồn từ những giá trị và có ảnh hưởn trực tiếp
đến hoạt động kinh doanh của con người, đặc biệt là kinh
doanh quốc tế.

Trong đàm phán kinh doanh quốc tế, việc tìm hiểu đối tác
đàm phán có ý ngĩa đặc biệt quan trọng, cần xác dịnh được: đói tác nhìn nhận và đánh giá vấn đề
như thế nào, trên cơ sở tìm được những điểm chung và điểm riêng giữa đôi bên.
2.4 Thói quen và cách ứng xử trong văn hóa quốc tế
2.4.1 Thói quen
Thói quen là nếp sống, những lề thói trong xã hội của một
nước hay một địa phương, những nếp sống, thói quen được

xem là phổ biến và được hình thành từ trước, lặp đi lặp lại
nhiều lần.

Đã là thói quen thì nó đã trở thành một phần của cuộc
sống, không có nó thì không được. Nhưng cũng có những thói
quen được xem là tốt và cũng có những thói quen được xem là xấu, mà những thói quen xấu thì
không dễ gì thay đổi được. Những thói quen xấu của con người có thể kể là hút thuốc, ăn uống
quá độ, đi trễ, nói xấu người khác, bào chữa cho lỗi lầm của mình…
Để hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của thói quen đối với cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp của
chúng ta, có thể liệt kê một danh sách gồm hai cột sau.
Thói quen xấu Thói quen tốt
Đi làn trễ Đi làm đúng giờ
Hút thuốc Hạn chế hoặc không hút thuốc
Nhậu mỗi ngày Chỉ cuối tuần nhậu
Nói xấu người khác Nói tốt về người khác
Ngụy biện những lỗi lầm của mình Thành thật nhận lỗi
Vượt đèn đỏ Chấp hành đúng quy tắc giao thông
Suy nghĩ tiêu cực Suy nghĩ tích cực
Để hiểu rõ hơn thói quen văn hóa quốc tế ta có ví dụ sau:
Thói quen trong cách xưng hô chào hỏi, Người Việt Nam và người Á đông có thói quen
chào nhau bằng cách hỏi: ông ăn cơm chưa? Bác đi đâu đấy? Bà đang làm gì đấy? Hỏi mà không
cần nghe câu trả lời, đó chỉ là cách thức chào và thói quen đã được định hình trước, không phải
thật sự muốn biết người được hỏi ăn cơm chưa, đi đâu, hay đang làm gì. Khi trả lời, người ta có
thể đáp lại một cách không đích xác, hoặc không trả lời.
Người Việt Nam và người Á Ðông có thói quen khi làm
quen ưa tìm hiểu quan sát và đánh giá người mình tiếp xúc. Tuổi
tác, quê quán, trình độ văn hóa, địa vị xã hội, mức thu nhập cá
nhân, tình trạng gia đình. (Bố mẹ còn hay mất, đã lập gia đình
chưa, đã có con chưa, mấy trai mấy gái ). Chúng ta hỏi những
điều đó là xuất phát từ óc cộng đồng, tự thấy có trách nhiệm

phải chú ý đến người khác, cần biết rõ người đối thoại. Nhưng thói quen ưa tìm hiểu này hoàn
toàn trái ngược với người Tây phương. Người Âu Mỹ đề cao chuyện riêng tư của con người, coi
như bất khả xâm phạm, nhất là về lương bổng và tuổi tác phụ nữ. Ở Mỹ, ngay cả trong mẫu đơn
xin việc và trong các cuộc phỏng vấn nhận nhân viên, công nhân, không có quyền hỏi người
đứng đơn về tình trạng gia đình. Người Tây phương có thói quen khi làm quen thường khen nhau
trẻ, đẹp, quần áo hợp thời trang, hoặc nói về thời tiết, hay bàn về trận đấu thể thao vừa qua. Nếu
cứ hỏi người Tây phương về chuyện riêng của họ, họ cho mình là tò mò, hay dò tìm những điều
bí ẩn của người khác và có thể họ sẽ chán nản, tức giận.
2.4.2 Cách ứng xử
Cách ứng xử là những hành vi được xem là đúng đắn, phù hợp trong một xã hội đặc thù.
Mỗi dân tộc có những phong tục, thói quen và cách ứng xử đặc biệt của riêng mình. Tùy quốc
gia, tùy dân tộc, tùy vùng miền…,mà hình thành nên những nét đẹp văn hóa trong ứng xử.
Bên cạnh đó người Việt Nam, hàng ngàn năm qua trong cách ứng xử thường ngày vẫn là
“Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Được truyền đạt từ đời này
qua đời khác, con trẻ được những người có trách nhiệm dạy “học ăn, học nói, học gói, học mở”.
Mọi thứ đều được học từ nhỏ chứ không phải trưởng thành mới bắt đầu học.
Măng không uốn thì khi thành tre khó thể nào uốn được.
Hàng ngày, từ nhà ra ngõ, tại bất cứ đâu, mọi người đều có thể bắt gặp những cái hay, cái
đẹp, cái xấu, cái dở của văn hoá ứng xử...
Nghĩ cho kỹ, đó cũng là điều dễ hiểu bởi ứng xử là thói quen của từng cộng đồng, từng địa
phương, từng gia đình, cá nhân được hình thành từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà thói quen là
cái khó sửa nhất.
Mọi sự giáo dục từ gia đình, nhà trường đến những cuộc vận động trong xã hội, phần lớn
mới chỉ mang tính chất giáo điều, khuyên răn, lý thuyết mà chưa làm cho mọi người nhận thức
sâu sắc để hiểu rằng: Tại sao phải ứng xử như thế này? Tại sao phải ứng xử như thế kia?
Hiện nay, gần như mọi cách ứng xử do cơ quan, tổ chức và người dân có thiện chí nêu ra đều bị
coi là áp đặt chứ chưa phải từ nhu cầu thật sự của bản thân mỗi người dân. Mà đã áp đặt thì dù
vô tình hay hữu ý, đều bị người dân tìm cách đối phó và chấp hành một cách hình thức, máy
móc. Khó có thể điểm ra được bao nhiêu cách ứng xử đối phó diễn ra hàng ngày xung quanh
chúng ta.

Ví dụ như để đối phó với việc CSGT phạt xe máy chở ba người trở lên, thì cách 100 -
200m, người lái xe giảm tốc độ và thả một người xuống đi bộ qua mặt CSGT, đi khuất lại lên xe
đi tiếp. Để tránh nhà chức trách bắt gặp vứt rác ra đường thì người ta vứt lén lút hoặc vừa đi xe
vừa vứt. Hoặc để che giấu việc túm tụm nói xấu thầy cô thì khi thầy cô đi về phía mình, cả nhóm
đều phát "tín hiệu" cùng chắp tay "chào thầy, chào cô ạ!"...
Cách ứng xử mang tính áp đặt từ trên xuống và đối phó như thế
sẽ khiến cho việc thực hiện văn hoá ứng xử trở nên giả dối, bởi lời
nói hay hành vi bên ngoài đã trái với thâm tâm thực nghĩ của người
đang thực hiện hành vi ứng xử. Do vậy, nền tảng của văn hoá ứng xử
chính là cái tâm trong sáng, lành mạnh của người ứng xử; là việc
thực sự tôn trọng danh dự, nhân cách và lợi ích của người hoặc tổ
chức, cộng đồng, môi trường được ứng xử.

Ví dụ: Văn hóa trong kinh doanh
 Người Anh và người Đài Loan lại có xu hướng hỏi rất ít.
 Nhật Bản có thể được coi là nước có phong cách đàm phán nhẹ nhàng và lịch sự nhất.
 Hàn Quốc sử dụng nhiều câu mệnh lệnh, đe dọa, không bao giờ để khoảng thời gian
chết trong một cuộc đàm phán.
 Mỹ, Đức sử dụng nhiều hành vi và ngôn ngữ không lời, các cử chỉ, điệu bộ không quá
nhẹ nhàng nhưng cũng không quá nóng nảy.
2.5 Văn hóa vật chất (Material Culture)
Khái niệm: văn hóa vật chất là những đối tượng con người làm ra.Khi xem xét vật chất ta
xem xét cách con người làm ra đồ vật (liên quan đến kỹ thuật), ai làm ra chúng và tại sao
(tính kinh tế của tình huống).
Đây là một nét văn hóa vật chất của người Chăm
Văn hóa vật chất ở hình ảnh trên là ngôi nhà sàn do người chăm làm ra xuất phát từ nguồn
gốc văn hóa xa xưa của họ và đáp ứng được nhu cầu sống hằng ngày của họ như vậy đó là
một nét văn hóa vật chất đáng được trân trọng.
Khi xét đến một yếu tố văn hóa chúng ta cân nhắc tới cơ sở hạ tầng kinh tế như giao thông,
thông tin, nguồn năng lượng và cơ sở hạ tầng xã hội như chăm sóc sức khỏe, nhà ở, hệ thống

giáo dục. cơ sở hạ tầng tài chính như ngân hàng bảo hiểm, dịch vụ tài chính trong xã hội.
Ta xét đến tiến bộ kỹ thuật trong xã hội đóng vai trò hết sức quan trọng vì ảnh hưởng đến tiêu
chuẩn mứcsống và giúp giải thích những giá trị niềm tin của xã hội đó.
Nếu là một quốc gia có tiến bộ về kỹ thuật con người sẽ ít tin tưởng rằng số mệnh giử vai trò
chủ yếu trong cuộc sống của họ và tin rằng con người có thể kiểm soát được những điều xảy
ra với họ.
Khi tiến bộ về kỹ thuật sẽ thay đổi nội dung phương pháp lao động làm cho lao động của họ
ngày càng có năng suất cao hơn nâng cao mức sống của họ như vậy những giá trị của họ cũng
thiên về vật chất.
Nhờ tiến bộ kỹ thuật con người đã tạo ra nhưng sản phẩm thông minh độc đáo mang giá tri
văn hóa vật chất lớn và đảm bảo phù hợp với tình huống kinh tế hiện tại. ví dụ ngày nay con
người đã sử dụng phương tiện ô tô nhưng đường phố không đủ rộng để có thể đủ chỗ đậu xe
vì vậy họ đã tạo ra bãi đổ xe thông minh. Có thể tiết kiệm được diện tích và mang lại nhiều
lợi ích hiện thực.
.
Hình ảnh về bãi đỗ xe thông minh
Tiến bộ kỹ thuật ở mỗi một nước đều không giống nhau như vậy khi tiến hành kinh doanh
hoặc đầu tư ở một nước nào đó cần phải tìm hiểu về trình độ kỹ thuật ở nước đó.
Ở những quốc gia có trình độ kỹ thuật phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc
họ luôn đòi hỏi những sản phẩm có tính kỹ thuật cao, chất lượng tốt, mang tính khoa học và
hiện đại có nhiều tiện ích thông minh và đa chức năng hơn dù cho giá cả có cao đi chăng nữa.
Nếu chúng ta đưa vào thị trường của họ những sản phẩm sơ sài đơn giản thì sẽ nhanh chóng
bị loại bỏ và không được sử dụng đến.
Còn đối với những nước có trình độ kỹ thuật kém phát triển thì những sản phẩm có tính kỹ
thuật cao sẽ không phù hợp với họ vì họ không có nhu cầu dùng đến và cơ sở hạ tầng của họ
cũng không đủ khả năng để sử dụng sản phẩm đó.Ví dụ một trong những sản phẩm có tính kỹ
thuật cao hiện nay như máy tính bảng hoặc điện thoại iphone có nhiều chức năng và ứng
dụng hiện đại nhưng những nước có nền kỹ thuật kém phát triển thì không thể sử dụng những
loại sản phẩm đó vừa về giá thành vừa về khả năng tài chính.


Sự đối lập giữa các nước có trình độ phát triển kỹ thuật khác nhau sẽ tạo ra nhưng giá trị vật
chất khác nhau. Phải nghiên cứu kỹ những giá trị vật chất để có thể sản xuất và cung cấp
những sản phẩm vào thị trường của các quốc gia khác một cách thuận lợi và nhận được sự
hưởng ứng của khách hàng.
2.6 THẨM MỸ ( Aesthetics)
Thẩm mỹ là khái niệm chỉ trình độ của con người trong thưởng thức,
đánh giá và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ; là một bộ phận quan trọng của
văn hóa nói chung và thống nhất với văn hoá từ bản chất, đặc trưng đến
cấu trúc, đồng thời thẩm mỹ lại biểu hiện như một lĩnh vực văn hoá đặc
thù. Thẩm mỹ hoà quyện vào văn hoá, làm cho văn hoá đạt tới sự vận
hành “theo quy luật của cái đẹp”. Nó giúp con người cảm thụ, nhận thức,
đánh giá và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ. Thẩm mỹ là sự thể hiện và thực
hiện năng lực thẩm mỹ của con người trong các hoạt động xã hội.
Thẩm mỹ liên quan đến thị hiếu nghệ thuật của văn hóa. Trong văn
hoá thẩm mỹ, tác phẩm nghệ thuật là cầu nối truyền đạt thông điệp chân -
thiện - mỹ từ thế hệ này sang thế hệ khác và là ngôn ngữ chung của loài
người, làm cho tư tưởng, tình cảm và ý chí của con người thêm phong phú và đa đạng.
Mỗi quốc gia tạo lập cho mình những giá trị thẩm mỹ riêng. Ví dụ: giá trị thẩm mỹ của người
Pháp khác với người Trung Quốc đều này phản ảnh qua hội họa, văn chương, âm nhạc và thị
hiếu nghệ thuật của hai dân tộc
• Hội họa Trung Quốc có một lịch sử truyền thừa lâu
dài và nguồn gốc văn hóa thâm sâu. Nó nhấn mạnh
vào ý tưởng nghệ thuật và cảnh giới mà sự vật biểu
hiện.Có ba loại ý tưởng nghệ thuật chính trong tranh
vẽ Trung Quốc: (1) mở và chân chính, tự nhiên và
thăng bằng, hài hòa; (2) cao quý, tao nhã, đẹp, uy nghi
và trang trọng; (3) tĩnh mịch, trang nghiêm và trầm
tĩnh.
• Còn với hội họa ở pháp, các bức tranh chân thực, sống động, quen thuộc về cuộc sống, về
môi trường xã hội xung quanh. Pháp cũng chính là nơi ra

đời của hội họa hiện thực. Trong suốt thế kỷ 18 và 19,
Pháp là trung tâm về nhiều mặt: xã hội, chính trị, văn
hóa... Dù nhiều xu hướng hội họa liên tiếp ra đời, chủ đề
chính vẫn là tôn giáo, lịch sử, thần thoại với lối vẽ kinh
điển.

×