Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ theo luật thương mại năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ
THEO LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005

LÊ THÚY QUỲNH

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ
THEO LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
LÊ THÚY QUỲNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này do chính tác giả nghiên cứu và
thực hiện. Các kết quả nghiên cứu chưa được công bố toàn bộ nội
dung này bất kỳ ở đâu. Các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận
văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả

Lê Thúy Quỳnh


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin trân trọng gửi đến TS. Đoàn Trung Kiên, người đã
hướng dẫn tận tình và giúp đỡ tác giả thực hiện luận văn lời cảm ơn chân thành nhất.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng đã nhận được sự giúp đỡ
hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, các cơ quan, các bạn
bè, đồng nghiệp và gia đình.
Và cuối cùng, tác giả cũng bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đến các đồng
nghiệp đã hết lòng giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập tài liệu, chia sẻ kinh
nghiệm, cám ơn sự quan tâm của gia đình, bạn bè và người thân đã động viên giúp
đỡ, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày ….. tháng…..năm 2017
Tác giả

Lê Thúy Quỳnh


MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ

5

1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

5

1.1.1. Khái niệm đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

5

1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

7

1.2. Phân biệt đấu thầu hàng hóa, dịch vụ với đấu giá hàng hóa

9

1.3. Các nguyên tắc của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

12

1.3.1. Nguyên tắc coi trọng tính hiệu quả


12

1.3.2. Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau

12

1.3.3. Nguyên tắc thông tin đầy đủ, công khai

13

1.3.4. Nguyên tắc bảo mật thông tin đấu thầu

14

1.3.5. Nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng

14

1.3.6. Nguyên tắc bảo đảm dự thầu hoặc bảo đảm thực hiện hợp đồng

15

1.4. Phân loại đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

16

1.4.1. Căn cứ vào hình thức đấu thầu

16


1.4.2. Căn cứ vào phương thức đấu thầu

16

1.4.3. Căn cứ vào quốc tịch nhà thầu

17

1.5. Vai trò của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

17

1.5.1. Đối với bên mua hàng hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ

18

1.5.2. Đối với nhà thầu

18

1.5.3. Đối với nền kinh tế - xã hội

18

1.6. Khái niệm, nội dung và vai trò của pháp luật về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ

19


Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ
THEO LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005

23

2.1. Lược sử hình thành và phát triển của các quy định về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ ở Việt Nam

23


2.2. Nội dung của các quy định về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ theo Luật
Thương mại năm 2005

25

2.2.1. Chủ thể tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

25

2.2.2. Đối tượng của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

27

2.2.3. Hình thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

28

2.2.4. Phương thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ


29

2.2.5. Trình tự, thủ tục đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

30

Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

45

3.1. Thực tiễn thi hành Luật Thương mại năm 2005 về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ và các yêu cầu đặt ra

45

3.1.1. Những kết quả đạt được từ thực tiễn thi hành Luật thương
mại năm 2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

46

3.1.2. Một số hạn chế, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thi hành
Luật thương mại năm 2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

49

3.1.3. Các yêu cầu đặt ra đối với vấn đề thi hành Luật thương mại
năm 2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

51


3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành
Luật Thương mại năm 2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

53

3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật thương mại năm
2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

53

3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Luật
thương mại năm 2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

56

KẾT LUẬN

60

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

62


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đấu thầu là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị
trường, là một mắt xích quan trọng phục vụ cho hoạt động sản xuất, tiêu dùng
của mọi chủ thể trong xã hội bởi thông qua đấu thầu, việc mua sắm và cung ứng

hàng hóa, dịch vụ trên thị trường trở nên linh hoạt, có hiệu quả, đảm bảo lợi ích
cho các bên tham gia. Đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động đấu thầu,
không thể không đề cập đến đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Hoạt động này lần đầu
tiên được ghi nhận tại Luật thương mại năm 1997, tuy nhiên đó chỉ là những quy
định bước đầu có tính chất nguyên tắc về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong
thương mại. Luật thương mại năm 2005 ra đời đã sửa đổi và bổ sung nhiều quy
định về đấu thầu hàng hóa dịch vụ, phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên
với sự phát triển nhanh của hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thực tế,
một số quy định của pháp luật đã bộc lộ sự thiếu chặt chẽ, thiếu thống nhất cần
sửa đổi theo hướng cụ thể hóa nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng thi hành, từ
đó dần hoàn thiện khung pháp lý cho việc tổ chức và thực hiện đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ trong thương mại ở nước ta.
Xuất phát từ lý do nêu trên, trong khuôn khổ đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học luật, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài: “Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
theo Luật Thương mại năm 2005” để nghiên cứu với mong muốn tìm hiểu sâu
về hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cũng như những quy định của pháp luật
điều chỉnh vấn đề này, qua đó mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của lĩnh vực pháp luật này ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ trong thương mại đã được trình bày, giới thiệu trong giáo trình Luật

1


Thương mại của một số cơ sở đào tạo luật như Trường Đại học Luật Hà Nội,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội… hay trong một số cuốn sách chuyên
khảo như chuyên khảo Luật Kinh tế năm 2004 của TS. Phạm Duy Nghĩa (Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia)…Trong các cuốn giáo trình, cuốn sách chuyên
khảo này, những quy định về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại

được nghiên cứu và giới thiệu chủ yếu dừng ở việc mô tả các quy định của
pháp luật nhằm trang bị những kiến thức cơ bản cần thiết cho người đọc chứ
chưa có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến hoạt động này.
Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại cũng được đề
cập đến trong một số công trình nghiên cứu ở cấp độ bài tập nhóm hoặc khóa
luận tốt nghiệp của sinh viên một số cơ sở đạo tạo luật. Một công trình nghiên
cứu tương đối toàn diện những vấn đề lý luận và thực trạng về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ theo quy định của Luật thương mại năm 2005 đến nay vẫn còn bỏ
ngỏ. Điều này vừa là thuận lợi cho tác giả nghiên cứu những cũng là điểm khó
khăn vì tác giả ít được kế thừa kết quả nghiên cứu của những công trình nghiên
cứu trước đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những văn bản pháp luật thực định về đầu
thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam mà trước hết và chủ yếu là Luật Thương mại
năm 2005.
Phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn ở việc chủ yếu phân tích và đánh giá
những quy định của Luật Thương mại năm 2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.
Đó là khái niệm, đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, nội dung cơ bản của
pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam.

2


4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Luận văn được nghiên cứu sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu

chung và các phương pháp cụ thể như: phân tích so sánh, biện chứng, thống kê,
sơ đồ, logic và lịch sử.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ và pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cũng như
phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ theo
Luật thương mại năm 2005 cũng như thực tiễn thi hành các quy định về vấn đề
này, để từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện lịnh vực pháp luật này.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải giải quyết là:
- Khái quát và làm rõ được những vấn đề tổng quan về lý luận cơ bản nhất
về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.
- Phân tích và đánh giá được những quy định về đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ theo Luật thương mại năm 2005.
- Đánh giá được thực tiễn thi hành Luật thương mại năm 2005 về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ và trên cơ sở đó kiến nghị được một số giải pháp hoàn
thiện Luật thương mại năm 2005 đối với các quy định về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 03 chương:

3


Chương 1: Tổng quan về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và pháp luật về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ.
Chương 2: Các quy định về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ theo Luật thương
mại năm 2005.
Chương 3: Thực tiễn thi hành Luật thương mại năm 2005 về đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ và một số kiến nghị.


4


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
1.1.1. Khái niệm đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Khoảng cuối thế kỷ XIX, trên thế giới, nền kinh tế thị trường dưới tác
động của nền cách mạng khoa học kỹ thuật bắt đầu có sự phát triển. Trong nền
kinh tế đó, hầu như không tồn tại sự độc quyền cung cấp một loại hàng hóa, dịch
vụ cho bất kỳ một nhà cung cấp nào mà đòi hỏi các nhà cung cấp luôn phải cạnh
tranh nhau để giành được quyền cung cấp hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Và
để đạt được mục tiêu của mình, những người bán đã nghĩ ra nhiều phương thức
khác nhau, gồm cả phương thức tích cực và phương thức tiêu cực nhằm làm sao
cung cấp được nhiều hàng hóa nhất. Trước tình hình đó, việc đảm bảo quyền lợi
của người mua bắt đầu được đặt ra với mục đích giúp cho người mua lựa chọn
được một nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ có chất lượng tốt nhất, chi phí thấp
nhất, với thời gian nhanh nhất và hạn chế được nhiều rủi ro nhất… Xuất phát từ
những yêu cầu đó, hình thức mua sắm hàng hóa, dịch vụ thông qua đấu thầu ra
đã đời.
Ngày nay, đấu thầu dần càng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Hoạt
động này được thực hiện trong nhiều lĩnh vực như thương mại, xây dưng, điện
ảnh, y tế, công nghệ viễn thông, du lịch…. Tuy nhiên, khái niệm đấu thầu là gì
cho đến nay còn tồn tại nhiều khái niệm trái chiều khác nhau, phụ thuộc vào
từng lĩnh vực cụ thể, từng khía cạnh khác nhau mà đánh giá. Theo Bộ Tư pháp,
Từ điển Luật học, thì “Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn
xây dựng một công trình (người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều


5


kiện xây dựng công trình, người dự thầu công bố giá mà mình muốn nhận, người
gọi thầu qua so sánh để lựa chọn nhà thầu có lợi ích nhất cho mình theo các
điều kiện mình đưa ra. Cuộc đấu thầu chỉ có nhà thầu trong nước tham dự gọi là
đấu thầu trong nước. Cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong nước và nước ngoài
tham dự gọi là đấu thầu quốc tế” [7, tr.240].
Một khái niệm khác về đấu thầu được quy định trong Khoản 12 - Điều
4 Luật Đấu thầu 2013: “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết
và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm
hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự
án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên
cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế” [25].
Tuy nhiên quy định này chỉ áp dụng chủ yếu trong đấu thầu mua sắm hàng
hóa, dịch vụ công, thanh toán bằng tiền ngân sách hoặc có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước.
Tùy thuộc vào nội dung công việc phải thực hiện, đấu thầu được phân
thành các loại tương ứng: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, thiết kế, đấu thầu thi công,
xây lắp; đấu thầu mua sắm hàng hóa; đấu thầu thực hiện dịch vụ; đấu thầu chọn
đối tác để thực hiện dự án…
Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại là một loại đấu thầu tồn tại
trên thực tế. Trong thương mại, khái niệm đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thường
được tiếp cận trên cả hai phương diện kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quan hệ kinh
tế khách quan, ra đời do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, khi sản xuất
và trao đổi hàng hóa diễn biến trong trạng thái cung lớn hơn cầu. Cơ chế thị
trường không đòi hỏi bất kỳ sự tiếp xúc trực tiếp nào giữa nhà sản xuất và khách
hàng, tiếp xúc giữa họ là gián tiếp thông qua giá cả và việc bán hàng. Khi một
chủ thể nào đó có nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ thì cũng là lúc có


6


rất nhiều người có khả năng đáp ứng nhu cầu đó, vì vậy, bên mua phải tổ chức
đấu thầu để lựa chọn trong số đó người nào có khả năng cung cấp hàng hóa hoặc
cung ứng dịch vụ thỏa mãn những điều kiện của mình với giá cả hợp lý nhất. Do
đó, “đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là phương thức giao dịch đặc biệt, trước khi
thực hiện việc mua bán, giao kết hợp đồng phải thông qua quá trình lựa chọn
nhà thầu(bên bán) đáp ứng các điều kiện về giá cả và các yêu cầu khác của
người mua”. Bản chất của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở phương diện này cũng
giống với các loại đấu thầu khác.
Còn trên phương diện pháp lý, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một hành vi
pháp lý do một nhóm chủ thể đặc biệt trong xã hội - các thương nhân thực hiện
và là đối tượng điều chỉnh của Luật Thương mại.
Theo khoản 1 Điều 214 Luật Thương mại 2005: “Đấu thầu hàng hoá,
dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ thông
qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân
tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu
cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng
(gọi là bên trúng thầu)” [23].
Như vậy, dù tiếp cận ở góc độ nào thì đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong
thương mại đều là hoạt động nhằm lựa chọn bên bán tốt nhất theo yêu cầu của
bên mua để tiến tới giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng
dịch vụ.
1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Từ những khái niệm nêu trên, ta thấy có thể thấy hoạt động đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ trong thương mại mang những đặc điểm nổi bật sau:
Trước hết, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một hoạt động thương mại nên
nó cũng có những đặc điểm chung với các hoạt động thương mại khác, đó là:


7


- Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện bởi những nhà
thầu tham dự có tư cách pháp nhân;
- Hoạt động đấu thầu được thực hiện nhằm mục đích sinh lời;
- Đối tượng của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là các hàng hóa thương mại
được phép lưu thông theo quy định của pháp luật;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ đấu thầu được xác lập
theo những hình thức pháp lý nhất định do pháp luật quy định.
Bên cạnh đó, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại còn có những
đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại luôn gắn liền với
quan hệ mua bán háng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại. Đấu thầu chỉ được tổ
chức khi một bên chủ thể có nhu cầu mua sắm hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ
với mục đích lựa chọn người cung cấp hàng hóa, dịch vụ tốt nhất theo yêu cầu.
Kết quả đấu thầu sẽ là cơ sở để các bên thương thảo hợp đồng mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ thương mại, trong đó nội dung hợp đồng bao gồm cả
những chi tiết của hồ sơ dự thầu. Vì thế, thực chất, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
chỉ là giai đoạn tiền hợp đồng thương mại chứ không hẳn là một hoạt động
thương mại độc lập.
Thứ hai, các bên trong quan hệ đấu thầu hàng hóa dịch vụ cũng chính là
bên mua và bên bán hàng hóa, dịch vụ. Bên mời thầu có nhu cầu mua sắm hàng
hóa, sử dụng dịch vụ, còn bên dự thầu là thương nhân có năng lực cung cấp hàng
hóa, dịch vụ cho gói thầu. Nếu đấu thầu thành công, các bên ký kết được hợp
đồng, thì bên dự thầu sẽ trở thành bên mua, bên mời thầu sẽ trở thành bên bán
trong quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ thương mại.
Thứ ba, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quá trình mua bán hàng hóa,
dịch vụ luôn có sự tham gia của một bên mời thầu và nhiều nhà thầu. Sở dĩ có


8


đặc điểm này là vì xuất phát từ bản chất của đấu thầu là phương thức để giúp
người mua lựa chọn người bán nên trong mỗi gói thầu phải tạo ra sự cạnh tranh
càng lớn càng tốt giữa những người có năng lực bán hàng, thông qua đó, người
mua có thể lựa chọn được người bán tốt nhất.
Thứ tư, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện dưới hình thức pháp lý
là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu là văn bản do bên mời thầu
lập ra, trong đó thể hiện đầy đủ những yêu cầu về mặt kỹ thuật, tài chính, thương
mại… của hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm, sử dụng và những điều kiện khác của
gói thầu. Căn cứ vào hồ sơ dự thầu, bên mời thầu xem xét, lựa chọn người thắng
cuộc để ký kết hợp đồng. Những hồ sơ này chính là những căn cứ pháp lý làm
xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ.
Thứ năm, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quá trình gồm nhiều giai
đoạn. Muốn tiến hành hoạt động đấu thầu, các bên phải thực hiện qua nhiều giai
đoạn mời thầu, dự thầu, mở thầu, xét thầu, xếp hạng và lựa chọn nhà thầu, công
bố kết quả đấu thầu đến ký kết hợp đồng. Mỗi giai đoạn của quá trình đấu thầu
đều hướng tới một mục tiêu khác nhau nhưng giữa chúng vẫn có mối liên hệ mật
thiết, gắn bó.
1.2. Phân biệt đấu thầu hàng hóa, dịch vụ với đấu giá hàng hóa
Bên cạnh đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, đấu giá hàng hóa cũng đã và đang
trở thành một hoạt động thương mại ngày càng trở nên phổ biến trong nền kinh
tế thị trường. Xét về bản chất, rõ ràng đây là hai hoạt động hoàn toàn độc lập, tuy
nhiên giữa chúng cũng có khá nhiều điểm tương đồng, cụ thể như về mục tiêu lợi
nhuận; nguyên tắc chung đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch; đối
tượng là hàng hóa thương mại được phép lưu thông; quyền và nghĩa vụ được xác
định theo pháp luật thương mại… Mặc dù vậy, cho dù giữa hai hoạt động có

nhiều điểm tương đồng như đã nêu trên nhưng vẫn không khó để phân biệt

9


chúng bởi giữa hai hoạt động này vẫn có những điểm khác biệt cơ bản có thể kế
đến như:
Thứ nhất, về bản chất kinh tế: Nếu đấu thầu được biết đến là một
phương thức để bên mua lựa chọn đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ (bên
bán) thì đấu giá lại là phương thức để bên bán xác định đối tượng mua hàng
(bên mua). Đối với đấu thầu, thông qua hoạt động mời thầu, người mua (bên
mời thầu) có thể lựa chọn thương nhân dự thầu đáp ứng được các yêu cầu về
giá cả, điều kiện kinh tế - kỹ thuật nhằm mua hàng hóa, dịch vụ với mức giá
hợp lý và chất lượng tốt tương ứng. Đấu thầu xuất hiện trong nền kinh tế khi
quan hệ cung lớn hơn quan hệ cầu về hàng hóa, và thị trường thuộc về người
mua. Ngược lại, bán đấu giá lại là hình thức bán tài sản công khai để chọn lựa
trong nhiều người mua người trả giá cao nhất, ít nhất bằng giá khởi điểm và
người chiến thắng là người mua được tài sản. Ở trường hợp này, quan hệ về
cầu lớn hơn về cung, hay thị trường của bán đấu giá tài sản thuộc hoàn toàn
về về người bán. Mặc dù vậy, trên thực tế, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được
áp dụng khá thường xuyên, phổ biến, trong khi đó đấu giá hàng hóa thường
chỉ áp dụng cho những thị trường mang tính cục bộ hoặc một số loại hàng hóa
nhất định.
Thứ hai, về bản chất pháp lý: Về bản chất pháp lý, đấu giá hàng hóa là
một hành vi pháp lý nhưng đôi khi do sự khác nhau về chủ thể, mục đích mà đấu
giá hàng hóa có thể là một hành vi dân sự thông thường hoặc trở thành một hoạt
động thương mại độc lập của thương nhân. Do đó, trong hoạt động đấu giá hàng
hóa có thể có những trung gian làm dịch vụ bán đấu giá, tiến hành việc bán đấu
giá theo ủy quyền của người bán hàng hóa.
Thứ ba, về đối tượng: Xuất phát từ tính chất đặc thù của việc bán hàng

theo phương thức đấu giá mà không phải bất kỳ hàng hóa thương mại nào cũng
được các chủ sở hữu lựa chọn bán theo phương thức này. Chính vì vậy, hầu hết

10


chỉ những hàng hóa có đặc thù về giá trị cũng như giá trị sử dụng thì mới được
cân nhắc để lựa chọn bán theo phương thức đấu giá. Bởi những hàng hóa này,
không như những loại hàng hóa khác rất khó trong việc xác định giá trị thực của
nó… Còn đối với đấu thầu hàng hóa dịch vụ trong thương mại, hàng hóa trong
đấu thầu hàng hóa dịch vụ cũng vô cùng đa dạng bao gồm tất cả các loại hàng
hóa, kể cả những loại hàng hóa thông thường mà pháp luật cho phép kinh doanh.
Trong đấu giá hàng hóa người bán chỉ đưa ra một mức giá cơ sở (giá khởi điểm)
để người mua tham khảo, người mua được hàng bán đấu giá là người trả giá cao
nhất. Đấu thầu hàng hóa dịch vụ lại khác, người thắng thầu là người có giá được
đánh giá là thấp nhất sau khi xét thầu. Hơn nữa, nếu như đối tượng đem ra bán
đấu giá chỉ có thể là hàng hóa thì đối tượng đem ra đấu thầu không chí có hàng
hóa mà còn có cả dịch vụ.
Thứ tư, về hình thức pháp lý: Nếu như hình thức pháp lý của quan hệ đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu, thì hình thức pháp lý
của quan hệ bán đấu giá hàng hóa là hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa
và văn bản đấu giá hàng hóa.
Thứ năm, về chủ thể: Trong đấu thầu các chủ thể bao gồm: bên mời
thầu và bên dự thầu. Bên mời thầu có thể là thương nhân hoặc không, nhưng
bên dự thầu phải là thương nhân. Trong bán đấu giá hàng hóa lại bao gồm các
chủ thể: người tổ chức đấu giá, người tham gia đấu giá và người điều hành
đấu giá. Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ
đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự
tổ chức đấu giá. Người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người
được người tổ chức đấu giá uỷ quyền điều hành bán đấu giá. Tức là ở bán đấu

giá hàng hóa, hoạt động bán hàng có thể thông qua trung gian - thương nhân
chuyên kinh doanh dịch vụ bán đấu giá. Còn đối với đấu thầu hàng hóa dịch
vụ, để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác tổ chức đấu thầu, pháp luật không
cho phép có các thương nhân chuyên kinh doanh dịch vụ đấu thầu.

11


Ngoài các tiêu chí chính để phân biệt như trên, chúng ta có thể kể đến một
số tiêu chí khác như về tính công khai, đối tượng được bảo vệ quyền lợi… Việc
phân biệt được đấu thầu hàng hóa, dịch vụ với đấu giá hàng hóa sẽ giúp chúng ta
lựa chọn được phương thức phù hợp, có lợi nhất trước những biến động cung cầu trên thị trường, thỏa mãn tối đa nhưng mục tiêu đặt ra.
1.3. Các nguyên tắc của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Nguyên tắc trong đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là những tư tưởng chỉ
đạo được rút ra từ những quy định pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
do nhà nước ban hành cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia, ký kết, buộc các bên tham gia quan hệ đấu thầu phải tuân theo. Về cơ
bản, hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện dựa vào các
nguyên tắc sau.
1.3.1. Nguyên tắc coi trọng tính hiệu quả
Tính hiệu quả luôn được coi là mục tiêu hàng đầu khi thực hiện đấu thầu
nói chung cũng như đấu thầu hàng hóa, dịch vụ nói riêng. Các gói thầu mua sắm
hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở có sự tính toán kĩ về hiệu quả kinh tế xã hội mà nó mang lại. Hoạt động đấu thầu chỉ được tổ chức khi bên mời thầu
chứng minh được ưu thế của đấu thầu so với áp dụng các hình thức cung ứng
hàng hóa, dịch vụ khác và không được lợi dụng tổ chức đấu thầu một cách tùy
tiện nhằm thu lợi bất chính cho các tổ chức, cá nhân có liên quan. Việc lựa chọn
hình thức, phương thức đấu thầu nào cũng phải xuất phát từ đặc điểm yêu cầu và
tính hiệu quả của từng gói thầu.
1.3.2. Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau
Đây được xem như là nguyên tắc then chốt và quan trọng nhất trong hoạt

động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Nội dung của nguyên tắc này chính là yêu cầu
mội gói thầu phải có sự tham gia của một số lượng nhà thầu nhất định có năng

12


lực, đủ để đảm bảo sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Những điều kiện mà bên
mời thầu đưa ra, những thông tin cung cấp cho các nhà thầu phải ngang bằng
nhau, tạo sự bình đẳng về cơ hội mỗi nhà thầu. Hồ sơ mời thầu không được đưa
ra yêu cầu mang tính định hướng như về xuất xứ, nguồn gốc hàng hóa, về
thương hiệu cụ thể nhằm ngăn cản sự tham gia của các nhà thầu. Bên mời thầu
không được phân biệt đối xử trong việc xem xét, đánh giá hồ sơ dự thầu giữa
những người dự thầu hợp lệ.
Mặc dù nguyên tắc là vậy tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế thì vẫn có
tính linh hoạt nhất định. Ví dụ như pháp luật của hầu hết các nước vẫn có những
quy định ưu đãi đối với nhà thầu trong nước. Sự ưu đãi này không phải phân biệt
đối xử mà chính là để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng với các nhà thầu nước
ngoài có kinh nghiệm và năng lực lớn hơn.
1.3.3. Nguyên tắc thông tin đầy đủ, công khai
Xuất phát từ yêu cầu cạnh tranh, hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
cần dựa trên nguyên tắc công khai và thông tinh đầy đủ. Ngay từ giai đoạn mời
thầu, các dữ liệu, tài liệu liên quan đến gói thầu phải được bên mời thầu cung
cấp với các thông tin chi tiết, rõ ràng về quy mô, khối lượng, quy cách, yêu cầu
chất lượng, giá cả và điều kiện hợp đồng (kể cả sửa đổi, bổ sung nếu có) để các
nhà thầu xem xét khả năng đáp ứng của mình.Thông báo mời thầu phải được
đăng tải công khai trên các phương tiện thông tinh đại chúng đối với đấu thầu
rộng rãi và công khai đối với các nhà thầu với đấu thầu hạn chế. Việc mở thầu
cũng phải công khai, các nhà thầu đã than gia đấu thầu phải được mời tới dự.
Những nội dung cơ bản của từng hồ sơ dự thầu phải được công bố công khai
ngay khi mở thầu và được ghi vào biên bản mở thầu. Kết quả đấu thầu cũng phải

được công bố công khai, bên dự thầu nào thua cuộc cũng phải có văn bản giải
thích rõ ràng.

13


Như vậy, có thể thấy nguyên tắc này được tiến hành xuyên suốt trong quá
trình đấu thầu. Việc tiến hành nghiêm túc nguyên tắc này sẽ góp phần tạo nên sự
thành công cho cuộc đấu thầu.
1.3.4. Nguyên tắc bảo mật thông tin đấu thầu
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi thông tin liên quan tới đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ phải được coi là những thông tin mật và các chủ thể tiến hành hoạt động
đấu thầu phải có trách nhiệm giữ bí mật. Do tính chất cạnh tranh gay gắt giữa
các bên dự thầu để trở thành người cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho bên mới
thầu, việc bảo mật các thông tin đấu thầu đã được coi là một nguyên tắc không
thể xâm phạm. Theo đó, bên mời thầu phải bảo mật hồ sơ dự thầu đồng thời, tổ
chức cá nhân có liên quan đến việc tổ chức đấu thầu và xét chọn thầu phải giữ
kín các thông tin liên quan đến việc đấu thầu. Tất cả các hành vi làm tiết lộ thông
tin đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
1.3.5. Nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng
Đây là nguyên tắc quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ, giúp hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ đạt được tính
hiệu quả. Việc các hồ sơ dự thầu hợp lệ đều phải được xem xét, đánh giá
khách quan, công bằng với cùng một tiêu chuẩn như nhau và bởi một hội
đồng xét thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm và tư cách. Những tiêu chí đánh
giá hồ sơ, tiêu chuẩn xét thầu phải được công bố trước trong hồ sơ mời thầu
và bên mời thầu không được tự ý thay đổi trong quá trình xét thầu. Việc bảo
mật các thông tin liên quan đến đấ thầu cũng có thể giúp cho việc đánh giá hồ
sơ dự thầu khách quan, công bằng hơn do không bị tác động của những luồng
thông tin đó. Mọi lí do về việc hồ sơ dự thầu được chọn hay bị loại đều phải

được chọn hay bị loại đều phải được giải thích rõ bằng văn bản cho các nhà
thầu khi có yêu cầu.

14


1.3.6. Nguyên tắc bảo đảm dự thầu hoặc bảo đảm thực hiện hợp đồng
Để có được sự hài hòa về lợi ích giữa bên mời thầu và nhà thầu, hai bên
chủ thể đều cần cố gắng nỗ lực bởi có thể sự ứng xử thiếu nghiêm túc của một
trong hai bên sẽ gây thiệt hại cho bên kia. Các biện pháp bảo đảm dự thầu đã
được ra đời trên nhu cầu đó với mục đích để quá trình đấu thầu diễn ra một cách
trọn vẹn, tránh sự thay đổi ý định và hủy bỏ việc đấu thầu của nhà thầu, loại bỏ
những nhà thầu không nghiêm túc. Theo nguyên tắc này, các bên khi thạm dự
đấu thấu phải nộp một khoản tiền bảo đảm dự thầu kèm theo hồ sơ mời thấu.
Khoản tiền này sẽ được trả lại cho những nhà thầu thua cuộc trong một khoảng thời
gian nhất định sai khi quá trình đấu thầu kết thúc. Còn đối với các nhà thầu thắng
cuộc, khoản tiền này sẽ được trả sau khi nhà thầu nộp tiền bảo đảm thực hiện hợp
đồng. Tiền bảo đảm thực hiện hợp đồng sẽ được trả lại sau khi thanh lý hợp đồng.
Mục đích của nguyên tắc này là nhằm tránh tình trạng các nhà thầu thay đổi ý định
sau khi đã dự thầu hoặc đã ký kết hợp đồng, loại bỏ được những nhà thầu thiếu
nghiêm túc, bảo đảm được lợi ích cho bên mời thầu. Mặt khác, nó có tác dụng kích
thích nỗ lực của các nhà thầu khi tham gia đấu thầu, thúc đẩy sự hợp tác giữa các
bên nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng, tài chính, tiến độ…
Ngoài những nguyên tắc nêu trên, trong những gói thầu mua sắm hàng
hóa bằng nguồn vốn tín dụng của các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng
thế giới (WB), Ngân hàng Châu Á (ADB), Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
(JBIC)… thì việc tổ chức đấu thầu còn phải tuân theo các nguyên tắc riêng do
các định chế này đặt ra. Chẳng hạn trong bản hướng dẫn mua sắm bằng nguồn
vốn vay của WB còn quy định thêm nguyên tắc “chống tham nhũng”, nguyên
tắc “đấu thầu cạnh tranh quốc tế” (ICB)…

1.4. Phân loại đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trên thực tế diễn ra vô cùng đa
dạng, thể hiện trên mọi lĩnh vực, ở nhiều đối tượng và đều hướng tới những mục

15


đích khác nhau. Dựa trên một số tiêu chí, ta có thể phân chia đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ thành nhiều loại khác nhau như sau:
1.4.1. Căn cứ vào hình thức đấu thầu
- Đấu thầu rộng rãi: Là hình thức đấu thầu mà nên mời thầu không hạn chế
số lượng các bên dự thầu. Bên mời thầu có trách nhiệm thông báo công khai trên
các phương tiện thông tin đại chúng về các điều kiện và thời gian dự thầu để thu
hút những nhà đầu tư có năng lực tham gia trước khi phát hành hồ sơ mời thầu.
Hình thức này được áp dụng chủ yếu trong đấu thầu hàng hóa, dịch vụ vì nó tạo
ra sự cạnh tranh lớn nhất giữa các nhà thầu.
- Đấu thầu hạn chế: Đây là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời
một số nhà thầu nhất định tham dự. Với hình thức này, chỉ những nhà thầu có đủ
năng lực, kinh nghiệm mới được mời tham dự. Thông thường mỗi gói thầu phải
có từ năm nhà thầu trở lên để đảm bảo có sự cạnh tranh. Bên mời thầu khi lựa
chọn hình thức này không cần thông báo công khai trên phương tiện thông tin
đại chúng mà trực tiếp gửi thư mời thầu cho từng nhà thầu được mời.
Việc lựa chọn hình thức đấu thầu rộng rãi hay đấu thầu hạn chế là do bên
mời thầu quyết định.
1.4.2. Căn cứ vào phương thức đấu thầu
- Đấu thầu một túi hồ sơ: Là phương thức đấu thầu mà khi dự thầu, các
nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật, đề xuất về tài chính trong
một túi hồ sơ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu và việc mở thầu được tiến hành
một lần.
- Đấu thầu hai túi hồ sơ: Là phương thức đấu thầu mà khi dự thầu, các nhà

thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất kỹ thuật, đề xuất về tài chính trong từng túi
hồ sơ riêng biệt, được nộp vào cùng một thời điểm và việc mở thầu được tiến
hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở trước. Những nhà thầu nào

16


đạt tiêu chuẩn về kỹ thuật do bên mời thầu quy định sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề
xuất về tài chính để đánh giá. Phương thức đấu thầu này thường được áp dụng
đối với các hàng hóa, dịch vụ có yêu cầu đặc biệt về chỉ tiêu kỹ thuật.
1.4.3. Căn cứ vào quốc tịch nhà thầu
- Đấu thầu trong nước: Là hình thức đấu thầu chỉ có các nhà thầu trong
nước tham dự.
- Đấu thầu quốc tế: Là hình thức đấu thầu có cả sự tham gia của cả các nhà
thầu trong nước và các nhà thầu nước ngoài.
1.5. Vai trò của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Đấu thầu là một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo các quy
luật khách quan của thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá cả - giá trị.
Thông qua hoạt động đấu thầu, những người mua có nhiều cơ hội để lựa chọn
những người bán phù hợp với mình, mang lại hiệu quả cao nhất - xứng với giá trị
của đồng tiền mà người mua sẵn sàng bỏ ra. Đồng thời những người bán (nhà thầu)
có nhiều cơ hội để cạnh tranh nhằm đạt được các hợp đồng, có thể cung cấp các
hàng hóa sản xuất ra, cung cấp các kiến thức mà mình có hoặc các dịch vụ mà mình
có khả năng đáp ứng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Thông qua đấu thầu, các hoạt
động kinh tế đều được kích thích phát triển như các ngành sản xuất trực tiếp, các
ngành công nghiệp phụ trợ, chế biến.
Với việc nhiều nhà thầu đứng vai trò tổng thầu để kết hợp được các nhà
chế tạo, nhà sản xuất, các chuyên gia tư vấn nhằm thực hiện các gói thầu quy mô
lớn, tổng hợp nhiều lĩnh vực đã làm cho hoạt động kinh tế được diễn ra theo
hướng chuyên môn hóa sâu và đa phương hóa rộng. Bởi vậy công tác đấu thầu

đóng góp những thành tựu to lớn cho sự phát triển kinh tế, thể hiện vai trò quan
trọng trong các hoạt động của kinh tế thị trường, cụ thể vai trò của hoạt động đấu
thầu thể hiện cơ bản qua các mặt sau:

17


1.5.1. Đối với bên mua hàng hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ
Thông qua đấu thầu, bên mua không còn bị phụ thuộc bởi một nhà cung
cấp duy nhất mà có cơ hội chủ động lựa chọn người có năng lực nhất, thỏa mãn
tốt nhất các yêu cầu kỹ thuật, tài chính, thương mại. Nhờ thế, bên mua giảm
được chi phí đầu tư, tăng lợi ích kinh tế của việc mua sắm hàng hóa, tìm kiếm
nhà cung ứng dịch vụ, và cũng giúp cho người tiêu dùng nói chung được sử dụng
những hàng hóa , dịch vụ có chất lượng tốt mà giá lại rẻ.
1.5.2. Đối với nhà thầu
Đấu thầu giúp các nhà thầu nâng cao tính chủ động, linh hoạt nhằm đáp
ứng những yêu cầu từ phía thị trường và người mua. Khi tham dự đấu thầu, các
nhà thầu bắt buộc phái cạnh tranh với nhau bằng chính năng lực, bằng chất
lượng, giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, các nhà thầu phải không
ngừng tìm tòi, sáng tạo, cải tiến quy trình công nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng
cường năng lực cạnh tranh trong đấu thầu. Việc thắng thầu cũng giúp cho các
thương nhân nâng cao uy tín và vị thế của mình trên thị trường, mở rộng quan hệ
với các thương nhân khác.
1.5.3. Đối với nền kinh tế - xã hội
Đấu thầu là một hoạt động quan trọng của kinh tế thị trường, giúp người
mua và người bán (nhà thầu) gặp nhau thông qua cạnh tranh. Phát triển các
ngành sản xuất theo hướng chuyên môn hoá sâu và hợp tác hoá rộng đồng thời
phát triển thị trường đấu thầu. Thông qua đấu thầu đã phát triển được thị trường
người bán, nhiều doanh nghiệp nhà thầu lớn mạnh, nhiều doanh nghiệp được
thành lập mới hoặc đặt chân vào thị trường đấu thầu, kích thích thị trường trong

nước phát triển chống được sự độc quyền tự nhiên. Các chủ đầu tư, người mua
cũng được tăng cường về năng lực, họ có thêm kiến thức, thông tin và trở thành
những người mua ngày một thông thái hơn. Bên cạnh đó, hoạt động đấu thầu

18


góp phần tạo động lực cho sự phát triển nhờ tăng cường sự công khai, minh
bach, công bằng, hiệu quả và thúc đẩy cạnh tranh các hoạt động mua sắm bằng
nguồn vốn của Nhà nước cho các công trình công cộng.
Bên cạnh những vai trò nêu trên, việc thực hiện đấu thầu trong thực tế
cũng xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực gây ảnh hưởng không ít đến nền kinh tế
như: không đảm bảo tính cạnh tranh, đánh giá đấu thầu không khách quan, công
bằng, tiết lộ những thông tin bí mật… Do đó, nếu biết cách khắc phục những hạn
chế này sẽ giúp hoạt động đấu thầu diễn ra lành mạnh, đạt hiệu quả, phát huy cao
nhất vai trò của nó trong nền kinh tế.
1.6. Khái niệm, nội dung và vai trò của pháp luật về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
chính là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật về đầu
thầu hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, hoạt động đầu thầu hàng hóa, dịch vụ
muốn đi vào đời sống và được thực hiện trong một khuôn khổ, trật tự nhất định
thì phải được Nhà nước ghi nhận, cụ thể hóa bằng pháp luật.
Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là tổng thể các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh giữa các chủ thể trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý hoạt động đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại. Các quy phạm pháp luật này được quy
định trong các văn bản pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Việc quy định
tại luật đấu thầu hoặc luật thương mại là tùy thuộc vào pháp luật của mỗi nước.
Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thường quy định những nội dung

cơ bản sau:
- Khái niệm về đấu thầu hàng hóa dịch vụ, trong đó nêu những dấu hiệu
cơ bản để nhận biết về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

19


×