Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 137 trang )

TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH VIỆT NAM


QUAN NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH

Quan niệm về tổ chức lãnh thổ du lịch
Quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế
Tổ chức lãnh thổ được hiểu như toàn bộ quá trình hay hành động của
con người nhằm phân bố các cơ sở sản xuất và dịch vụ, phân bố dân cư, sử dụng
tự nhiên, có tính đến các mối quan hệ, liên hệ của chúng, các sự phụ thuộc lẫn
nhau của chúng. Các hành động này được thực hiện phù hợp với các mục tiêu
của xã hội trên cơ sở các quy luật kinh tế trong hình thái Kinh tế xã hội tương
ứng. Mục tiêu cơ bản của tổ chức lãnh thổ là nhằm tiết kiệm lao động xã hội
nhờ cải thiện cơ cấu sản xuất - lãnh thổ của nền kinh tế và cải thiện cơ cấu tổ
chức sản xuất của đất nước hay của từng vùng cụ thể theo hướng phát triển tổng
hợp nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong sản xuất, sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái.
Tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội còn được hiểu như sự kết hợp của các tổ
chức lãnh thổ đang hoạt động: cấu trúc lãnh thổ quần cư, cấu trúc không gian xã
hội, cấu trúc không gian sử dụng tự nhiên v.v... Ở đây, không thể bỏ qua nội
dung phân vùng và quy hoạch vùng, đó là việc xác định các tỷ lệ và quan hệ
hợp lý về phát triển kinh tế xã hội giữa các ngành trong một vùng, giữa các
vùng nhỏ trong vùng lớn, giữa các vùng lớn trong một quốc gia và trên mức độ
nào đó có xét đến các mối liên kết khu vực và quốc tế. Cấu trúc này được thống
nhất bởi các cơ cấu quản lý quá trình tái sản xuất xã hội, làm cơ sở cho việc
nghiên cứu tổ chức lãnh thổ Kinh tế xã hội của một vùng nhất định, bao gồm
các điểm, các ‘cực’, các nút, và các dải, các tuyến lực và một không gian bề
mặt.
Theo quan điểm của trường phái địa lý Xô Viết, tổ chức lãnh thổ là sự
sắp xếp, bố trí và phối hợp các đối tượng có ảnh hưởng lẫn nhau, có mối quan


1


hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống dân cư nhằm sử dụng hợp lý các
nguồn lực để đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường.
Theo quan điểm của các trường phái địa lý Phương Tây, tổ chức lãnh thổ
(còn gọi là tổ chức không gian kinh tế xã hội) được coi là sự lựa chọn về nghệ
thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn nhằm tìm kiếm một tỷ lệ, quan hệ
hợp lý về phát triển kinh tế - xã hội ggiữa các ngành hoặc giữa các vùng trong
cùng một quốc gia có xét đến mối liên hệ giữa các quốc gia để tạo ra các giá trị
mới. Theo quan điểm này, về mặt địa lý, tổ chức không gian kinh tế xã hội được
xem như là một hoạt động có tính chất định hướng tới sự công bằng về không
gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với không gian ảnh hưởng nhằm
giải quyết việc làm, cân đối giữa nông thôn và thành thị, bảo vệ môi trường
sống của con người.
Không dừng lại ở khái niệm lãnh thổ, các nhà khoa học chuyển sang
một quan niệm mới về tổ chức không gian phát triển. Khái niệm tổ chức không
gian phát triển được tiếp nhận ở nhiều nước phát triển nhờ thành tựu của cách
mạng về công nghệ thông tin, trong đó có lĩnh vực bản đồ trên máy tính,
phương pháp GIS (hệ thông thông tin địa lí) và R - S (viễn thám). Bên cạnh nội
dung có tính truyền thống, các nhà nghiên cứu hướng tới việc tổ chức lại hoặc
tổ chức mới không gian (lãnh thổ), góp phần quản lý nó, bảo vệ môi trường sinh
thái và phát triển bền vững. Nếu khái niệm lãnh thổ bị giới hạn ở các đường
biên giới, các thực thể lãnh thổ thì khái niệm không gian giúp ta vượt qua được
rào cản cứng nhắc này. Không gian bao gồm cả phần đất liền, vùng trời và lòng
đất, được huy động vào sản xuất và dịch vụ vì mục đích phát triển. Đây là hệ
thống mở, động và đa hệ có thể tích hợp các quá trình, các hiện tượng có bản
chất khác nhau nhưng tương tác, thông qua sự trao đổi vật chất, năng lượng và
thông tin.
Mục đích của tổ chức không gian phát triển là tạo ra khung sườn cho sự

chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Chính sự
2


phân công lao động theo lãnh thổ dẫn tới sự hình thành và hoàn thiện các không
gian kinh tế với các quy mô và chức năng xác định. Nền kinh tế hiện đại được
đặc trưng bằng mạng lưới truyền dẫn thông tin, đã thúc đẩy sự quá độ từ biên
giới lãnh thổ Kinh tế xã hội sang các không gian Kinh tế xã hội. Điều này làm
chúng ta có cơ hội vượt qua sự ràng buộc biên giới cứng, mà sang biên giới
mềm với các cực, các tuyến hành lang phát triển.
Quan niệm về tổ chức lãnh thổ du lịch
Quan niệm về du lịch
Du lịch là một trong những hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ. Đó là một
lĩnh vực quan trọng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế và đời sống
xã hội. Một lĩnh vực kinh tế mà đang nổi lên và trở thành một trong những
ngành được quan tâm vì nó mang lại lợi nhuận rất lớn, người ta gọi đó là "
ngành công nghiệp không có ống khói". Xét về nguồn gốc, ngành dịch vụ ra đời
cùng với sự xuất hiện của nền kinh tế hàng hóa. C.Mác đã cho rằng: "Dịch vụ là
con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển
mạnh đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu
cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ càng phát triển".
Lúc đầu người ta chỉ quan niệm dịch vụ là ngành thương nghiệp, làm
nhiệm vụ chủ yếu trong khâu lưu thông, phân phối, sự mua bán hàng hóa... Gắn
với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của dịch vụ ngày càng quan trọng, quan
niệm về dịch vụ cũng dần dần thay đổi, lĩnh vực dịch vụ đa dạng với nhiều
ngành khác nhau: bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục, du lịch, ngân hàng, bảo
hiểm....
Xã hội ngày càng phát triển, các ngành dịch vụ phục vụ trực tiếp cho việc
nâng cao chất lượng cuộc sống con người (vật chất và tinh thần) ngày càng được
mở rộng. Trong đó, ngành du lịch - một ngành phục vụ trực tiếp cho việc hồi phục

sức khỏe thể chất, thư giãn về tinh thần, mở rộng hiểu biết... của con người - không

3


ngừng phát triển cả về chiều rộng và bề sâu, phong phú và đa dạng về loại hình,
hoàn thiện về chất lượng. Xét về lợi ích kinh tế, sự phát triển du lịch có ảnh hưởng
mạnh đến nền kinh tế của mỗi nước, là nhân tố để phát triển nền kinh tế ở các điểm
quần cư, tạo nguồn lợi nhuận lớn cho các vùng đó; trên phạm vi toàn thế giới, nó là
ngành có đóng góp hàng đầu cho nền kinh tế thế giới.
Là một ngành trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch được hiểu theo một số
quan niệm sau:
Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hi lạp “Tonos”, với ý nghĩa là đi
một vòng quanh, cuộc dạo chơi. Thuật ngữ này được Latinh hoá thành “Turnur”
và sau đó thành “touriste” (tiếng Pháp), Tourism (tiếng Anh). Theo Robert
Lanquar từ “Tourism” (du lịch) lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào
khoảng năm 1800 và đuọcq quốc tế hóa nên nhiều nước đã sử dụng trực tiếp mà
không dịch nghĩa. Một số học giả khác lại cho rằng du lịch không phải xuất phát
từ tiếng Hi Lạp mà từ tiếng Pháp “le tour”, có nghĩa là một cuộc hành trình đến
nơi nào đó và quay trở lại, sau đó từ gốc này ảnh hưởng ra phạm vi toàn thế
giới… Như vậy, chưa có một sự thống nhất về nguồn gốc thuật ngữ du lịch,
song điều cơ bản của thuật ngữ này đều bắt nguồn từ gốc là cuộc hành trình đi
một vòng, từ một nơi này đến một nơi khác và có quay trở lại. Trong tiếng Việt,
thuật ngữ du lịch được dịch theo tiếng Hán Việt: du nghĩa là đi chơi, lịch có
nghĩa là từng trải.
Rõ ràng "Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi
liên quan đến sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên, nhằm mục đích nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần,
nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao, kèm theo việc tiêu thụ các
giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa" (I.I.Pirojnik, 1985)

Theo Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), tại hội nghị lần thứ 27 (năm
1993) đã đưa ra khái niệm du lịch thay thế cho khái niệm năm 1963: " Du lịch là

4


hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên của
con người và ở lại đó để tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích
khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn một
năm"
Theo Luật Du lịch Việt Nam (ban hành năm 2005), tại Điều 4, chương I
định nghĩa: "Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định."
Như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau về quan niệm du lịch. Tuy nhiên
theo thời gian, các quan niệm này dần hoàn thiện. Trong điều kiện của nước ta
hiện nay, quan niệm phổ biến được công nhận rộng rãi là quan niệm được trình
bày trong Luật Du Lịch được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005.
Du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt nó mang ý
nghĩa thông thường của từ: việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi,
giải trí… Mặt khác, du lịch được nhìn nhận dưới một góc độ khác như là hoạt
động gắn chặt với những kết quả kinh tế (sản xuất, tiêu thụ) do chính nó tạo ra.
Quan niệm về tổ chức lãnh thổ du lịch
Tổ chức lãnh thổ du lịch được xem là một nghệ thuật sắp xếp, bố trí các
đối tượng du lịch trên một lãnh thổ nhất định nhằm đạt được các hiệu quả khai
thác lãnh thổ tối ưu. Khái niệm tổ chức lãnh thổ du lịch được xuất phát từ các
khái niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế của các nước châu Âu và Bắc Mĩ. Theo
Morill (1970) “Tổ chức lãnh thổ là kinh nghiệm của loài người về sử dụng có
hiệu quả không gian trên Trái Đất”. Theo Jean Paud Gaudemar (1989) “Tổ chức

lãnh thổ là sự tìm kiếm một phân bố tối ưu về người, các hoạt động và tài sản
nhằm tránh sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia hay vùng”.

5


Như vậy, về cơ bản có thể hiểu tổ chức lãnh thổ du lịch là sự sắp xếp các
hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch trên lãnh thổ
gắn với các tài nguyên du lịch, tạo nên các sản phẩm du lịch độc đáo nhằm nâng
cao sức cạnh tranh của lãnh thổ để từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã
hội, môi trường của ngành trong toàn bộ nền kinh tế của lãnh thổ đó.
Để tổ chức thành công hoạt động du lịch trên một vùng lãnh thổ, cần
phải hội tụ nhiều yếu tố, bao gồm:
Điều kiện có sẵn để phát triển du lịch: Điều kiện có sẵn của một lãnh thổ
đảm bảo cho việc tổ chức hoạt động du lịch với hiệu quả cao hơn các lãnh thổ
khác, bao gồm sự phong phú đa dạng về tài nguyên du lịch (bao gồm cả tài
nguyên du lịch tụ nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn), các nguồn lực về vốn,
con người, vật chất và kết cấu hạ tầng (mạng lưới giao thoogn, điện, nước, viễn
thông, hạ tầng xã hội…). Cần lưu ý rằng, tổ chức lãnh thổ hiệu quả, bền vững sẽ
chỉ có được khi có sự tham gia của tất cả các yếu tố đó bởi vì sự kết hợp toàn bộ
các yếu tố đầu vào này là cơ sở để hình thành lợi thế cạnh tranh của lãnh thổ so
với các lãnh thổ khác.
Bối cảnh cạnh tranh và chiến lược phát triển: Các qui định, quy tắc, cơ
chế khuyến khích và áp lực chi phối loại hình và mức độ cạnh tranh của lãnh
thổ sẽ có ảnh hưởng lớn tới chính sách phát triển từ đó khuyến khích đầu tư, bảo
vệ sở hữu trí tuệ và thúc đẩy tăng trưởng.
Điều kiện cần: Yếu tố cầu tạo nên sự tăng trưởng về quy mô và chất
lượng dịch vụ du lịch trên lãnh thổ. Điều kiện cầu tại địa phương (khách nội
vùng), vùng phục cận và quốc tế buộc các doanh nghiệp du lịch trên lãnh thổ
phải cung cấp hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao hơn. Việc tăng cường cung

cấp các dịch vụ chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của du khách là cơ sở để lãnh
thổ cạnh tranh thành công so với lãnh thổ khác.

6


Các ngành dịch vụ liên quan và phụ trợ: Việc tiếp cận được các nhà
cung ứng và doanh nghiệp có năng lực ở địa phương trong những ngành nghề
liên quan đến hoạt động du lịch rất quan trọng để đảm bảo sự thành công của
môi trường kinh doanh vi mô. Nguồn lực sẵn có ở địa phương giúp cho việc
phát triển một nền kinh tế đa ngành. Sự hiện diện của nhiều ngành có sự hỗ trợ
lẫn nhau, thay vì từng ngành riêng lẻ, sẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự
thành công của nền kinh tế, trong đó có du lịch.
Bốn yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết, bổ sung và phụ thuộc lẫn
nhau. Ví dụ như chất lượng điều kiện sẵn có của lãnh thổ sẽ ảnh hưởng lớn tới
việc phát triển các ngành dịch vụ có liên quan và phụ trợ. Tiếp đó, các ngành
dịch vụ phụ trợ sẽ đáp ứng được nhu cầu phức tạp của khách hàng ở những lĩnh
vực riêng biệt. Muốn tổ chức thành công hoạt động du lịch trên một lãnh thổ
cần phải vượt qua được các thách thức về tài nguyên, vốn, nhân lực, môi trường
kinh doanh, các ngành phụ trợ theo trình tự ưu tiên. Việc giải quyết tất cả các
vấn đề cùng một lúc sẽ dẫn tới việc quá dàn trải nguồn lực. Do đó, mỗi lãnh thổ
phải xác định đâu là rào cản chính để giải quyết tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể.
Vai trò của du lịch và tổ chức lãnh thổ du lịch
Việc tổ chức không gian du lịch hiệu quả sẽ tạo điều kiện giúp tăng năng
lực cạnh tranh của lãnh thổ. Khai thác hiệu quả các tài nguyên du lịch của một
lãnh thổ tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô, giúp giảm giá thành sản phẩm, tăng
cường liên kết, chia sẻ thông tin và các nguồn lực khác. Điều đó góp phần làm
phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương, đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, tạo việc làm và giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội khác.
Tổ chức không gian du lịch có thể làm tăng năng suất và hiệu quả sản

xuất, kích thích và thúc đẩy sáng tạo và hỗ trợ thương mại hóa. Nó có thể làm
tăng tính cạnh tranh bằng cách tạo sự kết nối giữa cơ quan quản lí với các doanh
nghiệp; giữa các doanh nghiệp, các ngành công nghiệp và tổ chức có liên quan.

7


Tổ chức không gian du lịch sẽ thúc đẩy quá trình sáng tạo và đổi mới
trong quản lí, kinh doanh du lịch trên địa bàn địa phương. Trước sức ép cạnh
tranh, cần phải luôn đổi mới trong các hình thức tổ chức du lịch, phối hợp tạo ra
các sản phẩm du lịch mới, ngày càng đặc sắc hơn. Sức ép cạnh tranh do khách
hàng muốn có sự lựa chọn các nhà cung cấp tốt hơn trong tổ chức hoạt động du
lịch cũng làm cho các doanh nghiệp phải liên tục cải tiến.
Tổ chức không gian du lịch hợp lí là cơ sở để bảo vệ, duy trì và khai thác
hiệu quả các nguồn tài nguyên trên lãnh thổ. Việc sắp xếp, bố trí các hoạt động du
lịch tối ưu gắn với điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng và nguồn tài
nguyên góp phần giảm thiểu ch phí cũng như tác động có hại từ các hoạt động
không mong muốn, đồng thời dễ dàng tìm ra nguyên nhân tác động đến tài nguyên
và sản phẩm du lịch để từ đó có các phương án bảo vệ và phát triển hợp lí.
Mục tiêu của tổ chức lãnh thổ du lịch
Tổ chức lãnh thổ du lịch cung cấp một sự cải thiện về du lịch nếu như nó
hướng trực tiếp đến hàng loạt các mục tiêu chủ yếu. Ở đây những mục tiêu được
xác định dựa trên sự khác nhau của các đối tượng du lịch. Các đối tượng du lịch đó
phải thật sự cụ thể, rõ ràng để công tác tổ chức du lịch được diễn ra một cách thuận
lợi và đồng bộ trong một thời gian nhất định. Những mục tiêu này là tiền đề đối
với sự hình thành ý tưởng cũng như xác định mục đích và cung cấp một nền tảng
thống nhất cho sự xác nhận của các chính sách du lịch. Theo Clare A.Gunn (1993)
có 4 mục tiêu cơ bản khi tiến hành công tác tổ chức lãnh thổ du lịch:
+ Đáp ứng sự hài lòng và thoả mãn của khách du lịch.
+ Đạt được những thành quả về kinh doanh và kinh tế.

+ Bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch.
+ Sự thống nhất ở vùng du lịch và cộng đồng.

8


Các mục tiêu trên phải được xem như là những động cơ thúc đẩy đối với
tất cả những nhà nghiên cứu, các cơ quan hữu quan tham gia vào dự án phát
triển du lịch có tính chiến lược và đối sách cần thiết nhằm thực hiện được
chúng, đối với cả nước nói chung và từng địa phương nói riêng.

9


CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH
Sự phân bố và kết hợp của các tài nguyên du lịch trên lãnh thổ
Theo I.I. Pirojnik (1985), Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa
– lịch sử và các thành phần của chúng giúp cho việc phục hồi, phát triển thể lực,
tinh lực, khả năng lao động và sức khỏe của con người mà chúng được sử dụng
trực tiếp hoặc gián tiếp để tạo ra dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu ở thời
điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tế - kĩ thuật cho phép.
Theo Luật du lịch Việt Nam (2005) quy định tại điều 4, Chương I thì Tài
nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tich lịch sử -văn
hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có
thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành
các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
Không giống các ngành dịch vụ khác mà sự phân bố bị quy định nhiều hơn
bởi thị trường tiêu thụ, hoạt động kinh tế du lịch được coi là định hướng tài
nguyên, có liên quan rất mật thiết tới sự phân bố các tài nguyên du lịch. Tài

nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ du lịch, đến việc hình
thành, chuyên môn hóa các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của hoạt động du
lịch. Chính vì thế tài nguyên du lịch được xem là một phân hệ riêng biệt trong
hệ thống lãnh thổ nghỉ ngơi – du lịch.
Tài nguyên du lịch được chia thành hai nhóm lớn là tài nguyên du lịch tự
nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
Tài nguyên du lịch tự nhiên
Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng, hiện tượng trong môi trường
tự nhiên xung quanh chúng ta được lôi cuốn vào việc phục vụ cho mục đích du
lịch. Các thành phần tự nhiên với tư cách là tài nguyên du lịch có tác động mạnh
nhất đến hoạt động này là địa hình, khí hậu, nước, động - thực vật.
10


Địa hình
Ảnh hưởng quan trọng của địa hình đến du lịch là các đặc điểm hình thái
của địa hình và các dạng địa hình đặc biệt có sức hấp dẫn du khách.
Về mặt hình thái của địa hình, với các dạng địa hình cơ bản là: đồng bằng,
địa hình đồi và địa hình miền núi.
Địa hình đồng bằng do đơn điệu về hình thái, ít hấp dẫn khách du lịch.
Nhưng đây lại là địa bàn kinh tế xã hội phát triển và lâu đời. Thông qua các hoạt
động sản xuất, văn hóa xã hội của con người, miền địa hình này có ảnh hưởng
gián tiếp đến du lịch.
Địa hình vùng đồi thường là nơi có không gian thoáng đãng thích hợp cho
các hoạt động dã ngoại, cắm trại, tham quan, dã ngoại..... Nơi đây cũng có
truyền thống sản xuất lâu đời, dân cư tập trung đông đúc; thường là nơi có nhiều
di tích khảo cổ, tài nguyên văn hóa lịch sử độc đáo, phát triển loại hình du lịch
tham quan theo chuyên đề.
Miền núi có ý nghĩa lớn nhất đối với du lịch. Khu vực này thuận lợi cho
nghỉ ngơi, an dưỡng, tổ chức hoạt động thể thao mùa đông. Miền núi còn là tập

trung nhiều loài động thực vật, cùng với cảnh quan địa hình tạo nên tài nguyên
du lịch tổng hợp có giá trị cho phát triển du lịch.
Các dạng địa hình đặc biệt hấp dẫn du khách nhất là địa hình karstơ và địa
hình ven biển.
+ Địa hình karstơ là kiểu địa hình được tạo thành do sự lưu thông của
nước trong các đá dễ hoà tan (đá vôi, đôlômit, thạch cao…). ở nước ta chủ yếu
là đá vôi. Một trong những dạng địa hình karstơ được quan tâm nhất đối với du
lịch là các hang động karstơ. Trên thế giới có khoảng 650 hang động với 25
hang dài nhất, 25 hang sâu nhất. Điển hình có: Hang Sistema de Trave (Tây Ban

11


Nha) sâu 1380 m, hang Flint Mammauth Cave System (Hoa Kì) dài 530 km,
hang Optimistices Kaya (Ucraina)…
Ở nước ta, hang động karstơ tuy không sâu, không dài, nhưng phong cảnh
rất đẹp. Động Phong Nha (Bố Trạch - Quảng Bình) dài gần 8 km, cao 10 m là
hang nước đẹp vào loại bậc nhất thế giới. Ngoài ra phải kể đến Bích động (Ninh
Bình), Hương Tích (Hà Tây), hang Bồ Nâu, hang Luồn (Quảng Ninh), vịnh Hạ
Long…
+ Địa hình ven biển có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch, có thể khai thác
để phát triển nhiều loại hình du lịch như tham quan, nghỉ mát, tắm biển, thể thao
dưới nước, tham quan hệ sinh thái đảo ven bờ… Để đánh giá mức độ thuận lợi
cho du lịch của các bãi biển, có nhiều tiêu chí như: dài, rộng, độ mịn của cát, độ
dốc, độ mặn, độ trong của nước…
Khí hậu
Khí hậu cũng là một tài nguyên du lịch khá quan trọng. Trong đó hai yếu tố
của khí hậu: nhiệt độ và độ ẩm không khí là quan trọng nhất. Ngoài ra gió, áp
suất khí quyển, số giờ nắng, sự phân mùa và các hiện tượng thời tiết đặc biệt có
tác động đến tổ chức du lịch.

Đặc biệt là sự phân mùa của khí hậu làm cho du lịch có tính mùa rõ rệt.
Các vùng khác nhau trên thế giới có mùa du lịch khác nhau do ảnh hưởng của
các yếu tố khí hậu. Phụ thuộc vào điều kiện khí hậu hoạt động du lịch có thể
diễn ra quanh năm hoặc chỉ một số tháng.
- Mùa đông: là mùa du lịch trên núi, đặc biệt là loại hình du lịch thể thao.
- Mùa hè: là mùa du lịch quan trọng nhất vì có thể phát triển nhiều loại
hình du lịch, đặc biệt là du lịch biển, trên núi, các loại hình du lịch ngoài trời.
- Mùa du lịch cả năm: thích hợp với du lịch núi, nước khoáng chữa bệnh.
Các vùng khí hậu nhiệt đới và xích đạo mùa du lịch hầu như là cả năm.

12


Đối với tổ chức các dịch vụ du lịch, các tuyến du lịch cần chú ý đến các
hiện tượng thời tiết đặc biệt làm cản trở kế hoạch du lịch như bão, gió mùa, gió
phơn, lũ lụt, mùa mưa.
Thông thường du khách thường ưa thích những điểm du lịch không quá
nóng, quá lạnh, quá ẩm, quá khô hay nhiều gió.
Nguồn nước
Tài nguyên nước phục vụ du lịch gồm có nước trên bề mặt và nước dưới
đất (nước khoáng).
Tài nguyên nước trên bề mặt bao gồm mạng lưới sông ngòi, ao, hồ nước
ngọt và nước mặn. Nó có ý nghĩa lớn trong việc cung cấp nước cho các khu du
lịch, phát triển các loại hình du lịch đa dạng như: hồ, sông nước…
Trong tài nguyên nước cần phải nói đến nước khoáng với giá trị chủ yếu
cho du lịch an dưỡng và chữa bệnh.
Nước khoáng là nước thiên nhiên có một số thành phần vật chất đặc biệt
(các nguyên tố hoá học, các khí, các nguyên tố phóng xạ…) hoặc có một số tính
chất vật lý (nhiệt độ, độ pH…) có tác dụng đối với sức khoẻ con người, đặc biệt
là để chữa bệnh. Các nguồn nước khoáng là cơ sở để phát triển du lịch chữa

bệnh, an dưỡng. Phân theo tác dụng chữa bệnh của các nguồn nước khoáng có
các nhóm:
- Nhóm nước khoáng cacbonic: là nhóm nước khoáng quý có công dụng
giải khát, chữa một số bệnh cao huyết áp, xơ vữa động mạch nhẹ, các bệnh về
thần kinh ngoại biên. Tiêu biểu trên thế giới là nước khoáng Vichy của Pháp,
nước ta có nước khoáng Vĩnh Hảo (Ninh Thuận).
- Nhóm nước khoáng Silic: có tác dụng chữa một số bệnh về đường tiêu
hóa, thần kinh, thấp khớp, phụ khoa. Ở nước ta có nước khoáng Kim Bôi (Hòa
Bình), Hội Vân (Bình Định)

13


- Nhóm nước khoáng Brom - Iot - Bo: Có tác dụng chữa bệnh ngoài da,
thần kinh, phụ khoa…Việt Nam có nước khoáng Quang Hanh (Cẩm Phả Quảng Ninh) và Tiên Lãng (Hải Phòng).
- Ngoài ra còn một số nhóm khác: sunfuahydro, asen - fluo, liti…cũng có
giá trị với du lịch - nghỉ ngơi, chữa bệnh.
Sinh vật
Tài nguyên sinh vật là loại hình du lịch sinh thái, trong đó các khu bảo tồn
thiên nhiên có vai trò quan trọng. Có những hệ sinh thái, sinh vật phục vụ cho
tham quan du lịch như: các thảm thực vật phong phú, độc đáo và điển hình
(rừng nhiệt đới ẩm thường xanh, rừng ngập mặn…) có các loài động vật quý
hiếm (chim, thú…), các loài đặc sản phục vụ cho ẩm thực hoặc các loài phổ
biến có thể săn bắn… Ngoài ra, sinh vật còn phục vụ cho mục đích nghiên cứu
khoa học như ở những khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia. ở nước ta, điển
hình có rừng Cúc Phương, Cát Bà, Cát Tiên, Kẻ Bàng, Bà Nà…
Tài nguyên du lịch tự nhiên có tính chất tổng hợp và giá trị cao trong du
lịch là các Di sản thiên nhiên thế giới. Việt Nam có 2 di sản thiên nhiên thế giới
là vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), động Phong Nha (Quảng Bình).
Ngày nay thị hiếu về du lịch ngày càng đa dạng, con người hướng về thiên

nhiên nhiều hơn, thích du lịch sinh thái hơn. Do vậy tài nguyên du lịch sinh vật
có ý nghĩa rất quan trọng.
Tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn là những đối tượng, hiện tượng do con người
tạo ra trong quá trình phát triển. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống
văn hoá, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, di tích cách
mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các

14


di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích
du lịch.
Các di tích lịch sử, văn hoá
Di tích lịch sử văn hoá là tài sản quý giá của mỗi dân tộc, nó thể hiện
truyền thống tốt đẹp, tinh hoa trí tuệ, tài năng, giá trị về văn hoá, nghệ thuật của
mỗi quốc gia. Nói một cách khác, di tích lịch sử - văn hoá là những không gian
vật chất cụ thể, khách quan trong đó chứa đựng các giá trị điển hình về lịch sử,
về văn hoá do con người sáng tạo ra trong lịch sử để lại.
Ở Việt Nam theo pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam
thắng cảnh, công bố ngày 4 tháng 4 năm 1984 được quy định:
“Di tích lịch sử văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài
liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng như văn hoá
khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, qua trình phát triển văn hoá - xã
hội”.
“Danh lam thắng cảnh là những khu vực thiên nhiên hoặc có những công
trình cổ nổi tiếng”.
Do đó: chỉ những di tích nào có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, nghệ
thuật mới được coi là những di tích lịch sử văn hoá.
Cần đánh giá đúng giá trị của các di tích theo các thang giá trị khác nhau,

những di tích cũng được phân thành những cấp khác nhau: các di tích cấp quốc
gia và cấp địa phương, những di tích có giá trị đặc biệt được coi là di sản thế
giới.
- Các di tích lịch sử - văn hoá nói chung được phân chia thành:
+ Di tích khảo cổ: là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị văn hóa,
thuộc về thời kì lịch sử xa xưa.

15


+ Di tích lịch sử: là các di tích gắn với đặc điểm và quá trình phát triển của
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Loại hình này gồm di tích ghi dấu về dân tộc học, di
tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, di tích ghi dấu chiến công chống xâm
lược, di tích ghi dấu sự vinh quang trong lao động, di tích ghi dấu tội ác của các
thế lực phản động.
+ Di tích văn hoá nghệ thuật: Là các di tích gắn với các công trình kiến
trúc, có giá trị nên còn gọi là di tích kiến trúc nghệ thuật. Nó chứa đựng giá trị
kiến trúc và giá trị văn hoá tinh thần.
Ví dụ: Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội), nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình),
toà thánh Tây Ninh.
+ Các loại danh lam thắng cảnh: Phong cảnh đẹp hòa quyện với các công
trình mang tính chất văn hóa - lịch sử. Tại đây không chỉ có vẻ đẹp thiên nhiên
mà còn có giá trị nhân văn sâu sắc.
+ Các bảo tàng: bảo tàng là nơi lưu giữ các tài sản văn hoá dân tộc, truyền
thụ tri thức chấn hưng tinh hoa truyền thống.
- Các di tích nhân văn có giá trị đặc biệt được xếp vào di sản của thế giới:
7 kỳ quan thế giới (kim tự tháp Ai Cập; vườn treo Babilon; tượng khổng lồ
Heliôt - trên đảo Rôt; lăng mộ vua Mozon ở Halicacnasơ; đền thờ Actemic ở
Ephedơ; tượng thần Dớt ở Olempia và ngọn hải đăng Alexandria).
Ở Việt Nam có các di sản văn hoá được công nhận là di sản văn hoá thế

giới: Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Văn hoá cồng chiêng Tây
Nguyên, nhã nhạc Cung Đình Huế.
Các lễ hội
Lễ hội là một dạng tài nguyên nhân văn quan trọng, là loại hình sinh hoạt
văn hoá tổng hợp rất đa dạng và phong phú để con người hướng về tổ tiên, ôn

16


lại truyền thống, hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại, thể hiện những ước
mơ, khát khao mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết được.
Lễ hội gồm có hai phần: phần lễ và phần hội
Phần lễ: với những nghi thức trang nghiêm, trọng thể, mở đầu ngày hội,
mang tính tưởng niệm lịch sử, hướng về lịch sử hay một nhân vật lịch sử có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển xã hội. Nghi thức lễ hội nhằm bày tỏ tôn kính với
các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong được thiên thời, địa lợi, nhân hoà và
sự phồn vinh, hạnh phúc.
Phần hội: được diễn ra với các hoạt động điển hình, tượng trưng cho tâm
trí cộng đồng, văn hoá dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với
lịch sử, xã hội và thiên nhiên. Trong lễ hội thường có các trò chơi, thi hát…
Đình làng thường là nơi diễn ra các lễ hội, các lễ hội làng thường vào mùa xuân.
Lễ hội thường xuất hiện vào thời điểm linh thiêng chuyển giao mùa hoặc
đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ lao động và chuẩn bị bước sang một chu kỳ
mới. Trên thế giới, lễ hội có nguồn gốc và hình thức vô cùng đa dạng. Chính
điều đó thể hiện vai trò quan trọng của hội he nói chung trong đời sống cộng
đồng. Có thể phân biệt một số hình thức lễ hội chính sau đây:
+ Lễ ghi nhớ những sự kiện của đời sống như khai tâm, cưới xin, ma chay.
Đó là những hành động tập thể, qua đó ghi nhận lại những thời điểm quan trọng
trong cộng đồng dân tộc. Nhiều khách du lịch rất thích đến với lễ hội này ở các
quốc gia.

+ Lễ hội "phục hồi" nhằm làm sống lại một cách ngoại mục ký ức về một
quá khứ hay một nền văn hóa đã tiêu vong.
+ Lễ hội có nghi lễ mô phỏng một cuộc tế lễ mang màu sắc sân khấu và có
vẻ đẹp trang nghiêm.

17


+ Lễ hội kỷ niệm mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều tổ chức một cách
trang nghiêm để nhắc nhở bằng một công ước hay khế ước nào đó, hoặc một sự
kiện khai sinh ra nhà nước hiện đại. Những lễ hội này được tổ chức long trọng
và mang tính giáo dục cao.
Các nghề và làng nghề thủ công truyền thống
Làng nghề truyền thống là làng có nghề cổ truyền được hình thành từ lâu
đời, tồn tại và phát triển đến ngày nay. Như vậy hai yếu tố cơ bản cấu thành
làng nghề là làng và nghề, trong đó nghề trong làng đã tách khỏi sản xuất nông
nghiệp thành ngành kinh doanh độc lập. Các sản phẩm của làng nghề truyền
thống là sự kết tinh, giao thoa và phát triển các giá trị văn hóa, văn minh lâu đời
của mỗi dân tộc. Các làng nghề truyền thống chính là một dạng tài nguyên du
lịch nhân văn, bởi các sản phẩm du lịch làng nghề luôn bao gồm trong đó cả nội
dung giá trị vật chất (hàng lưu niệm) và phi vật thể (kỹ năng làm nghề, cảm
nhận văn hóa nghệ thuật...). Các sản phẩm văn hóa được làm ra bởi bàn tay tài
hoa, óc sáng tạo của những thợ thủ công khéo léo, thể hiện những tư duy triết
học, những tâm tư tình cảm của con người. Những sản phẩm này mang cả dấu
ấn về tâm hồn và bản sắc dân tộc, lẫn dấu ấn về mỗi làng quê và hình ảnh đất
nước. Từ đời nay sang đời khác, các sản phẩm thủ công đã trở thành các mặt
hàng lưu niệm có giá trị, yêu thích của nhiều khách du lịch quốc tế.
Trên thế giới có rất nhiều làng nghề thủ công truyền thống ở các quốc gia
như Nhật Bản, Trung quốc, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á. Nước ta là nước có
nhiều nghề thủ công truyền thống: chạm khắc đá, nghề đúc đồng, nghề kim

hoàn, nghề gốm, nghề mộc, nghề mây tre đan, nghề dệt… mỗi nghề đều có lịch
sử phát triển lâu dài và khá độc đáo.
(1). Nghề chạm khắc đá
+ Là một trong những nghề có lịch sử lâu đời nhất thế giới

18


+ Thời kỳ đồ đá, con người đã chế tác ra những vòng đeo tay, hạt chuỗi,
khuyên tai, tượng bằng đá.
+ Tại Việt Nam đã tìm thấy di chỉ xưởng chế tác đá Bái Tự (Bắc Ninh),
Tràng Kênh (Hải Phòng), Bái Tê (Thanh Hoá), Kinh Chủ (Hải Dương), Ngũ
Hành Sơn (Đà Nẵng).
Ngoài ra còn rải rác ở nhiều nơi khác như Ninh Bình, Thừa Thiên Huế,
Biên Hoà.
(2). Nghề đúc đồng
Nghề đúc đồng của nước ta xuất hiện rất sớm - từ thời kỳ dựng nước.
Những sản phẩm được đúc từ đồng thau của nền văn hoá Đông Sơn như trống
đồng đã chứng tỏ một trình độ kỹ thuật điêu luyện, một tư duy nghệ thuật phong
phú.
Nghề đúc đồng phát triển nôit tiếng nhất là ở làng Ngũ Xá (Hà Nội), làng
Trà Đúc (Thanh Hoá) và làng Điện Phương (Quảng Nam).
(3) Nghề kim hoàn (còn gọi là nghề mỹ nghệ vàng bạc)
Nước ta có nhiều làng làm nghề kim hoàn, như làng Đình Công (Thanh Trì
– Hà Nội) và được coi là cái nôi của nghề kim hoàn ở nước ta.
(4) Nghề gốm
Nước ta là một trong những nơi có kỹ nghệ gồm phát triển sớm nhất ở
châu Á. Nhiều địa phương đã nổi tiếng cả trong và ngoài nước về kỹ thuật làm
gốm thủ công thô sơ rất độc đáo có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách như:
Hương Canh (Vĩnh Phúc), Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Lò Chum

(Thanh Hoá), Phương Tích (Huế), Biên Hoà (Đồng Nai).
(5) Nghề mộc

19


Nghề mộc dựng đình chùa, đền miếu, nổi tiếng có thôn Cúc Bồ, xã Kiến
Quốc tỉnh Hải Dương.
Nghề chạm trổ, khắc gỗ có rất nhiều nơi nổi tiếng: làng Đồng Giao xã
Hương Điền tỉnh Hải Dương; làng Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà
Tây; làng Giáp thuộc Tứ Xã huyện Lâm Thao - Phú Thọ; La Xuyên huyện Yên
Ninh tỉnh Nam Định; Phù Khê và Kim Thiều thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc
Ninh…
Vùng Thuận Hoá (Huế) là kinh đô của cả nước, nơi tập trung nhiều nghệ
nhân nghề mộc và chạm trổ.
(6) Nghề dệt thiêu ren truyền thống
Theo truyền thuyết thì công chúa Thiều Hoa, con gái thứ sáu của vua Hùng
Vương thứ nhất, chính là người tìm ra con tằm và phát minh ra nghề dệt lụa.
Những địa danh gắn với truyền thuyết đó ở nước ta có rất nhiều như: Bưởi,
Nghi Tàm, Nghĩa Đô (Hà Nội), Trinh Tiết, Kiều Trúc, La Khê (Hà Tây).
(7) Nghề sơn mài và điêu khắc
Nghề sơn mài ở Việt Nam có từ đời Lê Hiến Tông, có ông tiến sĩ Trần Lưu
tên thật là Lương (1470) ở làng Bình Vọng, huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây, đỗ
tiến sĩ năm 1502, là ông tổ của nghề sơn Việt Nam. Kế thừa và phát huy nghề
truyền thống đó, năm 1925 ở nước ta, trường CĐ Mỹ Thuật Đông Dương được
thành lập. Những hoạ sĩ nổi tiếng về sơn mài là Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân,
Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn.
(8) Nghề khảm trai, khảm xà cừ
Theo truyền thuyết do ông Nguyễn Kim ở làng Thuận Nghĩa - Thanh Hoá
thành lập. Về sau ở làng Chuôn huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Tây (thời Lê Hiển Tông

1740-1786). Sau đó ra Thăng Long, lập nên phố hàng Khay và lập đền thờ ông
Kim. Ngày nay, nổi tiếng nhất của Việt Nam là Hà Tây, Hà Nội và Nam Định.

20


Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học
Mỗi dân tộc có một điều kiện sống, đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán,
hoạt động sản xuất mang sắc thái riêng và có địa bàn cư trú nhất định. Khi
khoảng cách về không gian địa lý được rút ngắn rất nhiều nhờ những thành tựu
trong lĩnh vực giao thông, viễn thông và internet, trên Trái Đất không còn
những nơi bí ẩn, những nơi chưa được khám phá. Nhưng về nhiều mặt, các dân
tộc vẫn còn xa lạ với nhau. Đó chính là sức hút trong du lịch dân tộc học.
Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học có ý nghĩa du lịch là các tập tục
lạ về cư trú, tổ chức xã hội, thói quen ăn uống, sinh hoạt, kiến trúc cổ, các nét
truyền thống trong quy hoạch cư trú và xây dựng, trang phục dân tộc…
Trên thế giới, mỗi dân tộc đều thể hiện những sắc thái riêng của mình để
thu hút khách du lịch. Người Tây Ban Nha ở vùng biển Địa Trung Hải với nền
văn hóa Phlamango và truyền thống đấu bò là đối tượng hấp dẫn khách du lịch
ở Châu Âu. Các đất nước Italya, Hy lạp là những cái nôi của nền văn minh châu
Âu. Kho tàng văn hóa phong phú, độc đáo là điều kiện thuận lợi cho ngành du
lịch phát triển.
Việt Nam với 54 dân tộc vẫn giữ được những phong tục tập quán, hoạt
động văn hoá văn nghệ đặc sắc, những làng nghề truyền thống với những sản
phẩm nổi tiếng mang tính chất nghệ thuật cao, đặc biệt là các nghề trạm khắc,
đúc đồng, dệt tơ lụa, sơn mài, gốm sứ... Các món ăn dân tộc độc đáo với nghệ
thuật cao về chế biến và nấu nướng.
Các đối tượng văn hoá - thể thao và hoạt động nhận thức khác
Các đối tượng du lịch văn hoá - thể thao và các đối tượng khác cũng thu
hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Các đối tượng này

thường tập trung ở các thủ đô và các thành phố lớn trên thế giới như Luân Đôn,
PaRi, Viên, Matxcova, Roma... đó là trung tâm của các viện khoa học, các

21


trường đại học, các thư viện lớn và nổi tiếng, các trung tâm thường xuyên diễn
ra liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, thể thao…
Đối tượng văn hoá - thể thao thu hút không chỉ khách tham quan nghiên
cứu mà còn lôi cuốn nhiều khách du lịch với mục đích khác. Khách du lịch có
trình độ văn hóa trung bình trở lên đều có thể thưởng thức các giá trị văn hoá
của đất nước mà họ đến tham quan. Do vậy, tất cả các thành phố có các đối
tượng văn hoá, hoặc tổ chức các hoạt động văn hoá - thể thao đều trở thành
những trung tâm du lịch văn hoá.
Các thành tựu kinh tế của mỗi quốc gia hay của địa phương cũng có sức
hấp dẫn đặc biệt đối với phần lớn khách du lịch. Để tuyên truyền cho những
thành tựu về kinh tế, nhiều cuộc trung bày, triển lãm, hội chợ thường được tổ
chức. Tại đây, những người tham dự triển lãm đến để trao đổi kinh nghiệm sản
xuất hoặc tuyên truyền cho các sản phẩm đem trưng bày. Một số người khác là
các thương nhân tìm đến triển lãm để thiết lập mối quan hệ với các hãng và các
công ty nước ngoài, để ký hợp đồng mua bán các sản phẩm. Ngoài ra là các
khách tham quan, du lịch bình thường với số lượng đông đảo và nhiều mối quan
tâm khác. Dù ai đi và đến với mục đích gì theo nghĩa rộng nhất, đều được coi là
khách du lịch.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất
hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Không thể
nói tới nhu cầu hoặc hoạt động du lịch của xã hội nếu như lực lượng sản xuất
còn ở trong tình trạng thấp kém.
Vai trò to lớn của nhân tố này được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau.

Sự phát triển của nền sản xuất xã hội làm nảy sinh nhu cầu nghỉ ngơi, phát triển
các hoạt động dịch vụ du lịch. Các nhà kinh tế đã chỉ ra rằng, sự xuất hiện và
mở rộng những nhu cầu khác nhau (trong đó có nhu cầu du lịch) là kết quả của

22


sự phát triển nền sản xuất xã hội. Các nhu cầu thường nảy sinh trực tiếp từ sản
xuất. Nền sản xuất xã hội càng phát triển thì nhu cầu về du lịch của dân cư càng
lớn, chất lượng dịch vụ càng cao. Ở các nước kinh tế đang phát triển, nhìn
chung nhu cầu du lịch còn hạn chế. Ngược lại, nhu cầu du lịch ở các nước phát
triển là rất cao và đa dạng.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tác dụng trước hết làm xuất hiện
du lịch, rồi sau đó đưa hoạt động này phát triển với tốc độ nhanh. Giữa nhu cầu
và hiện thực tồn tại một khoảng cách nhất định. Khoảng cách ấy phụ thuộc rất
nhiều vào trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội: trình độ càng cao khoảng
cách càng rút ngắn. Sự phát triển của du lịch chi phối bới nền sản xuất xã hội.
Để giải quyết nhu cầu ăn ở, đi lại, nghỉ ngơi, du lịch của con người, tất yếu phải
có, ví dụ, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất- kỹ thuật thích hợp. Những điều kiện
thiết yếu với khách du lịch như mạng lưới đường sá, phương tiện giao thông,
khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí khó có thể trông cậy vào nền kinh
tế còn chậm phát triển.
Nền sản xuất xã hội phát triển tạo điều kiện nảy sinh nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến du lịch, không chỉ là nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, mức sống, thời gian
rỗi, mà còn cả những sản phẩm về vật chất và tinh thần phục vụ du khách.
Trong nội bộ nền kinh tế, hoạt động của một số ngành như công nghiệp, nông
nghiệp và cả giao thông vận tải có ý nghĩa quan trọng để phát triển du lịch.
* Công nghiệp
Công nghiệp cùng với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ (đặc biệt từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai) đã tạo những tiền đề nâng cao thu nhập của người

lao động, đồng thời làm tăng khả năng đi du lịch. Công nghiệp phát triển cao, sản
xuất ra được những vật liệu đa dạng để xây dựng các cơ sở dịch vụ và hàng loạt
hàng hóa các loại đáp ứng nhu cầu của du khách. Chẳng hạn các ngành công
nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm, công nghiệp vật liệu xây dựng đã cung

23


cấp nhiều sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu của khách du lịch như: đồ hộp, rượu,
thuốc lá, cà phê và cho các cơ sở lưu trú trang thiết bị nội thất hiện đại.
Ngày nay trong điều kiện công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ, con
người cảm thấy không gian sống quá chật hẹp, môi trường bị ô nhiễm khiến họ
cần phải tìm chỗ nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe ngoài nơi cư trú.
* Nông nghiệp
Nông nghiệp có ý nghĩa lớn vì du lịch không thể phát triển được nếu như
không đảm bảo được việc ăn uống cho khách du lịch. Trong những ngày du
lịch, khách cần có nguồn thực phẩm đa dạng từ nông nghiệp, trong đó có món
đặc sản đã trở thành tài nguyên du lịch. Sự có mặt của nguồn hoa quả, rau xanh,
thảo mộc mở ra khả năng phát triển du lịch chữa bệnh.
* Cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng hội nhập quốc tế
Những tiến bộ của các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thế kỷ
XX và sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa là những nhân tố trực
tiếp làm nảy sinh nhu cầu và hoạt động du lịch.
Cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng đã
thay đổi tận gốc hoạt động sản xuất của con người. Nhờ những tiến bộ trong khoa
học và công nghệ, lao động cơ bắp giảm xuống, thay thế vào đó là các hoạt động
sản xuất hiện đại, tự động hóa và cơ giới hóa. Tuy nhiên lao động bằng các công cụ
sản xuất hiện đại lại có đặc điểm riêng. Mặc dù lao động chân tay giảm xuống với
tốc độ nhanh chóng nhưng cường độ và sự căng thẳng trong lao động lại tăng lên
với tốc độ tương ứng. Điều đó đòi hỏi phải được phục hồi sức lực sau những ngày

làm việc căng thẳng thông qua hoạt động nghỉ ngơi, du lịch.
Mặt khác, cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa là
nhân tố đẩy mạnh sự phát triển du lịch. "Công nghiệp du lịch" chắc chắn không
phát triển được nếu thiếu sự hỗ trợ của khoa học - công nghệ và quá trình công

24


×