Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CÔNG CUỘC đổi mới năm 1986 ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.79 KB, 47 trang )

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NĂM 1986 Ở VIỆT NAM

-Nguyên nhân và quá trình thực hiện đổi mới đất
nước 1986
Nguyên nhân thực hiện đổi mới ở Việt Nam năm
1986
a.Nguyên nhân khách quan
Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ nghiêm trọng
diễn ra bắt đầu bùng nổ ở Trung Đông và nhanh chóng lan
ra toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng diễn ra kéo theo những
khủng hoảng về cả chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ,...
Cuộc khủng hoảng đặt ra những vấn đề bức thiết cần phải
đối mặt như: sự bùng nổ dân số, sự vơi dần của tài nguyên
thiên nhiên, yêu cầu đổi mới để thích nghi với mô hình mới
sau khủng hoảng cũng là một vấn đề không thể không
nhắc đến.
Cùng với sự tác động của cuộc khủng hoảng dầu mỏ,
thế giới còn xuất hiện thêm một nhân tố tác động đó là
Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật với những đặc điểm
như khoa học kĩ thuật phát triển theo chiều sâu, khoa học
trở thành lực lượng sản xuấ trực tiếp nhằm hương tới đáp
ứng những đòi hỏi về sản xuất, nguyên vật liệu, năng
lượng,... Sự phát triển ấy đồng thời thức đẩy xu hướng toàn
cầu hóa, tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế. Xu hướng
hợp tác, cạnh tranh dần lấn át trong quan hệ quốc tế,


những điều này đặt ra một yêu cầu cấp thiết đối với mỗi
quốc gia là cần phải đổi mới để thích nghi và kịp thời nắm
bắt mọi thời cơ để tránh tụt hậu.
Trong phạm vi các nước xã hội chủ nghĩa tiêu biểu là


hai đại diện: Liên Xô, các nước Đông Âu và Trung Quốc có
sự khác nhau về con đường và kết quả về sự thích ứng với
tình hình xu thế của thế giới.
Nếu như Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm
1950 – 1975 đã đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, đạt
được những thành tựu to lớn tuy nhiên dưới sự tác động
của cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, do những sai
lầm trong việc điều chỉnh mô hình của đất nước, những
thiếu sót tỏng mô hình kinh tế - chính trị - xã hội vốn tích tụ
từ trước đã khiến cho những nỗ lực không đạt được kết quả
như mong muốn. Tại các nước Đông Âu cũng diễn ra tình
trạnh tương tự khi nhiều nỗ lực để phát triển kinh tế - xã
hội được tiến hành tuy nhiên không giải quyết được mâu
thuẫn đã tích tụ từ lâu. Chính vì điều đó, đến năm 1991, mô
hình xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở cả Liên Xô và các nước
Đông Âu, đánh dấu sự tan rx của hệ thống xã hội chủ nghĩa
trên thế giới.
Trong khi đó, Trung Quốc thực hiện cải cách năm 1978,
sau 10 năm tiến hành cải cách, nền kinh tế - chính trị – xã
hội Trung Quốc đã có nhiều khởi sắc, bước đầu thoát khỏi
khủng hoảng, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho toàn
dân tộc.


b.Nguyên nhân chủ quan
Sự thất bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước
Đông Âu và sự thành công của công cuộc cải cách ở Trung
Quốc đã có tác động mạnh mẽ đến nước ta. Điều đó chứng
minh sự khủng hoảng không mang tính bản chất của chủ
nghĩa xã hội nói chung mà chỉ là sự thất bại của mô hình xã

hội chủ nghĩa cụ thể không phù hợp. Vì vậy, nhiệm vụ của
Đảng Cộng Sản các nước là phải đổi mới, cải cách, tìm ra
mô hình kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn của mỗi
nước.
Đối với Việt Nam, con đường thực hiện cách mạng xã
hội chủ nghĩa đã được tiến hành ở miền Bắc từ sau Đại hội
lần thứ III của Đảng họp tại HN từ ngày 5-10/9/1960. Trong
những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhân dân Việt Nam
phải ra sức động viên và tập trung sức mạnh toàn dân tộc
để vừa xây dựng đất nước, vừa thực hiện cuộc chiến tranh
không cân sức nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc. Việc thực hiện mô hình phát triển này đã mang lại
những kết quả to lớn không thể phủ nhận. Đó là sự bảo
đảm quyết định để giành thắng lợi trong cuộc chiến giải
phóng và bảo vệ Tổ quốc, tạo lập những cơ sở vật chất - kỹ
thuật ban đầu rất quan trọng của xã hội chủ nghĩa, mang
lại cho nhân dân cuộc sống tự do, việc làm, quyền làm chủ
xã hội cùng với những cải thiện đáng kể trong đời sống vật
chất và tinh thần. Sau khi hoàn thành thống nhất đất nước


vào năm 1975, công cuộc thực hiện bước đầu đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, do những hạn chế về lý luận, ngay sau khi
thống nhất đất nước Đảng ta đã không nhìn nhận chính xác
hoàn toàn “điểm xuất phát” mà từ đó cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, cũng như vai trò của kinh tế thị trường
trong mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; không thấy
được những tích cực khách quan của sự phát triển của kinh
tế TBCN ở miền Nam trong điều kiện chiến tranh,cũng như

tính không thích hợp của cơ chế tập trung bao cấp đã tồn
tại ở miền Bắc thời chiến tranh đối với quá trình xây dựng
kinh tế trong hòa bình và thống nhất đất nước.
Biểu hiện cụ thể được thấy rõ qua Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 24 (khóa III) từ ngày 24 đến
ngày 29-9/1975 thống nhất chủ trương cải tạo, xóa bỏ
những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam, đẩy nhanh công cuộc xây dựng nền sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa theo mô hình kinh tế ở miền Bắc. Tiếp đó, Đại
hội Đảng toàn quốclần thứ IV tháng 9/1976, tiếp tục khẳng
định chủ trương xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa bằng ba cuộc cách mạng lớn: cách mạng quan hệ
sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn
hóa tư tưởng.
Triển khai thực hiện đường lối của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IV, những năm 1976-1980, bên cạnh những
thành tựu căn bản đạt được, đất nước tồn tại nhiều hạn


chế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể bị cô lập; kinh tế
thương nghiệp bị ngăn cản, không phát huy được tác dụng
và phát triển, mất cân đối nền kinh tế; thu nhập quốc dân
giảm, đời sống nhân dân gặp khó khăn; xuất hiện nhiều
hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế quan liêu, bao cấp,...
Lý giải cho những hạn chế này có thể thấy được những
nguyên do như Mỹ áp dụng chính sách cấm vận đối với Việt
Nam; cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam với Pol Pot và
chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc trong những
năm 1977-1979; các khoản viện trợ từ các nước xã hội chủ
nghĩa bị suy giảm... Những khó khăn từ tình hình bên ngoài

cộng với sai lầm và bất cập trong chính sách kinh tế cũng
như quản lý điều hành đã dẫn đến sự mất cân đối lớn trong
nền kinh tế.
Những khó khăn và hạn chế được khắc phục phần nào
ở giai đoạn 1980 – 1985, tuy nhiên nhìn chung kinh tế Việt
Nam vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Đổi mới hiện giờ
được xem như là một vấn đề cấp thiết.
Như vậy có thể thấy, trước sự tác động của thời đại,
của sự biến đổi của tình hình thế giới, cùng với thực trạng
của Việt Nam sau 10 năm thống nhất đất nước với những
khó khăn, hạn chế và gặp nhiều khủng hoảng, đối mới được
xem như một con đường cứu cánh cho tình trạng trên.
Muốn đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, không có con
đường nào khác ngoài tiến hành đổi mới, chính vì vậy, nhận
thức rõ được điều này, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt


Nam ( tháng 12/1986) đã chính thức khởi xướng sự nghiệp
đổi mới.
-QUÁ TRÌNH ĐỎI MỚI VÀ THÀNH TỰU
Những đột phá hình thành con đường đổi mới:
Trước những khủng hoảng, ách tắc của nền kinh tế,
nhiều vấn đề đặt ra ở cả Trung ương lẫn cơ sở vì vậy, có thể
thấy rằng, trước năm 1986 khi chính thức khởi xướng sự
nghiệp đổi mới, nước ta đã có sự điều tra, tìm tòi về thực
trạng nền kinh tế - xã hội hình thành nên con đường để
thực hiện đổi mới. Con đường này đươc đánh dấu bằng 3
bước đột phá lớn.
Bước đột phá đầu tiên là Hội nghị BCHTW lần thứ 6,
khoá IV (8-1979) chủ trương không còn xem kế hoạch hoá

là hình thức duy nhất để phát triển kinh tế; khẳng định sự
cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường.
Bước đột phá thứ hai là 17/6/1985, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa V họp lần thứ 8 đã ra Nghị quyết về
“giá - lương - tiền” chủ trương áp dụng trong cả nước, xếp
lại lương mới cho tất cả các đối tượng hưởng lương, khẳng
định “phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán
kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa”. Thực tế thực hiện
cuộc cải cách giá lần thứ hai đã không thu được kết quả
như mong đợi, thậm chí gây những bất ổn cho nền kinh tế
do tình trạng lạm phát tăng nhanh. Tuy nhiên, nhìn một


cách biện chứng, chính những khó khăn, thất bại khi triển
khai Nghị quyết về “giá - lương - tiền” cho thấy phải đổi
mới toàn diện, triệt để cơ chế kinh tế, không thể tiếp tục
duy trì cơ chế quan liêu bao cấp.
Bước đột phá thứ ba là Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8l986 và cuối 1986) với "Kết luận đối với một số vấn đề
thuộc về quan điểm kinh tế":
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc.
Trong cải tạo XHCN, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta.
Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung
tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng
hoá, tiền tệ, dút khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp;
chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực

hiện cơ chế một giá. Kết luận nói trên của Bộ Chính trị có ý
nghĩa to lớn trong việc định hướng việc soạn thảo lại một
cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của
Đảng, Đại hội quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất
nước.
Như vậy có thể thấy rằng, để đi được đến Đại hội VI
chính thức khởi xướng sự nghiệp đổi mới thì nước ta cũng
đã có sự chuẩn bị, tìm tòi, nghiên cứu từng bước về thực


trạng đất nước, từng bước phát lệnh đổi mới toàn diện vào
năm 1986.
Quá trình đổi mới giai đoạn 1986 – 1996
Nội dung cơ bản của đại hội VI
Tiến hành từ ngày 5 đến ngày 18-12-1986 với Báo
cáo chính trị do đồng chí Trường Chinh trình bày. Đại hội
đã thảo luận và thông qua đường lối đổi mới theo định
hướng XHCN, đánh dấu bước ngoặt trong sự lãnh đạo của
Đảng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, thể
hiện trên các nội dung cơ bản như sau:
Trên tinh thần, thái độ nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội
đã khẳng định những thành tựu và chỉ ra các hạn chế củ
thời kỳ 1976- 1986, rút ra những bài học kinh nghiệm cơ
bản có ý nghĩa chỉ đạo đối với sự nghiệp xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó đã, xác định phải quán triệt
và thực hiên 2 nhiệm vụ chiến lước là xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN, Đại hội đã nêu lên đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, thể hiện tâp trung ở một số vấn đề lớn như
sau:
Về quan niệm thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng coi đó là

một quá trình lâu dài, gồm nhiều thời kỳ, giai đoạn kế tiếp
nhau, mỗi thời kỳ, giai đoạn có mục tiêu, bước đi, quy mô,
tốc độ, biện pháp thích hợp, khác nhau, từ thấp đến cao,
không được nôn nóng duy ý chí đốt cháy giai đoạn mà phải
theo đúng quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.


Theo tư duy đó, Đại hội xác định nước ta đang ở chặng
đường đầu, giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ.
Về mục tiêu, nhiệm vụ: Đảng cho rằng do nước ta
đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ nên nhiệm vụ bao
trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường này là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo. Mục
tiêu cụ thể của chặng đường này là: Sản xuất đủ tiêu dùng
và có tích luỹ; Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý
nhằm phát triển sản xuất; Xây dựng, hoàn thiện một bước
QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản
xuất; Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; Bảo đảm nhu
cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Về nhiệm vụ, giải pháp: Đại hội chủ trương đổi mới
toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, đối ngoại,
nhưng chủ yếu là kinh tế, tập trung đổi mới kinh tế trến cơ
sở đó mà từng bước đổi mới về chính trị và các lĩnh vực
khác. Để đổi mới kinh tế cần thực hiện 10 giải pháp mà tập
trung là bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu
tư theo hướng coi trọng nông nghiệp, tập trung thực hiện 3
chương trình kinh tế lớn (lương thực thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu); Xây dựng và củng cố quan hệ sản

xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ ở nước ta; Đổi mới cơ chế


quản lý kinh tế, chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN,
theo cơ chế thị trường,…
Tư tưởng chỉ đạo của đường lối đổi mới là: Giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của
đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để
phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố
quan hệ sản xuất XHCN. Đảng, Nhà nước tạo điều kiện, cơ
chế cho nhân dân làm, không làm thay nhân dân.
Có thể nói, đường lối đổi mới của Đảng trọng tâm là
đổi mới kinh tế chính là tư duy mới về 3 vấn đề cơ bản:
Đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ
cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và
tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ
tầng; cơ cấu kinh tế huyện). Thực hiện ba chương trình kinh
tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương
trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh
tế.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang hoạch
toán kinh doanh XHCN, thực hiện 1 giá (nói đơn giản là
chuyển từ coi trọng công nhiệp sang coi trọng nông nghiêp,
từ hai thành phần kinh tế sang nhiểu thành phần kinh tế và
từ cơ chế khế hoạch hóa sang co chế thị trường).



Giai đoạn 1986-1996: Bổ sung, phát triển đường lối đổi
mới đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội
Sau Đại hội lần thứ VI (12/1986), BCHTW khóa VI đã có
nhiều Hội nghị tập trung lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ tư (1986 - 1990), trong đó quan trọng là Hội
nghị lần thứ 2/VI (4/1987) quyết định phương hướng giải
quyết vấn đề lưu thông phân phối.
Hội nghị lần thứ 3/VI (8/1987) quyết định về "chuyển
hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế”.
Hội nghị lần thứ 5/VI (6/1988) ra Nghị quyết Về một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng.
Hội nghị lần thứ 6/VI (1/1989) đánh giá tình hình và đề
ra những chủ trương cụ thể để chỉ đạo công cuộc đổi mới
vào chiều sâu và nêu ra các nguyên tắc cơ bản phải được
toàn Đảng, toàn dân trong quá trình tiếp tục công cuộc đổi
mới.
Hội nghị lần thứ 7/VI(6/1989)ra Nghị quyết về Một số
vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng truớc tình hình trong
nước và quốc tế hiện nay.
Hội nghị lần thứ 8/VI (3/1990) thông qua Nghị quyết về
tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ
nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta (Nghị
quyết 8A).


Hội nghị cũng đã thảo luận và thông qua Nghị quyết
Về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân, phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công cuộ c đổi mới
(Nghị quyết 8B).
Hội nghị lần thứ 9/VI (8/1990) bàn một số vấn đề kinh
tế - xã hội cấp bách, với tư tưởng chỉ đạo là kiên quyết thực
hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,…
Tháng 6 năm 1991, Đảng đã tiến hành Đại hội làn thứ
VII với tinh thần :”Trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương đoàn kết", thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000,… Cương lĩnh có 4
phần, 12 vấn đề lớn, đã khẳng định 4 thắng lợi vĩ đại của
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng theo các
cương lĩnh trước đó và rút ra năm bài học kinh nghiệm lớn,
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
Về xây dựng CNXH, Cương lĩnh đã trình bày khái quát
những biến đổi to lớn và sâu sắc của tình hình quốc tế tác
động đến cách mạng nước ta , nêu lên quan niệm của Đảng
về CNXH mà nhân dân ta sẽ xây dựng là một xã hội có 6
đặc trưng cơ bản: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,


hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các
dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Từ tháng 6/1991 đến 6/1996, BCHTW khóa VII đã có

các hội nghị chuyên đề bàn triển khai thực hiện Nghị quyết
của Đại hội. Đáng chú ý là Hội nghị lần thứ 2/VII (11/1991)
bàn về vấn đề ổn định và phát triển kinh tế - xã hội và việc
sửa đổi Hiến pháp. Hội nghị lần thứ 3/VII (6/1992) nghiên
cứu và quyết định ba vấn đề quan trọng về: tình hình thế
giới và chính sách đối ngoại; củng cố quốc phòng, giữ vững
an ninh quốc gia; đổi mới và chỉnh đốn Đảng.Hội nghị lần
thứ 5/VII(6/1993) nghiên cứu sâu hơn về thực trạng nông
nghiệp và nông thôn, quyết định những chủ trương để đưa
nông nghiệp và nông thôn tiến nhanh và vững chắc hơn...

Từ ngày 20 đến ngày 25/01/1994 tại Hà Nội, Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã họp và chỉ rõ
công cuộc đổi mới đang đứng trước những 4 thách thức lớn
là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu;
nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Hội
nghị lần thứ 7/VII (7/1994) bàn định về chủ trương, chính
sách phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai
cấp công nhân. Hội nghị lần thứ 8/VII (1/1995) bàn thảo và


ra nghị quyết về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một
bước nền hành chính nhà nước…
Thành tựu giai đoạn 1986-1996: Đây là giai đoạn
đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần

khắc phục được những yếu kém và có những bước phát
triển.
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi
mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng:
+ GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng
bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng
tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng
28%/năm .
+ Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát
triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế,
kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công
bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN
trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là
giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế
quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống
kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản
xuất, tạo ra động lực phát triển mới.


Giai đoạn 1991- 1996: Đất nước dần dần ra khỏi tình
trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt được những
thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ,
suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và
toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức:
+ GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh
vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5
năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai

đoạn 1986 - 1990 (2).
+ Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng
trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15
năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo
được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát
triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”
- Quá trình đổi mới giai đoạn 1996 - nay
a, Nội dung Đổi mới thông qua các Đại hội
Từ năm 1996 đến năm 2016: giai đoạn bổ sung, phát
triển đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Bước vào thế kỷ XXI, cách mạng nước ta vừa đứng
trước thời cơ vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy
cơ và thách thức không thể xem thường. Đại hội đại biểu


toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã họp từ ngày 19 đến ngày
22/4/2001 vơi chủ đề là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại
hội nhấn mạnh một số bài học chủ yếu như: Một là, trong
quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân,
vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn
sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.

Đại hội cho rằng con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Trong thời kỳ quá độ,
có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Lợi ích giai cấp
công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong
mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…


Sau Đại hội, Hội nghị BCHTW lần thứ 3/IX (9/2001)
khẳng định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Hội
nghị lần thứ 5/IX (2/2002) ra Nghị quyết Về đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001 – 2010 và Nghị quyết về đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể; Nghị quyết tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân. Hội nghị lần thứ 6/IX (7/2002) cho ý kiến về
tiếp tục thực hiện phát triển giáo dục và đào tạo khoa học
và công nghệ đến năm 2005 và đến năm 2010. Hội nghị
lần thứ 7/IX (3/2003) thông qua Nghị quyết về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết về công tác
dân tộc và nghị quyết về công tác tôn giáo; Nghị quyết về
tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội
nghị lần thứ 8/IX (7/2003) ra Nghị quyết về chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới…
Tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng họp với chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển”. Đánh giá thành tựu của
công cuộc đổi mới (1986 - 2006). Đại hội đã chỉnh sửa 6
đặc trưng của CNXH do Đại hội VII nêu ra và bổ sung thêm
2 đặc trưng mới là: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân


chủ, văn minh; và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản”
Tiếp đó, Hội nghị BCHTW lần thứ 3/X (7/2006) đã thông
qua Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; quy định
đảng viên làm kinh tế tư nhân.Hội nghị lần thứ 4/X (1/2007)
thảo luận các đề án về một số chủ trương, chính sách lớn
khi Việt Nam là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO); ra Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020. Hội nghị lần thứ 5/X (7/2007 nghe báo cáo và thảo
luận các đề án: Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước
yêu cầu mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng ; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị; đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ
máy nhà nước. Hội nghị lần thứ 6/X (1/2008) nghe báo cáo

và thảo luận các đề án: Tiếp tục xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; Về việc mở rộng địa giới hành
chính Thủ đô Hà Nội. Hội nghị lần thứ 7/X (7/2008) nghe
báo cáo và thảo luận các Đề án: "Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá"; "Xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất


nước và hội nhập kinh tế quốc tế"; "Vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn"…
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã diễn ra từ ngày
12 đến 19/1/2011 với chủ đề: Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011 được Đại hội thông qua đã xác địnhxã hội
XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 8 đặc
trưng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản

lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới.
Tiếp

theo

Đại

hội,

Hội

nghị

BCHTW

lần

thứ

3/XI(10/2011), thông qua Quy định những điều đảng viên
không được làm. Hội nghị lần thứ 4/XI (12/2011) xem xét,
cho ý kiến về: Đề án một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay; đề án xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng


đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Hội nghị lần thứ
5/XI (5/2012) thảo luận, ban hành kết luận về tổng kết việc
thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản

cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Hội nghị lần thứ
6/XI (10/2012) thảo luận, cho ý kiến về đề án "Tiếp tục sắp
xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước"; về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước;... Hội nghị lần thứ 7/XI (5/2013) thảo luận, cho ý kiến
chỉ đạo đối với các vấn đề: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong
tình hình mới; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng
cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Hội nghị lần thứ 8/XI (10/2013) thảo luận, cho ý kiến về: đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới; Hội nghị lần thứ 14/XI (1/2016) thảo
luận, thông qua chủ trương ký Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP);...
Đại hội lần thứ XII của Đảng diễn ra từ ngày 20 đến 281-2016 với tinh thần: “Đoàn kết, Dân chủ, Kỷ cương, Đổi
mới”.Đại hội cho rằng ba mươi năm đổi mới là một giai
đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo


vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, qua 30 năm
đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử;đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức
tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết,
khắc phục để tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và
bền vững hơn. Mục tiêu tổng quát trong 5 năm 2016 – 2020

là: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ gìn hoà
bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để
phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới.
Một số đột phá mới trong bổ sung, triển đường lối đổi
mới (1996- nay)
Đại hội IX (2001), xác định mục tiêu chung của cách
mạng nước ta trong giai đoạn hiện tại là “độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,


dân chủ, văn minh" (điểm mới trong mục tiêu chung này có
thêm từ "dân chủ); đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn
diện hơn vị trí, vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định mô
hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ là nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Đại hội X (2006), đã rút ra 5 bài học lớn và cho rằng
nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng đã
ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên

CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản, xác
định mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là 8 đặc trưng.
Đại hội XI (2011)đã thông qua Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011, nêu lên mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc;
phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN vào giữa thế
kỷ XX...
Đại hội lần thứ XII của Đảng (1-2016) với chủ đề
“Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hoà bình ổn định; phấn đấu sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng


hiện đại. Đó là những quan điểm vừa có tính kế thừa, vừa
có sự đổi mới sáng tạo, mở ra giai đoạn phát triển nhanh và
bền vững cho công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN
trong thời gian tới.
*Nhận xét
Có thể nói, cho đến đầu năm 2016, Đảng ta đã cơ bản
hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.Thực tiễn sự hình thành cũng như quá trình bổ sung,
phát triển đường lối đổi mới cho thấy:
Một là, đổi mới thực chất là bảo vệ, phát huy cái gì cũ

mà đúng, sửa đổi cái gì đúng mà không còn phù hợp, từ bỏ
cái gĩ cũ mà sai; sáng tạo, tiếp thu cái gì mới mà tốt, biến
đổi cái gì mới mà không thích hợp; kiên quyết gạt bỏ cái gì
mới mà sai, không đúng với Việt Nam.
Hai là, đường lối đổi mới là kết quả của một quá trình
tìm tòi, thử nghiệm, thông qua những trăn trở, đấu tranh
gian khổ về tư duy trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kết hợp
với vận dụng lý luận, lần lượt trải qua những bước đột phá
quan trọng từ thấp đến cao, đi từ đổi mới bộ phận đến đổi
mới căn bản, từ đổi mới từng mặt đến đổi mới toàn diện và
phải tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới trong
thời kỳ đổi mới.
Ba là, đổi mới là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,
nhiều khi diễn ra gay gắt ngay trong mỗi con người, trong


từng tổ chức, địa phương, do đó phải kiên trì đổi mới, dám
nhìn thẳng vào sự thật, dám thừa nhận sai lầm, từ bỏ cách
nghĩ, cách làm không còn phù hợp; kiên quyết khắc phục tư
tưởng bảo thủ, giáo điều; đồng thời, không rơi vào cực
đoan, nôn nóng, coi đối mới là sống còn, nhưng phải làm
từng bước vững chắc, thận trọng, có nguyên tắc, không xa
rời mục tiêu.
Bốn là, đường lối đổi mới được hình thành trên cơ sở
độc lập tự chủ, sáng tạo, xuất phát từ thực tế Việt Nam,
đồng thời có tham khảo kinh nghiệm quốc tế một cách có
chọn lọc, bảo đảm đường lối đúng quy luật, thuận lòng
người, hợp thời đại để nhanh chóng đi vào cuộc sống.
b. Thành tựu.
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và

xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và
hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay,
Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan
trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng
quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang
thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Về phát triển kinh tế


Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng nhanh
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước
phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu
tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai
đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên
tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc
liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000
đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công
nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng
5,2% . “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với GDP năm 2000 tăng
hơn hai lần” .
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn
này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những

kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá
cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP
tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong
đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng
10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản
phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8
nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình


×