Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bộ luật dân sự 2015 Bài tập lớn: Biện pháp bảo lãnh và thế chấp để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.39 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Hợp đồng dân sự là giao dịch xây dựng dựa trên sự thỏa thuận của các
chủ thể tham gia. Cũng chính bởi yếu tố chủ quan này mà việc giao kết các hợp
đồng dân sự luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro. Bởi vậy, để đảm bảo quyền
lợi và nghĩa vụ của các chủ thể, pháp luật dân sự còn quy định cụ thể về các
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự. Trong thực tế, có thể thấy rằng các biện
pháp bảo đảm này được sử dụng rất phổ biến và còn gây nhiều vướng mắc
trong các giao dịch dân sự. Bài tiểu luận xin đi vào tìm hiểu và nhận thức sâu
sắc hơn về một trong số những biện pháp bảo đảm ấy: biện pháp bảo lãnh.

NỘI DUNG
I) Những vấn đề lý luận chung về biện pháp bảo lãnh và thế chấp để
bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
1. Những vấn đề lý luận chung về biện pháp bảo lãnh
1.1

Định nghĩa:

Theo điều 361 BLDS 2005 quy định:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa
vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
1.2 Đặc điểm
Biện pháp bảo lãnh có những đặc điểm riêng biệt so với những biện pháp
bảo đảm khác:
 Về chủ thể: quan hệ bảo lãnh luôn xuất hiện bên thứ ba. Quan hệ bảo
lãnh luôn có ba bên chủ thể: bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh, bên
được bảo lãnh với ba quan hệ nghĩa vụ dân sự: bên có quyền – bên có



1


nghĩa vụ, bên bảo lãnh – bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh – bên được
bảo lãnh.
 Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân
 Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Nếu giữa bên bảo lãnh và
bên nhận bảo lãnh không có thỏa thuận gì thêm thì bên bảo lãnh phải
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ không
thực hiện, thực hiện không đấy đủ nghĩa vụ hoặc không còn khả năng
thực hiện nghĩa vụ
 Tính phụ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh vào nghĩa vụ được bảo lãnh:
nghĩa vụ bảo lãnh là một nghĩa vụ phụ, nó có thể được thể hiện là hợp
đồng phụ bảo đảm cho hợp đồng chính, cũng có thể là các điều kiện
để thực hiện hợp đồng chính. Khi nghĩa vụ chính bị xác định là vô
hiệu thì không làm phát sinh hiệu lực của biện pháp bảo lãnh.
1.3 Hình thức:
“Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản
riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định
thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực.” (điều 362
BLDS 2015)
2. Thế chấp và thế chấp để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh
2.1 Thế chấp
Khoản 1 điều 342 BLDS 2005 quy định:
“Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài
sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên
kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho
bên nhận thế chấp.”

Là một biện pháp bảo đảm, thế chấp có những đặc điểm chung của biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bên cạnh đó, thế chấp còn có các đặc
trưng sau:
2


 Là một biện pháp bảo đảm đối vật nhưng quyền của bên nhận thế
chấp đa phần mang tính đối nhân.
 Không có sự chuyển giao tài sản
 Một tài sản có thể thế chấp trước nhiều bên nhận thế chấp để bảo đảm
nhiêu nghĩa vụ dân sự
2.2 Thế chấp để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng biện pháp bảo lãnh có thể
được diễn ra dưới nhiều hình thức với nhiều đối tượng khác nhau.
Thế chấp để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là việc áp
dụng biện pháp bảo đảm thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ của bên được bảo
lãnh, nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba là việc bên có quyền nhận tài sản
bảo đảm thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo lãnh để bảo đảm cho việc
thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh). Hợp đồng bảo
đảm được ký kết trong trường hợp này là hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của
bên thứ ba.
II) Tìm hiểu một vụ việc về bảo lãnh trên cơ sở quy định của pháp luật
dân sự Việt Nam hiện hành
Trong thực tế những vụ việc cụ thể về bảo lãnh và thế chấp để đảm bảo
cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khá phổ biến, nhất là trong lĩnh vực bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động ngân hàng. Những vụ việc rất điển
hình là việc tranh chấp hợp đồng tín dụng được bảo lãnh bằng tài sản của người
thứ ba, sau đây là một vụ việc như thế:
Công ty cổ phần Phú Cường sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đứng tên ông Nguyễn Văn Dũng ( diện tích 400 m2 ) để thế chấp ngân

hàng TMCP Phương Đông – Chi nhánh Hà Nội. Hợp đồng tín dụng số 234/HĐ
được ký kết giữa ông Dũng và Ngân hàng TMCP Phương Đông – chi nhánh
Hà Nội với thời hạn 24 tháng ( 24/2/2006 đến 24/2/2008 ), lãi suất vay ngân
hàng là 1,1% / tháng. Hợp đồng thế chấp ký tại văn phòng công chứng giữa
ông Dũng và công ty CP Phú Cường. Ông Dũng là người ủy quyền cho Công
3


ty CP Phú Cường sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên mình.
Trong hợp đồng thế chấp, định giá giá trị tài sản của gia đình ông Dũng
là 2 tỷ đồng, được vay mức tối đa 1,6 tỷ đồng. Hợp đồng được ký kết ba bên:
bên được bảo lãnh ( Công ty CP Phú Cường ), bên nhận bảo lãnh ( Ngân hàng
TMCP Phương Đông – Chi nhánh Hà Nội ), bên bảo lãnh ( Ông Dũng ).
Tuy nhiên, chưa đầy một năm vay vốn, do công ty CP Phú Cường không
trả lãi đúng hạn, ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi nhánh Hà Nội yêu cầu
gia đình ông Dũng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với khoản vay của
Công ty CP Phú Cường với số tiền 977.717.997 đồng ( tạm tính đến ngày ký
giấy ). “Nếu đến ngày 20/12/2006 hộ gia đình ông Dũng không thanh toán
được số nợ quá hạn thay cho Công ty CP Phú Cường thì hộ gia đình ông Dũng
phải bàn giao tài sản đảm bảo cho Ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi
nhánh Hà Nội để xử lý nợ”. Tiếp theo, ngày 29/5/2007 Chi nhánh Ngân hàng
Phương Đông tiếp tục có thông báo mời bên vay và bên bảo lãnh đến ngân
hàng làm việc. Sau đó, ngày 13/8/2007, ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi
nhánh Hà Nội tiếp tục gửi cho gia đình ông Dũng thông báo toàn bộ số nợ quá
hạn với tổng số 1.106.820.343 đồng. Cũng theo thông báo này, nếu ông Dũng
và công ty CP Phú Cường không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng sẽ
khởi kiện bên vay, bên bảo lãnh về hành vi chiếm dụng bất hợp pháp.
Trước hết, để giải quyết vụ việc này, cần tìm hiểu những quy định của
hoạt động ngân hàng kết hợp với những quy định của BLDS 2005 trong việc
bảo lãnh và thế chấp để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

1. Bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của bên bảo lãnh đối với bên có quyền
( Ngân hàng ) về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên có nghĩa vụ
( bên được bảo lãnh ) khi chủ thể này không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam
kết với bên có quyền.
Theo đó, sự kiện bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đối với bên có quyền
chính là điều kiện làm phát sinh việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc khách
4


hàng ( người được bảo lãnh ) phải cam kết hoàn trả cho bên bảo lãnh số tiền đã
được trả thay được xem như hệ quả tất yếu của việc thực hiện nghĩa vụ trong
giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng hệ quả tất yếu này chỉ phát
sinh khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ và bên bảo lãnh đã thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh của mình. Như vậy, có thể thấy rằng quan hệ bảo lãnh ngân
hàng xuất phát từ bản chất là mối quan hệ giao dịch bảo đảm chứ không phải
quan hệ cấp tín dụng.
Cam kết bảo lãnh mang tính chất đơn vụ, chỉ có bên bảo lãnh có nghĩa vụ
đối với ngân hàng. Đồng thời, cũng phải hiểu rằng, trong quan hệ làm phát sinh
nghĩa vụ được bảo lãnh, người bảo lãnh là người thứ ba, nhưng trong quan hệ
bảo lãnh đang xét tới, người bảo lãnh là người trực tiếp giao kết.
Bên nhận bảo lãnh
( Ngân hàng )

Bên bảo lãnh

Bên được bảo lãnh
( khách hàng )

Đặc điểm: Quan hệ bảo lãnh có đầy đủ các đặc điểm của biện pháp bảo

lãnh như trên, ngoài ra, do đặc thù nghiệp vụ bảo lãnh mà quan hệ bảo lãnh còn
mang những đặc điểm riêng:
 Chủ thể của quan hệ bảo lãnh phải là những chủ thể đáp ứng được các
điều kiện do pháp luật quy định. Thực tế, chủ yếu các chủ thể tham
gia quan hệ bảo lãnh là các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt
động thep pháp luật Việt Nam.
 Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập, khi xảy ra tranh chấp ở nghĩa
vụ chính giữa khách hàng và ngân hàng mà không thuộc phạm vi
nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh sẽ không liên quan.
 Bảo lãnh ngân hàng là loại bảo lãnh luôn thu phí
5


 Đối tượng để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh luôn là tài sản
2. Thế chấp tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ
với ngân hàng
Việc thế chấp để đảm bảo hoạt động bảo lãnh với ngân hàng cũng mang
các đặc điểm của biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và
đặc điểm của biện pháp thế chấp nói riêng. Ngoài ra, nó còn mang những đặc
điểm riêng mang tính nghiệp vụ ngân hàng:
 Tài sản thế chấp thường có giá trị lớn
 Tài sản thế chấp phải được định giá: vì theo nguyên tắc trong hoạt
động vay vốn của ngân hàng thương mại thì vốn vay tối đa chỉ bằng
70% giá trị của tài sản bảo đảm.
 Các thủ tục mang tính trọng thức: Việc thế chấp tài sản phải được lấp
thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp
đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế
chấp phải được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm.
3. Đi vào phân tích cụ thể vụ việc thực tế
3.1


Chủ thể:

Trước hết cần xác định trong vụ việc này có ba quan hệ pháp luật cơ bản.
Theo đó, ta có các cặp chủ thể sau:


Bên có quyền và bên có nghĩa vụ: Ngân hàng TMCP Phương Đông –

Chi nhánh Hà Nội và công ty CP Phú Cường


Bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh: Ngân hàng TMCP Phương Đông

– Chi nhánh Hà Nội và ông Dũng


Bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh: Ông Dũng và công ty CP Phú

Cường
3.2

Đối tượng
Trong quan hệ cho vay giữa ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi

nhánh Hà Nội và công ty CP Phú Cường, đối tượng là tiền, cụ thể là khoản tiền

6



1,6 tỷ đồng mà phía ngân hàng đã cho công ty vay.
Trong quan hệ bảo lãnh giữa ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi
nhánh Hà Nội và ông Dũng, đối tượng là việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ trong các trường hợp quy định, việc thực hiện nghĩa vụ này ông
Dũng đã đảm bảo thực hiện bằng biện pháp thế chấp căn nhà được ngân hàng
định giá 2 tỷ của gia đình ông Dũng.
Trong quan hệ thứ ba, đối tượng là tài sản mà công ty CP Phú Cường
phải thanh toán cho ông Dũng nếu ông Dũng thay công ty thực hiện nghĩa vụ
với ngân hàng.
3.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên:
Vì đề tài bài tiểu luận hướng tới là biện pháp bảo lãnh cũng như việc
dùng thế chấp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nên chỉ đi sâu phân
tích quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự thứ hai, đó là quan hệ
bảo lãnh giữa ngân hàng ( bên nhận bảo lãnh ) và ông Dũng ( bên bảo lãnh ).
Quyền và nghĩa vụ của ông Dũng – bên bảo lãnh:
Quyền của bên nhận bảo đảm được áp dụng theo điều Điều 349 BLDS
2005 về ''Quyền của bên thế chấp tài sản'', Điều 19 và Điều 47 Quyết định 27/
QĐ – NH1 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế thế
chấp cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng như sau:


Kiến nghị bên nhận bảo lãnh tiến hành kiểm tra về sử dụng vốn vay của

bên được bảo lãnh khi cần thiết.


Nhận lại giấy tờ và tài sản thế chấp khi chấm dứt bảo lãnh




Yêu cầu bên được bảo lãnh hoàn trả khoản tiền nợ mà bên bảo lãnh đã

trả thay.


Được sử dụng, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi từ tài sản
Nghĩa vụ của bên bảo lãnh được áp dụng theo điều 348 BLDS 2005 về

''Nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh'', Điều 18 và điều 46 Quyết định 27/ QĐ –
NH1 như sau:


Đôn đốc bên được bảo lãnh trả nợ, lãi đúng hạn cho bên nhận bảo lãnh.
7




Thực hiện nghĩa vụ trả nợ, lãi, tiền phạt (nếu có) thay cho bên được bảo

lãnh khi đến hạn trả nợ mà bên được bảo lãnh không trả toàn bộ hoặc một phần
nợ cho bên nhận bảo lãnh.


Đề nghị cơ quan Công chứng Nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân cấp

huyện chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản.


Giao bản gốc giấy tờ về quyền sở hữu tài sản thế chấp trừ trường hợp


pháp luật có quy định khác.


Vì bên thế chấp giữ và tiếp tục khai thác, sử dụng tài sản thế chấp nên

phải: Bảo quản tài sản thế chấp và giữ đúng giá trị như khi ký hợp đồng; áp
dụng các biện pháp cần thiết; không được bán, trao đổi, chuyển nhượng, cho,
tặng tài sản đang thế chấp.


Chịu mọi chi phí phát sinh về kiểm định, định giá, công chứng và đấu giá

tài sản thế chấp.
Quyền và nghĩa vụ của chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông bên nhận bảo lãnh:
Theo nguyên tắc chung của hợp đồng dân sự, quyền của bên này tướng
ứng là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Quyền của bên nhận bảo đảm được
áp dụng theo điều Điều 351 BLDS 2005 về ''Quyền của bên nhận thế chấp tài
sản'', Điều 21 và Điều 49 Quyết định 27/ QĐ – NH1 như sau:


Giữ bản gốc các giấy tờ về quyền sở hữu tài sản thế chấp



Kiểm tra tài sản thế chấp và có biện pháp nhắc nhở bên thế chấp thực

hiện hợp đồng nếu thấy có biểu hiện không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh



Yêu cầu bên bảo lãnh có biện pháp đôn đốc bên được bảo lãnh trả nợ

gốc, lãi đúng hạn.


Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi đến hạn mà bên

được bảo lãnh không trả được toàn bộ hoặc một phần nợ vay (bao gồm nợ gốc,
lãi, tiền phạt quá hạn).


Được chủ động trích tài khoản tiền gửi của bên bảo lãnh hoặc yêu cầu

8


nộp tiền để trả nợ thay cho bên được bảo lãnh nếu bên bảo lãnh không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh khi đến hạn.


Được quyền yêu cầu đấu giá hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền tổ

chức đấu giá tài sản thế chấp của bên bảo lãnh để trả nợ thay cho bên được bảo
lãnh; được thanh toán nợ, lãi và tiền phạt (nếu có) từ tiền thu về đấu giá tài sản
thế chấp.
Nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh được áp dụng theo điều 350 BLDS 2005
về ''Nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh'', Điều 20 và điều 48 Quyết định 27/ QĐ –
NH1 như sau:



Bảo quản giấy tờ về quyền sở hữu tài sản và các tài sản thế chấp của bên

bảo lãnh đúng giá trị như khi ký hợp đồng bảo lãnh trong trường hợp thoả
thuận bên bảo lãnh thế chấp tài sản


Trả lại giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản và các tài sản thế chấp

cho bên bảo lãnh khi chấm dứt việc bảo lãnh.
3.4

Phương hướng giải quyết:
Trong vụ việc này, trước hết cần xác định Công ty CP Phú Cường đã

hoàn thành nghĩa vụ trả lãi như hợp đồng với chi nhánh ngân hàng hay chưa.
Cùng với đó, cần xem xét trình tự thủ tục ngân hàng thông báo và xử lý tài sản
là căn nhà.
Trong trường hợp xác định Công ty CP Phú Cường không thực hiện hoặc
không thực hiện đúng nghĩa vụ với chi nhánh ngân hàng, nghĩa vụ này nằm
trong phạm vi được ông Dũng bảo lãnh thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản
bảo lãnh. Ông Dũng sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình với ngân
hàng, được quyền yêu cầu bên được bảo lãnh là công ty CP Phú Cường thực
hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, nếu không có thoả thuận
khác.
Trong trường hợp xác định Công ty Phú Cường không vi phạm nghĩa vụ
hay vẫn còn khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc nghĩa vụ bị vi phạm
không thuộc phạm vi bảo lãnh thì ông Dũng không phải thực hiện nghĩa vụ bảo
9



lãnh. Lúc này tranh chấp chỉ xảy ra giữa Công ty CP Phú Cường và chi nhánh
ngân hàng TMCP Phương Đông liên quan đến hợp đồng vay vốn.
4.

Hiện tượng bất cập trong vấn đề bảo lãnh, thế chấp tại ngân hàng
Thực tế đời sống có rất nhiều trường hợp khi Ngân hàng cho vay, khách

hàng nhờ bên thứ 3 đưa tài sản vào để bảo đảm nghĩa vụ dân sự, hợp đồng giữa
bên thứ 3 này và Ngân hàng không được xác định rõ là hợp đồng bảo lãnh, thế
chấp hay thế chấp để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nhiều ngân hàng khi thực
hiện hợp đồng cho vay có bên thứ ba dùng tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ
lại xác định đây là hợp đồng thế chấp. Một phần nguyên do là vì trong các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003 quy định rõ: “Bảo lãnh bằng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được hiểu là thế chấp bằng quyền sử
dụng đất cho người thứ 3 vay vốn theo quy định của Bộ luật dân sự”. Và “việc
bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản
xuất là rừng trồng… được chuyển thành việc thế chấp quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng của người thứ
3”. Luật Nhà ở năm 2005 cũng như các quy định pháp luật liên quan cũng chỉ
đề cập đến việc thế chấp, chứ không hề nhắc đến từ bảo lãnh. Từ đó dẫn đến
việc hầu hết các hợp đồng bảo đảm của ngân hàng đều là thế chấp ( hoặc cầm
cố ) chứ không được ký là hợp đồng bảo lãnh.
Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, Tòa án xem xét lại các hợp đồng đã giao
kết sẽ xác định hợp đồng thế chấp đã ký thực chất phải là hợp đồng bảo lãnh, vì
vậy dẫn đến tuyên hợp đồng vô hiệu. Các ngân hàng dễ đứng trước nguy cơ
mất tài sản bảo đảm, bên bảo đảm chối bỏ trách nhiệm.

KẾT BÀI
Bảo lãnh và thế chấp tài sản để đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh đặc biệt thể
hiện ưu thế của mình trong các hợp đồng dân sự và thương mại. Bên có quyền

vẫn được đảm bảo quyền lợi ngay cả khi bên có nghĩa vụ không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời, vì quan hệ dân sự có liên quan đến người thứ ba,
10


từ đó nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh và bên bảo
lãnh.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ luật Dân sự, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2014

2.

Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam ( tập 2 ), Trường Đại học Luật Hà Nội,

Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2014
3.

Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, Bộ Tư pháp – Viện khoa học

pháp lý, Chủ biên PGS.TS Hoàng Thế Liên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2013
4.

Bài báo: Nguy cơ hàng vạn hợp đồng thế chấp của ngân hàng vô hiệu,


/>5.

Bài báo: Xử án tín dụng: Rối chuyện thế chấp, bảo lãnh,

/>option=com_content&task=view&id=683&Itemid=0
6.



sở

dữ

liệu

văn

bản

pháp

luật

trung

ương,

/>7.


Thông tin về dịch vụ bảo lãnh và thế chấp của ngân hàng Vietcombank,

/>8.

Thông tin về dịch vụ bảo lãnh và thế chấp của ngân hàng Agribank,

/>9.

Thông tin về dịch vụ bảo lãnh và thế chấp của ngân hàng BIDV,

/>10.

Các hình thức bảo lãnh ngân hàng, />
lanh-ngan-hang-ctbv185.html
11.

Quyền của bên thứ ba với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất,

/>
12



×