Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tich thực trạng áp dụng phương pháp xác định trị giá hải quan ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.4 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
-----------------------

Đề tài:
Phân tích thực trạng áp dụng phương pháp trị giá trong việc
xác định trị giá hải quan ở Việt Nam hiện nay.

Mở đầu
Trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có vai trò quan trọng trong
quản lý hoạt động thương mại quốc tế. Việc áp dụng, thực hiện các phương pháp
xác định trị giá hải quan của hàng hoá xuất, nhập khẩu một cách hợp lý và khoa
học sẽ góp phần quản lý đúng trị giá giao dịch của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,
phản ánh đúng thực tế các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, các hoạt động thương
mại quốc tế. Đồng thời, tạo lập được một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh trong nước phát triển, và dễ
dàng hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong
việc tìm kiếm nguồn hàng có giá cả hợp lý, thuận lợi cho hoạt đông kinh doanh của
mình. Sự thiếu hụt những phương pháp xác định trị giá hải quan hiệu quả gây ảnh
hưởng đến kết quả của các chính sách quản lý thương mại và quản hải quan. Các
phương pháp xác định trị giá hải quan luôn là chủ để của nhiều Hiệp định quốc tế
bởi vì trị giá hải quan có thể trở thành một rào cản cho thương mại. Trị giá hàng
hóa có thể khác nhau do biến động giá trên thị trường và đặc biệt là các căn cứ,
cách thức xác định trị giá. Nếu trị giá tính cao hơn giá trị thực thì số thuê quan phải
nộp tăng lên, tức là hàng hóa khó xâm nhập thị trường hơn.


Vì vậy, việc tìm hiểu về thực trạng áp dụng phương pháp trị giá trong việc xác định
trị giá hải quan ở Việt Nam hiện nay là vô cùng quan trọng và cần thiết.

I. Lý thuyết chung về 6 phương pháp xác định trị giá hải quan


Khái niệm trị giá hải quan:
- Trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa XNK dùng cho mục đích của hải quan.
- Trị giá hải quan của hàng hóa XK là giá bán hàng hóa tại cửa khẩu xuất theo hợp
đồng mua bán không bao gồm các chi phí vận chuyển và bảo hiểm quốc tế.
- Trị giá hải quan của hàng hóa NK là giá trị thực tế phải trả tính đến cửa khẩu
nhập đầu tiên.
Có 6 phương pháp xác định trị giá hải quan:
1. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
Điều kiện áp dụng phương pháp trị giá giao dịch:
- Thứ nhất, người mua không bị hạn chế đối với quyền định đoạt hoặc sử dụng
hàng hóa ngoài các hạn chế đã được quy định. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ đối với
điều kiện này:
+ Hạn chế về việc mua bán, sử dụng hàng hoá theo quy định của pháp luật Việt
Nam như: Các quy định về việc hàng hoá nhập khẩu phải dán nhãn mác bằng tiếng
Việt, hàng hoá nhập khẩu có điều kiện, hoặc hàng hoá phải chịu một hình thức
kiểm tra trước khi được thông quan, …
+ Hạn chế về nơi tiêu thụ hàng hoá: hạn chế này thường liên quan đến các hợp
đồng phân phối sản phẩm, ví dụ người bán hàng yêu cầu hàng chỉ được bán lại
theo những khu vực nhất định
+ Hạn chế khác không ảnh hưởng đến trị giá của hàng hoá. Những hạn chế này là
một hoặc nhiều yếu tố có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hàng hoá nhập khẩu,
nhưng không làm tăng hoặc giảm giá thực thanh toán cho hàng hoá đó. Ví dụ:
Người bán yêu cầu người mua không được bán hoặc trưng bày hàng hoá nhập khẩu
trước khi giới thiệu hàng hoá này ra thị trường.


- Thứ hai, giao dịch mua bán không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện nào dẫn đến
việc không thể xác định được trị giá của hàng hóa nhập khẩu. Một hợp đồng được
thiết lập dựa trên nguyên tắc thỏa thuận. Người bán và người mua được tự do thể
hiện ý chí của mình thông qua hành vi thỏa thuận. Do đó nếu một giao dịch khi

được xác lập phụ thuộc vào một số điều kiện mà theo đó không xác định được trị
giá hàng hóa hoặc phản ánh sai lệch trị giá hàng hóa thì cũng không thể áp dụng
phương pháp trị giá giao dịch để xác định trị giá hải quan.
- Thứ ba, sau khi bán lại hàng hoá, người nhập khẩu không phải trả thêm bất kỳ
khoản tiền nào từ số tiền thu được do việc định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá mang
lại trừ một số trường hợp được pháp luật quy định.Phương pháp này có thể được sử
dụng để xác định trị giá hải quan khi không có một khoản lãi bán hàng nào từ việc
bán lại hay sử dụng hàng nhập khẩu được chuyển cho người bán hàng mà không
tính vào trị giá hải quan. Nếu việc bán hàng có liên quan đến khoản lãi bán hàng
hóa nhập khẩu thì phương pháp xác định trị giá giao dịch chỉ được sử dụng khi số
tiền lãi đó được cộng vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán.
- Thứ tư, người mua và người bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu có thì
mối quan hệ đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch. Khi có quan hệ đặc biệt
giữa người mua và người bán, sẽ có khả năng giá thanh toán sẽ bị ảnh hưởng bởi
các quan hệ đó, việc xác định giá cả giữa họ với nhau có thể bị tác động bởi lợi ích
tài chính mà bên này có với bên kia.
Công thức:
Trị giá tính thuế = Trị giá giao dịch = Gía thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh
toán +/ - Các khoản điều chỉnh.
2. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt nhập khẩu
Hàng hóa nhập khẩu giống hệt: Là những hàng hóa nhập khẩu giống nhau về mọi
phương diện, bao gồm: đặc điểm vật chất, chất lượng sản phẩm, danh tiếng của
nhãn hiệu sản phẩm, được sx ở cùng 1 nước, cùng nhà sx hoặc nhà sx dc ủy quyền.
- Điều kiện áp dụng:
+ Lô hàng giống hệt phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về hàng giống hệt.
+ Lô hàng giống hệt phải được xác định trị giá hải quan theo phương pháp trị giá
giao dịch


+ Các bước xác định:

B1: Tìm lô hàng giống hệt
B2: Xác định trị giá của lô hàng đó
B3: Điều chỉnh trị giá hải quan của lô hàng theo điều kiện thương mại
B4: Tính toán trị giá của lô hàng đó sau khi điều chỉnh.
+ Điều kiện về thời gian xuất khẩu: Lô hàng phải được xuất khẩu đến Việt Nam
vào cùng ngày hoặc trong khoảng thời gian 60 ngày trước hoặc 60 ngày sau ngày
xuất khẩu với hàng hóa nhập khẩu đang được xác định trị giá tính thuế.
- Điều chỉnh trị giá hải quan của lô hàng nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự: Điều
chỉnh trị giá hải quan theo điều kiện thương mại, các yếu tố:
+ Cấp độ thương mại
+ Cấp độ số lượng
3. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự nhập khẩu
Hàng hóa nhập khẩu tương tự: Là những hàng hóa mặc dù không giống nhau về
mọi phương diện nhưng có các đặc trưng cơ bản giống nhau, bao gồm: chất liệu,
cùng chức năng và mục đích sử dụng, chất lượng sản phẩm, có thể hoán đổi cho
nhau trong giao dịch thương mại, được sản xuất ở cùng 1 nước.
Phương pháp này dựa trên nguyên tắc: làm cơ sở cho việc xác định trị giá hải quan
là hàng nhập khẩu giá trị ước tính của hàng hóa sử dụng hàng hóa trong giao dịch
khác. Đồng thời nó là bắt buộc rằng giá trị hải quan của hàng hóa đang được so
sánh được xác định bằng phương pháp 1.
Điều kiện áp dụng:
Điều kiện về thời gian xuất khẩu:
Lô hàng nhập khẩu tương tự phải được xuất khẩu đến Việt Nam vào cùng ngày
hoặc trong khoảng thời gian 60 ngày trước hoặc 60 ngày sau ngày xuất khẩu với
hàng hóa nhập khẩu đang được xác định trị giá hải quan.
Điều kiện mua bán:


- Điều kiện về cấp độ thương mại và số lượng:
+ Lô hàng nhập khẩu tương tự phải có cùng điều kiện về cấp độ thương mại và số

lượng với lô hàng nhập khẩu đang được xác định trị giá hải quan.
+ Nếu không tìm được lô hàng nhập khẩu nêu tại điểm b.1.1 khoản 2 thì lựa chọn
lô hàng nhập khẩu có cùng cấp độ thương mại nhưng khác nhau về số lượng, sau
đó điều chỉnh trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự về cùng số lượng
với lô hàng đang xác định trị giá hải quan.
+ Nếu không tìm được lô hàng nhập khẩu nêu tại điểm b.1.1 và b.1.2 khoản 2 thì
lựa chọn lô hàng nhập khẩu khác nhau về cấp độ thương mại nhưng cùng số lượng,
sau đó điều chỉnh trị giá giao dịch của lô hàng nhập khẩu tương tự về cùng cấp độ
thương mại với lô hàng đang xác định trị giá hải quan;
+ Nếu không tìm được lô hàng nhập khẩu nêu tại điểm b.1.1, b.1.2 và b.1.3 khoản
2 thì lựa chọn lô hàng nhập khẩu khác nhau cả về cấp độ thương mại và số lượng,
sau đó điều chỉnh trị giá giao dịch của lô hàng nhập khẩu tương tự về cùng cấp độ
thương mại và số lượng với lô hàng đang xác định trị giá hải quan.
- Điều kiện về quãng đường và phương thức vận tải, bảo hiểm:
Lô hàng nhập khẩu tương tự có cùng quãng đường và phương thức vận tải, hoặc đã
được điều chỉnh về cùng quãng đường và phương thức vận tải với lô hàng đang
xác định trị giá hải quan.
Nếu có sự chênh lệch đáng kể về phí bảo hiểm thì điều chỉnh về cùng điều kiện bảo
hiểm với lô hàng đang xác định trị giá hải quan.
Khi áp dụng phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự, nếu
không tìm được hàng hóa nhập khẩu tương tự được sản xuất bởi cùng một người
sản xuất hoặc người sản xuất khác được ủy quyền thì mới xét đến hàng hóa được
sản xuất bởi người sản xuất khác và phải có cùng xuất xứ.
Khi xác định trị giá hải quan theo phương pháp này mà xác định được từ hai trị
giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự trở lên thì sau khi đã điều chỉnh về
cùng điều kiện mua bán với lô hàng đang xác định trị giá hải quan, trị giá hải quan
là trị giá giao dịch thấp nhất.


* Chứng từ, tài liệu để xác định trị giá hải quan theo phương pháp này, mỗi chứng

từ 01 bản chụp, bao gồm:
- Tờ khai hải quan của hàng hóa nhập khẩu tương tự.
- Tờ khai trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu tương tự đối với trường hợp phải
khai báo tờ khai trị giá hải quan.
- Hợp đồng vận tải của hàng hóa nhập khẩu tương tự (nếu có sự điều chỉnh chi phí
này).
- Hợp đồng bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu tương tự (nếu có sự điều chỉnh chi
phí này).
- Bảng giá bán hàng xuất khẩu của nhà sản xuất hoặc người bán hàng ở nước ngoài
(nếu có sự điều chỉnh về số lượng, cấp độ thương mại).
- Các hồ sơ, chứng từ khác liên quan đến việc xác định trị giá hải quan.
4. Phương pháp trị giá khấu trừ
Là trị giá được xác định căn cứ vào giá bán của hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa
nhập khẩu giống hệt/ tương tự khấu trừ đi các chi phí và lợi nhuận hợp lí thu được
sau khi bán hàng nhập khẩu.
- Trường hợp áp dụng phương pháp khấu trừ:
Nếu không xác định được trị giá hải quan theo các phương pháp ở trên thì trị giá
hải quan của hàng hóa nhập khẩu được xác định theo phương pháp khấu trừ, căn
cứ vào đơn giá bán hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa Việt Nam trừ các
chi phí hợp lý, lợi nhuận thu được sau khi bán hàng hóa nhập khẩu.
- Không áp dụng phương pháp này nếu hàng hóa thuộc một trong các trường hợp
sau:
+ Chưa được bán trên thị trường nội địa Việt Nam hoặc việc bán hàng hóa chưa
được hạch toán trên chứng từ, sổ sách kế toán theo quy định của pháp luật về kế
toán Việt Nam.
+ Có liên quan đến khoản trợ giúp do bất kỳ người nào cung cấp.


- Nguyên tắc xác định giá bán hàng nhập khẩu trên thị trường Việt Nam
+ Giá bán hàng hóa nhập khẩu là giá bán thực tế của hàng hóa đó tại thị trường

Việt Nam.
+ Trường hợp không có giá bán thực tế của hàng hóa nhập khẩu thì lấy giá bán
thực tế của hàng hóa nhập khẩu giống hệt/tương tự còn nguyên trạng như khi nhập
khẩu được bán trên thị trường Việt Nam để xác định giá bán thực tế.
+ Hàng hóa nhập khẩu còn nguyên trạng như khi nhập khẩu là hàng hóa sau khi
nhập khẩu không bị bất cứ một tác động nào làm thay đổi hình dạng, đặc điểm,
tính chất, công dụng của hàng hóa hoặc làm tăng, giảm trị giá của hàng hóa nhập
khẩu.
- Điều kiện áp dụng:
+ Phải có hoạt động bán hàng nhập khẩu hoặc hàng hóa giống hệt/tương tự tại
nước nhập khẩu.
+ Hàng nhập khẩu, hàng giống hệt/ tương tự khi bán phải cùng điều kiện như khi
nhập khẩu.
+ Phải bán lại cho người mua không có quan hệ đặc biệt.
- Chứng từ, tài liệu để xác định trị giá hải quan theo phương pháp này gồm:

+ Hóa đơn bán hàng;


+ Hợp đồng đại lý bán hàng trong trường hợp người nhập khẩu là đại lý bán hàng
của người xuất khẩu ở nước ngoài.


+ Bản giải trình về doanh thu bán hàng và các chứng từ của đơn vị bán hàng tại
Việt Nam.
+ Sổ sách kế toán phản ánh các khoản chi phí nêu trên.
+ Tờ khai hải quan và tờ khai trị giá hải quan của lô hàng được lựa chọn để khấu
trừ.



Công thức
TGHQ= Đơn giá bán lại – các khoản khấu trừ
5. Phương pháp trị giá tính toán


Là phương pháp xác định trị giá hải quan của hàng hóa dựa trên các chi phí liên
quan đến việc sản xuất và bán hàng để xuất khẩu đến nước nhập khẩu.
- Trị giá tính toán gồm:
+ Giá thành/ trị giá nguyên vật liệu, CF của quá trình sản xuất
+ Chi phí chung, lợi nhuận
+ Các khoản điều chỉnh
- Căn cứ để xác định trị giá tính toán:
+ Là số liệu được ghi chép và phản ánh trên chứng từ, sổ sách kế toán của người
sản xuất trừ khi các số liệu này không phù hợp các số liệu thu thập được tại Việt
Nam.
+ Số lượng này phải tương ứng với những số liệu thu được từ những hoạt động sản
xuất, mua bán hàng hóa nhập khẩu cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại do người
sản xuất tại nước xuất khẩu sản xuất ra để xuất khẩu đến Việt Nam.
- Vấn đề kiểm tra sổ sách
+ Không được tiến hành việc kiểm tra hoặc yêu cầu xuất trình để kiểm tra sổ sách
kế toán hay bất kỳ hồ sơ nào khác của các đối tượng không cư trú trên lãnh thổ
Việt Nam.
+ Việc thẩm tra các thông tin do người sản xuất hàng hóa cung cấp phục vụ xác
định trị giá hải quan. Có thể được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam. Nếu được sự
đồng ý của nhà sản xuất. Và phải được thông báo trước bằng văn bản cho cơ quan
có thẩm quyền của nước có liên quan. Và được cơ quan này chấp thuận cho phép
tiến hành việc thẩm tra.


- Chứng từ, tài liệu để xác định trị giá hải quan theo phương pháp này

Bao gồm:

+ Bản giải trình của người sản xuất về các chi phí. Có xác nhận của người sản xuất
về các chứng từ, số liệu kế toán phù hợp với bản giải trình này.
+ Hóa đơn bán hàng của người sản xuất.
+ Chứng từ về các chi phí.


6. Phương pháp suy luận hay phương pháp dự phòng
- Điều kiện áp dụng phương pháp trị giá suy luận:
+ Không được sử dụng các phương pháp bị cấm:







Giá bán trên thị trường nội địa của các mặt hàng cùng loại được sản xuất tại
Việt Nam.
Giá thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Giá bán hàng hóa để xuất khẩu đến nước khác.
Giá xuất khẩu hàng sang nước khác.
Giá tính thuế tối thiểu.
Trị giá áp đặt hay hư cấu.

+ Phải sử dụng các biện pháp hợp lí
+ Phải nhất quán với quy định của GATT:





Phải căn cứ vào trị giá thực tế
Phải là giá bán thông thường
Không được căn cứ vào trị giá áp đặt hoặc hư cấu.

+ Dựa trên cơ sở dữ liệu thu thập được từ nước xuất khẩu.
- Nội dung của phương pháp suy luận:
+ Vận dụng linh hoạt phương pháp trị giá giao dịch:



Nếu giao dịch không có hợp đồng nhưng được thỏa thuận qua thư tín thương
mại hợp đồng.
Người mua không đủ quyền định đoạt đối với hàng hóa, nhưng không làm ảnh
hưởng đến giá trị hàng.

+ Vận dụng linh hoạt phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu giống
hệt hoặc tương tự:



Linh hoạt về kỳ giao dịch
Linh hoạt về nước xuất xứ

+ Vận dụng phương pháp trị giá khấu trừ:







Trong vòng 90 ngày từ ngày nhập khẩu mà không xác định được đơn giá dùng
để khấu trừ thì chọn đơn giá được bán ra với số lượng lớn nhất trong vòng 120
ngày kể từ ngày nhập khẩu lô hàng.
Nếu không có giá bán lại của chính lô hàng nhập khẩu hoặc tương tự, giống
hệt cho người mua không có quan hệ đặc biệt thì lựa chọn đơn giá bán lại cho
người mua có quan hệ đặc biệt với điều kiện mối quan hệ này không làm ảnh
hưởng đến giá bán.

II. Thực trạng áp dụng phương pháp trị giá trong việc xác định trị giá hải
quan ở Việt Nam hiện nay.
1. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
a) Xây dựng pháp lý
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 60/2019/TT-BTC ngày 30/8/2019 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2015/TT-BTC quy định về trị giá hải quan
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Những sửa đổi, bổ sung cơ bản tại Thông tư 60 bao gồm:
- Về giải thích từ ngữ:
Thông tư 60 sửa khái niệm phần mềm ứng dụng; bổ sung mới các khái niệm: Đã
thanh toán, sẽ phải thanh toán, thanh toán trực tiếp, thanh toán gián tiếp, phần mềm
điều khiển, vận hành (phần mềm hệ thống).
- Về các trường hợp cơ quan hải quan xác định trị giá hải quan:
Thông tư 60 bổ sung 02 trường hợp bao gồm:
(1) Đủ cơ sở, căn cứ bác bỏ trị giá hải quan do người khai hải quan tự kê khai, tự
xác định. (2) Có căn cứ xác định trị giá hải quan do người khai hải quan tự kê khai,
tự xác định không phù hợp.
Thông tư mới cũng đã loại bỏ trường hợp cơ quan hải quan xác định trị giá hải
quan theo quy định cũ tại Thông tư 39 bao gồm:



(1) Trường hợp hàng hóa nhập khẩu đã sử dụng tại Việt Nam, có thay đổi mục đích
sử dụng so với mục đích đã được xác định thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn
thuế, xét miễn thuế; (2) Hàng hóa nhập khẩu không có hợp đồng mua bán hàng hóa
hoặc không có hóa đơn thương mại.
- Về nguyên tắc và phương pháp xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập
khẩu:
Thông tư 60 đã diễn đạt lại phần nguyên tắc, trong đó bổ sung nội dung: Việc xác
định trị giá hải quan phải căn cứ vào chứng từ, tài liệu, số liệu khách quan, định
lượng được. Ngoài ra, Thông tư cũng thống nhất quy định lại tên gọi của một trong
các phương pháp xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là phương
pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu.
- Về phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu:
Theo quy định mới, trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế mà
người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán để mua và nhập
khẩu hàng hóa sau khi đã được điều chỉnh theo quy định tại Điều 13 (Các khoản
điều chỉnh cộng), Điều 14 (Phí bản quyền, phí giấy phép) và Điều 15 (Các khoản
điều chỉnh trừ).
Thông tư 60 quy định rõ hơn về trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là máy
móc thiết bị có phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu kèm theo và thủ tục
khai báo, kiểm tra. Trong đó có quy định cụ thể đối với: (1) Trường hợp phần mềm
điều khiển, vận hành được ghi, lưu trữ trong phương tiện trung gian để cài đặt vào
máy móc thiết bị sau khi nhập khẩu, (2) Các trường hợp không cộng trị giá phần
mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu vào trị giá hải quan của máy móc thiết bị, (3)
Trường hợp người mua phải thanh toán chi phí về quyền sử dụng phần mềm điều
khiển, vận hành để cài đặt và vận hành máy móc thiết bị.
Thông tư 60 cũng bổ sung quy định về trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu
là phương tiện trung gian (carrier media) chứa đựng phần mềm ứng dụng dùng cho
các thiết bị xử lý dữ liệu (software for data processing equipment).
- Về trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu trong một số trường hợp đặc biệt:



Thông tư 60 bỏ đối tượng "xét miễn thuế" khỏi trường hợp hàng hóa nhập khẩu đã
sử dụng tại Việt Nam có thay đổi mục đích sử dụng so với mục đích ban đầu để
phù hợp với quy định hiện tại (chỉ còn "không chịu thuế, miễn thuế"). Về hàng hóa
nhập khẩu khác ngoài ô tô, mô tô, Thông tư quy định rõ trị giá hải quan đối với các
trường hợp: (1) Hàng hóa thay đổi mục đích để tiêu hủy; (2) Hàng hóa thay đổi
mục đích để bán và (3) Hàng hóa khác ngoài hai trường hợp này.
Thông tư mới cũng bổ sung về trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu không
có hợp đồng mua bán hàng hóa và hóa đơn thương mại; hàng hóa nhập khẩu được
vận chuyển đến Việt Nam bằng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh, không có
hợp đồng mua bán và hóa đơn thương mại. Việc xác định trị giá hải quan trong
trường hợp cơ quan hải quan có căn cứ xác định trị giá khai báo không phù hợp
ngoài việc tuân theo các phương pháp xác định trị giá tại Thông tư còn phải phù
hợp với thực tế hàng hóa nhập khẩu.
Đối với các trường hợp đặc biệt, Thông tư 60 bổ sung thêm quy định về trị giá hải
quan đối với hàng hóa chưa qua sử dụng tại Việt Nam, có thay đổi mục đích sử
dụng so với mục đích đã được xác định thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn
thuế. Trong đó cũng chia ra các trường hợp: (1) Hàng hóa thay đổi mục đích để
tiêu hủy; (2) Hàng hóa thay đổi mục đích để bán và (3) Hàng hóa khác ngoài hai
trường hợp này.
Thông tư 60 bổ sung các trường hợp mà phí bản quyền, phí giấy phép được coi
như một điều kiện cho giao dịch mua bán hàng hóa nhập khẩu so với các quy định
cũ tại Thông tư 39. Bên cạnh đó, Thông tư mới cũng quy định rõ hơn về trách
nhiệm khai báo, chứng từ cung cấp của người khai hải quan cũng như cách thức xử
lý của cơ quan hải quan trong các trường hợp khi khai báo, kiểm tra mối quan hệ
đặc biệt.
b) Thực tiễn áp dụng
Có thể nói, quy định của pháp luật hiện nay về trị giá hải quan đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và phù hợp với quy định

của hiệp định trị giá GATT.
Tuy nhiên, với những quy định này sẽ không tránh khỏi gian lận thương mại qua
trị giá bằng nhiều hình thức khác nhau, các thủ đoạn tinh vi và rất khó kiểm soát.


Tham vấn để xác định giá trị thực của mặt hàng nhập khẩu là biện pháp hữu hiệu
mà ngành hải quan áp dụng nhằm tránh thất thu ngân sách Nhà nước. Nhưng tiến
hành tham vấn tràn lan dễ dẫn tới việc gây phiền hà cho doanh nghiệp, cản trở quá
trình cải cách thủ tục hành chính đang được ngành hải quan triển khai mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, việc áp dụng trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo GATT là một
vấn đề mới và phức tạp, triển khai và quản lý còn thiếu kinh nghiệm, đã xuất hiện
hiện tượng gian lận thương mại về hàng hoá nhập khẩu khá đa dạng, tinh vi nhất là
những mặt hàng có thuế suất cao, giá trị lớn. Bên cạnh hành vi gian lận thương mại
trong ký kết các hợp đồng kinh tế ngoại thương thì gian lận hoàn thuế đối với hàng
hoá xuất nhập khẩu ở khu kinh tế thương mại tự do cũng là vấn đề cần 8 phải có
biện pháp quản lý chặt chẽ. Khó khăn của các cơ quan quản lý thuế hiện nay vẫn là
việc xác minh các khoản tiền thực tế giao dich và thanh toán các hợp đồng, mua
bán qua mạng và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Có thể nói gian lận thương
mại trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, với
nhiều thủ đoạn tinh vi, hình thức gian lận thường thấy nhất là gian lận qua giá
nhằm mục đích trốn thuế hải quan. Ngoài ra, công tác xác định trị giá tính thuế còn
nhiều tồn tại, chưa tương xứng với thực tế công việc và yêu cầu của Ngành đặt ra.
Những tồn tại tập trung vào các việc như: thu thập, khai thác và sử dụng thông tin
chưa phù hợp; việc tham vấn chưa thực sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức;
việc xác định lại trị giá tính thuế sau tham vấn; hệ thống tổ chức, con người chưa
phù hợp; hệ thống dữ liệu giá chưa hiệu quả. Nhưng theo đánh giá của Tổng cục
hải quan, trình độ công chức làm công tác giá hiện nay nhìn chung còn yếu kém về
chuyên môn, bố trí cán bộ chưa đúng đối tượng, chuyên môn đào tạo. Tại các Chi
cục nhỏ chưa có cán bộ chuyên trách, cán bộ làm giá còn thiếu kinh nghiệm thực tế
do việc luân chuyển cán bộ liên tục giữa các bộ phận còn bất cập, chỉ chú trọng

đến vị trí công tác mới mà chưa chú ý đến tính nghiệp vụ chuyên sâu. Một số vấn
đề pháp lý liên quan đến trị giá hải quan chưa được pháp luật điều chỉnh như: đó là
việc quy định chặt chẽ các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, những mối quan hệ
có ảnh hưởng đến trị giá giao dịch có ảnh hưởng đến các khoản điều chỉnh cộng,
trừ vào giá trị giao dịch hàng hoá. Hiện nay chưa có quy định cho việc bắt buộc tất
cả các giao dịch đều phải thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Điều này gây khó
khăn trong việc xác định số tiền thực thanh toán của doanh nghiệp; vấn đề xác định
hành vi khai báo sai trị giá hải quan hay hành vi trốn thuế; các văn bản quy định về
việc xử lý các hành vi vi phạm về vấn đề liên quan đến trị giá hải quan tại Việt


Nam vẫn còn chưa đồng bộ chưa tương xứng với mức độ thiệt hại của hành vi. Các
quy định hiện hành vẫn còn thiếu và còn nhiều bất cập, không cập nhật.
c) Phương hướng hoàn thiện
- Một là, cần phải hoàn thiện yếu tố con người, đây là nhân tố quyết định cho sự
vận hành của cơ chế xác định trị giá hải quan. Chính vì vậy việc nâng cao đội ngũ
cán bô ̣ hải quan trong công tác xác định giá trị hải quan là hết sức cần thiết, thể
hiện ở chỗ cần nâng cao tập huấn, phổ biến các quy định của pháp luật về cách xác
định giá trị hải quan, đồng thời tổ chức các đợt tuyên truyền và mở rộng trình đô
̣cho cán bô ̣hải quan có thể tiếp cận được các phương pháp xác định giá trị hải quan
theo quy định của pháp luật trong nước và các điều ước quốc tế mà chúng ta tham
gia như Hiệp định trị giá GATT…
- Hai là, tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về xác định trị giá hải quan theo
hướng phù hợp với quy định của WTO và các khuyến nghị của tổ chức hải quan
ASEAN.
- Ba là, nâng cấp cơ sở vật chất, kĩ thuật tạo điều kiện cho việc thực hiện việc áp
dụng các phương pháp xác định trị giá hải quan được thực hiện nhanh, gọn, hiệu
quả. Từng bước hoàn thiện hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu để phục vụ cho công
tác xác định trị giá hải quan đồng thời nâng cao việc hoàn thiện bô ̣ máy tổ chức
cho việc hoạt động công tác xác định trị giá hải quan trong tương lai đúng chuẩn

quốc tế.
d) Ví dụ
Xe ô tô hiệu Honda CRV nhập khẩu từ Nhật Bản về Việt Nam, được vận chuyển
bằng máy bay về Nội Bài, chi phí vận chuyển 9.000USD. Do không có giao dịch
mua bán nên không áp dụng được theo phương pháp trị giá giao dịch.
Qua kiểm tra, trước thời điểm đó có doanh nghiệp nhập khẩu xe Honda CRV từ
Nhật Bản về Việt Nam qua cảng Hải phòng, giá CIF Hải phòng 34.000 USD (bao
gồm cước phí vận chuyển 4.000 USD)
Vậy, điều chỉnh chênh lệch giá do phương thức vận chuyển: 9.000 USD - 4.000
USD = 5.000 USD.
Xác định trị giá tính thuế cho xe là 34.000 USD + 5.000 USD = 39.000 USD.


2. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt nhập khẩu
a) Xây dựng pháp lý
Cách xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu giống hệt được quy
định cụ thể tại Khoản 8 Điều 2 Thông tư 205/2010/TT-BTC, được sửa đổi bổ sung
tại Khoản 1 Điều 1 của Thông tư 29/2014/TT-BTC. Cụ thể, hàng hóa nhập khẩu
giống hệt là những hàng hóa giống nhau về mọi phương diện gồm:
– Đặc điểm vật chất gồm bề mặt sản phẩm, vật liệu cấu thành, phương pháp chế
tạo, chức năng, mục đích sử dụng, tính chất cơ, lý, hóa, có cùng mã số theo phân
loại của Danh mục hàng hóa nhập khẩu Việt Nam;
– Chất lượng sản phẩm;
– Nhãn hiệu sản phẩm;
– Được sản xuất ở cùng một nước, bởi cùng một nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất
được ủy quyền.
Ngoài ra, hàng hóa nhập khẩu có những khác biệt không đáng kể về bề ngoài
như màu sắc, kích cỡ, kiểu dáng mà không làm ảnh hưởng đến giá trị hàng hóa thì
vẫn được coi là hàng hóa nhập khẩu giống hệt. Pháp luật cũng quy định cụ thể
trường hợp không được coi là hàng hóa nhập khẩu giống hệt. Đó là trường hợp

hàng hóa sản xuất dựa trên các thiết kế kĩ thuật, thi công, triển khai, mỹ thuật, sơ
đồ… đã được làm ra ở Việt Nam.
Điều kiện áp dụng được quy định tại Điều 8 Nghị định 40/2007/NĐ-CP, cụ thể là:
– Lô hàng nhập khẩu giống hệt được xuất khẩu đến Việt Nam vào cùng ngày hoặc
trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu của lô hàng đang được xác định
trị giá tính thuế;
– Lô hàng nhập khẩu giống hệt có giao dịch mua bán ở cùng cấp độ hoặc đã được
điều chỉnh về cùng cấp độ bán buôn hoặc bán lẻ; có cùng số lượng hoặc đã được
điều chỉnh về cùng số lượng với lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;


– Lô hàng nhập khẩu giống hệt có cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển
hoặc đã được điều chỉnh về cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển giống
như lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế.
Cần phải lưu ý rằng, nếu không có lô hàng nhập khẩu được sản xuất bởi cùng
một nhà sản xuất thì mới xét đến hàng hoá được sản xuất bởi nhà sản xuất khác,
nhưng phải đảm bảo các quy định về hàng hoá nhập khẩu giống hệt. Mặt khác, khi
xác định được từ hai trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt trở lên thì
trị giá tính thuế là trị giá giao dịch thấp nhất.
b) Thực tiễn áp dụng
Để áp dụng phương pháp trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu giống hệt
thì hàng hóa nhập khẩu phải đảm bảo những đảm bảo những điều kiện nhất định.
Khi không thể xác định trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch thì phải
áp dụng phương pháp tiếp theo là trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu giống
hệt.
c) Ví dụ
Công ty Đại Thành khai báo nhập khẩu một lô hàng là sản phẩm cơ khí đặt sản
xuất tại công ty A ở Trung Quốc. Lô hàng được xét ở phương pháp trị giá giao dịch
hàng nhập khẩu giống hệt. Theo dữ liệu của cơ quan hải quan, công ty Đại Thành
đã từng nhập khẩu một lô hàng sản phẩm cơ khí giống hệt của công ty B ở

Malaysia, Công ty B cũng đặt hàng của công ty A ở Trung Quốc
3. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự
a) Xây dựng pháp lý
Tổng cục Hải quan phân tích, căn cứ quy định tại Điều 8 và Điều 9 Thông tư số
39/2015/1T-BTC thì nếu không thể xác định được trị giá hải quan cho hàng hóa
nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao dịch (quy định tại Điều 5 đển Điều 7 và
Điều 13 đến Điều 16 của Thông tư số 39/2015/1T-BTO), trị giá hải quan của hàng
hóa phải được xác định theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
giống hệt. Nếu không thể xác định được theo phương pháp trị giá giao dịch của
hàng nhập khẩu giống hệt thì phải xác định theo phương pháp trị giá giao dịch của
hàng nhập khẩu tương tự. Nếu không xác định được trị giá hải quan theo phương


pháp trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu tương tự thì phải xác định theo phương
pháp trị giá khấu trừ, trị giá tính toán và cuối cùng là phương pháp suy luận.
Trong khi kiểm tra việc xác định trị giá hải quan của doanh nghiệp, nếu cơ quan
Hải quan có đủ cơ sở để kết luận giao dịch mua bán của doanh nghiệp không đủ
điều kiện áp dụng xác định trị giá hải quan theo phương pháp trị giá giao dịch thì
phải bác bỏ trị giá hải quan khai báo, bác bỏ việc áp dụng phương pháp trị giá giao
dịch và tiến hành xác định trị giá hải quan theo trình tự áp dụng các phương pháp
là đúng quy định.
Khi xác định trị giá hải quan theo phương pháp thay thế là phương pháp trị giá
giao dịch của hàng nhập khẩu tương tự, nếu hải quan địa phương xác định trị giá
giao dịch của hàng nhập khẩu tương tự là không phù hợp thì tiếp tục chuyển sang
áp dụng phương pháp thay thế tiếp theo. Đặc biệt, do đây là việc xác định lại trị giá
hải quan của hàng hóa nhập khẩu, được thực hiện trong khi cơ quan Hải quan tiến
hành thanh tra chuyên ngành tại doanh nghiệp, nên cơ quan Hải quan có thể thu
thập được các thông tin để xác định được trị giá khấu trừ của hàng hóa nhập khẩu.
b) Thực tiễn áp dụng
Từ vướng mắc với trường hợp hàng hóa nhập khẩu không đủ điều kiện để được

áp dụng phương pháp trị giá giao dịch, cơ quan Hải quan sẽ chuyển sang áp dụng
phương pháp xác định trị giá tiếp theo là phương pháp trị giá giao dịch của hàng
hóa nhập khẩu tương tự. Tuy nhiên, tra cứu thông tin thì lại phát sinh 2 tình huống:
Chỉ có thông tin về giá giao dịch của hàng hóa NK tương tự có giá thấp hơn trị giá
giao dịch của lô hàng được xác định trị giá hải quan; và tình huống có cả thông tin
về trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự có giá trị thấp hơn và cao hơn trị giá giao
dịch của lô hàng xác định trị giá hải quan.
Tuy nhiên, hải quan một số tỉnh, thành phố cho rằng, việc chấp nhận trị giá giao
dịch của doanh nghiệp hoặc chấp nhận trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
tương tự thấp nhất đều không phù hợp. Vì vậy, cần thiết Tổng cục Hải quan hướng
dẫn trường hợp này.
Phương pháp này ít được sử dụng vì:
- Đạo luật quy định các yêu cầu nghiêm ngặt của việc sử dụng chúng
- Việc lựa chọn đúng các loại hàng hóa được so sánh và việc thực hiện các điều
chỉnh thích hợp của người khai và các nhân viên hải quan đòi hỏi kiến thức đặc
biệt về hàng hóa mình bán hàng.


- Phải được cập nhật liên tục, toàn diện đáng tin cậy, cơ sở giá thích hợp.
c) Phương hướng hoàn thiện
- Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý làm cơ sở cho việc xác định trị giá hải quan.
Thường xuyên rà soát các văn bản pháp luật về trị giá hải quan, trong đó cần chú
trọng công tác pháp điển hóa các quy định của pháp luật về trị giá hải quan. Cần có
một số quy định cụ thể về chế tài đối với công chức hải quan khi tiến hành công tác
xác định trị giá, cần được ghi nhận vào một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao
nhằm nâng cao tính răn đe. Bên cạnh đó, cần đổi mới, cải tiến công tác xây dựng
pháp luật, xóa bỏ tình trạng “khép kín”, “cắt khúc”, giảm dần những điều khoản
giao cho Chính phủ, Bộ tài chính bằng việc đưa vào những quy định là nội dung
của Hiệp định trị giá như là một phần của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Cần chú
trọng việc tổ chức tổng kết đánh giá việc thực hiện các văn bản pháp luật liên quan

trị giá hải quan để có thể đưa ra những chính sách phù hợp.
- Cần có những giải pháp đối với cơ quan hải quan, cụ thể là:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính trong công tác xác định
trị giá, tạo điều kiện cho hoạt động của doanh nghiệp. Cơ quan hải quan cần tiếp
tục lắng nghe, ghi nhận các kiến nghị của doanh nghiệp để đề ra các giải pháp đơn
giản, thuận lợi, phù hợp với thực tế hoạt động xuất nhập khẩu.
Hai là, thực hiện tốt công tác cán bộ bắt đầu từ các bước tuyển dụng cán bộ, bồi
dưỡng nhân lực sẵn có, đào tạo nhân lực théo hướng chuyên môn hoá
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra việc tổ chức thực hiện của hải quan địa
phương để tháo gỡ vướng mắc, đảm bảo văn bản mới được thực thi hiệu quả. Cần
có những kế hoạch nâng cao trách nhiệm của công chức trong công tác quản lý giá
nói riêng và các quy trình nghiệp vụ nói chung, tham vấn đúng đối tượng, với căn
cứ cơ sở rõ ràng, xác đáng, thuyết phục.
- Các doanh nghiệp nhập khẩu cần hợp tác chặt chẽ với quan hải quan để xây dựng
môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng. Các doanh nghiệp cần tự giác tuân
thủ và chấp hành pháp luật hải quan. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần minh bạch
hoá các chứng từ có liên quan đến việc xác định trị giá hàng hoả, đặc biệt cần đàm


phán rõ ràng, chu đáo với đối tác khi ký hợp đồng mua bán ngoại thương nhằm tạo
điều kiện cho hoạt động hải quan diễn ra được hiệu quả, doanh nghiệp cần chủ
động phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong quá trình khai báo, xác định trị
giá tính thuế để kịp thời giải quyết.
d) Ví dụ
Ông A được tặng cho chiếc xe ô tô hiệu Honda CRV nhập khẩu từ Nhật Bản về
Việt Nam, được vận chuyển bằng máy bay về Nội Bài, chi phí vận chuyển
9.000USD. Do không có giao dịch mua bán nên không áp dụng được theo phương
pháp trị giá giao dịch.
Qua kiểm tra, trước thời điểm đó có doanh nghiệp NK xe Honda CRV từ Nhật Bản
về VN qua cảng Hải phòng, giá CIF Hải phòng 34.000 USD (bao gồm cước phí

vận chuyển 4.000 USD)
Vậy, điều chỉnh chênh lệch giá do phương thức vận chuyển: 9.000 USD - 4.000
USD = 5.000 USD.
Xác định trị giá tính thuế cho xe của Ông A là 34.000 USD + 5.000 USD = 39.000
USD.

4. Phương pháp trị giá khấu trừ
Ví dụ
Lô hàng A gồm nhiều mặt hàng trong đó mặt hàng B phải xác định trị giá tính thuế
theo phương pháp khấu trừ. Lô hàng A được nhập khẩu vào ngày 1/1/2020. Một lô
hàng trong đó có mặt hàng giống hệt với mặt hàng B nhập khẩu trước đó và được
bán cho nhiều người mua trong nước theo các mức giá và thời điểm khác nhau như
sau:
Đơn giá
900
đồng/chiếc

Số lượng/ lần Thời
gian số lũy kế
bán
bán
50 chiếc
28/3/2020
100 chiếc
30 chiếc
15/1/2020
20 chiếc
3/3/2020



800
chiếc

đồng/ 200 chiếc
250 chiếc

20/1/2020
12/2/2020

tổng cộng

450 chiếc
550 chiếc

Trong ví dụ trên, đơn giá bán được lựa chọn để khấu trừ là 800 đồng/ chiếc, tương
ứng với số lượng bán ra lớn nhất (450 chiếc), ở mức đủ để hình thành đơn giá. Đơn
giá này thỏa mãn các điều kiện về lựa chọn đơn giá bán, đó là:
- Có số lượng lũy kế lớn nhất (450 chiếc) trong số hàng hóa nhập khẩu được bán ra
ngay sau khi nhập khẩu
- Thời gian bán là trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhập khẩu.
5. Phương pháp trị giá tính toán
a) Xây dựng pháp lý
Khoản điều chỉnh theo Điều 8 của Hiệp định trị giá hải quan:
Trong khi xác định trị giá tính toán cho hàng nhập khẩu, nếu phát sinh các khoản
điều chỉnh bắt buộc theo Điều 8.1 của Hiệp định trị giá hải quan thì phải tiến hành
điều chỉnh theo quy định.
Lưu ý:
- Nếu các khoản điều chỉnh + theo Điều 8.1 của Hiệp định trị giá hải quan đã
được hạch toán trong giá thành sản xuất hàng hóa nhập khẩu → không cần phải
điều chỉnh thêm 1 lần nữa để tránh tình trạng tính trùng.

- Các chi phí vận chuyển, bảo hiểm và chi phí có liên quan đến việc vận chuyển
hàng hóa nhập khẩu phải + vào giá mua hàng hóa khi xác định trị giá hải quan
theo phương pháp tính toán.
Cung cấp thông tin và xử lý thông tin để xác định trị giá
- Các thông tin để xác định trị giá tính toán phải là các thông tin đã có ở nước nhập
khẩu. Các thông tin này trước hết dựa vào khai báo của người nhập khẩu.
- Người nhập khẩu có trách nhiệm tìm kiếm và đảm bảo tính chính xác của các
thông tin xuất trình phục vụ mục đích xác định trị giá tính toán.


- Khai báo của người nhập khẩu sẽ được kiểm tra thông qua các biện pháp nghiệp
vụ và hệ thống quản lý thông tin của cơ quan hải quan.
- Nếu cơ quan hải quan không chấp nhận các thông tin do người nhập khẩu cung
cấp thì có thể sử dụng các thông tin do hải quan thu thập qua nhiều kênh khác
nhau. Trong trường hợp cơ quan hải quan sử dụng các thông tin khác thì phải thông
báo cho người nhập khẩu biết về các thông tin và nguồn thông tin liên quan, nhưng
không vượt quá quy định về bảo mật thông tin (nếu có).
- Theo Hiệp định hải quan: Cơ quan hải quan có nhiều phương thức thu thập và tìm
kiếm thông tin nhằm phục vụ việc xác định trị giá tính toán và kiểm tra khai báo
của người nhập khẩu.
- Trong trường hợp cơ quan hải quan cần tìm kiếm thông tin thì chỉ có thể đề nghị
nhà sản xuất hàng hóa nhập khẩu hoặc cơ quan khác giúp đỡ thông qua sự đồng ý
của cơ quan có thẩm quyền ở nước sản xuất.
- Điều 15.3 của Hiệp định Trị giá hải quan, hàng hóa cùng phẩm cấp và cùng
chủng loại với nhau là những hàng hóa nằm trong cùng một nhóm/một khung
nhóm hàng hóa do cùng một đơn vị sản xuất cụ thể/ cùng lĩnh vực sản xuất ra, gồm
cả hàng hóa giống hệt và hàng hóa tương tự.
- Hàng hóa cùng phẩm cấp hay cùng chủng loại được lựa chọn để so sánh trong
xác định trị giá tính toán cũng phải được xuất khẩu đến nước nhập khẩu và được
sản xuất trong cùng một nước với hàng hóa đang xác định trị giá tính thuế.

b) Thực tiễn áp dụng
Phần lớn trị giá tính toán được sử dụng trong thực tế là những trường hợp mua
bán hàng giữa các bên có mối quan hệ đặc biệt với nhau. Xuất phát từ mối quan hệ
đặc biệt đó. Người mua dễ dàng có được các thông tin cần thiết để xác định trị giá
tính toán. Ngược lại, thông tin do người mua cung cấp khi đó càng có tính rủi ro
cao, cần được thẩm tra kỹ lưỡng.
6. Phương pháp suy luận
a) Xây dựng pháp lý


×