Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ TĂNG CƯỜNG QUẢN lý NHÀ nước BẰNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH vực hải QUAN ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.51 KB, 114 trang )

6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật không có nghĩa là tuyệt
đối hoá quyền lực, bót nghẹt tính chủ động, sáng tạo, mà là đổi mới, làm cho
hợp lý hơn, từ đó tăng hơn sức mạnh, hiệu lực quản lý của bộ máy, nhân sự,
hiệu quả quản lý cao hơn, đúng định hướng và mục tiêu quản lý đã trù định
trước.
Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực hải quan
không nằm ngoài ý nghĩa trên, song trên thực tế vẫn còn tồn tại không ít vấn đề
cần phải được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Hiện nay, vấn đề tăng cường quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan là vấn
đề hết sức cấp bách, đặc biệt cần phải được quan tâm, coi trọng, đó là vì:
- Hiện nay, Đảng ta chủ trương chính sách “độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế”; chủ động hội nhập để phát
triển kinh tế, nhưng phải bảo vệ được lợi ích dân tộc, độc lập chủ quyền, an
ninh quốc gia và an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường; bảo
vệ và phát triển, giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam, giao lưu, hội nhập với các
nền văn hoá thế giới.
- Đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội…trên toàn cầu, ở từng khu vực “từng
ngày, từng giờ” thay đổi phức tạp, đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác,
thống nhất tiêu chuẩn pháp lý về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm
soát; phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng
hoá qua biên giới; phòng, chống các hoạt động vi phạm quyền sở hữu trí tuệ,
“rửa tiền”, buôn bán, vận chuyển ma tuý xuyên quốc gia…; giảm thiểu các
biện pháp kiểm soát bằng phi quan thuế, tiến tới thống nhất biểu thuế quan
chung.


7



- Xuyên suốt 30 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định: “Nhà nước ta là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân… Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi
công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”[20, tr.131-132]; tiếp
tục đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước thông qua các biện
pháp “tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có
hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu gây
phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh
nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển,…; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra
mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm
hàng giả, gian lận thương mại”[20, tr.101-102].
- Cải cách nền hành chính nhà nước là xu thế chung của các quốc gia
trên thế giới và ở Việt Nam, trong đó đòi hỏi phải cải cách, đổi mới cả thể chế,
bộ máy, các biện pháp đảm bảo thực hiện. Xây dựng một nền hành chính hiện
đại, trong sạch, vững mạnh, đơn giản, giảm thiểu phiền hà, tiêu cực, tham
nhũng; một nền “hành chính công” phải lấy mục tiêu, mục đích “phục vụ” là
chủ yếu.
- 30 năm qua, hệ thống pháp luật lĩnh vực hải quan mặc dù đã được phát
triển, củng cố, đổi mới; nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành, bổ sung,
sửa đổi. Song, bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn không ít hạn chế, tồn tại, như:
hệ thống pháp luật đồ sộ, tính ổn định kém, bất cập, nhiều quy định chưa rõ
ràng, ban hành chậm trễ; thiếu tính đồng bộ giữa pháp luật thủ tục và luật nội
dung; hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và rà soát, hệ thống hoá pháp
luật chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức, còn mang nặng tính tạm thời,
đối phó tình thế là chủ yếu… Việc tổ chức thực hiện và đảm bảo thực hiện
pháp luật bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn không ít khiếm khuyết,
yếu kém, chưa đạt yêu cầu, mục tiêu, mục đích, hiệu quả quản lý đặt ra.



8

Xuất phát từ những lý do trên đây, việc nghiên cứu đề tài: "Tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện
nay" là rất cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Ở Việt Nam trước đó, đã có một số công trình có đề cập đến quản lý nhà
nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan, như : “Hải quan trước yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nguyễn Đức Kiên-Tạp chí Lý
luận Chính trị số 7-2002; “Đặc thù của công tác hải quan ở nước ta hiện
nay”, Ths. Chu Văn Nhân-Tạp chí Lý luận Chính trị số 8-2002; “Một số vấn
đề về văn bản QPPL liên quan trực tiếp tới hoạt động quản lý Nhà nước về hải
quan”, Nguyễn Hữu Xuân-Tạp chí Nghiên cứu Hải quan số 3-2002… Tuy
nhiên, do mục đích nghiên cứu, những công trình này chỉ đề cập đến quản lý
Nhà nước bằng pháp luật ở một góc độ, khía cạnh nhất định, chưa có tính khái
quát, bao trùm.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ luật và với khả năng cho phép, tác
giả cố gắng nghiên cứu tổng quát hoạt động quản lý nhà nước lĩnh vực hải
quan từ khi đổi mới, hội nhập kinh tế đến nay(1986-2003); tập trung nghiên
cứu các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải
quan trên các mặt về hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo đảm thực hiện pháp
luật.
4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
- Về mục đích, luận văn có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của yêu cầu khách quan phải tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp chủ
yếu tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan hiện nay.
- Về nhiệm vụ, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau.



9

+ Phân tích cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh
vực hải quan, như: phân tích một số khái niệm liên quan, đặc điểm và nội
dung quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan.
+ Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng của quản lý nhà nước bằng pháp
luật lĩnh vực hải quan từ 1986 đến nay, rút ra các thành tựu, tồn tại và
nguyên nhân hạn chế.
+ Luận chứng yêu cầu khách quan tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật lĩnh vực hải quan.
+ Đề xuất, luận chứng quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật và các quan điểm có tính lý luận
của Đảng trong các đường lối, chủ trương đổi mới, thực hiện "đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế", xây dựng, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học MácLênin, như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp
phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể và một số phương pháp của các bộ
môn khoa học khác, như: phương pháp luật học so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp hệ thống, phương pháp của xã hội học...
6. Đóng góp mới của luận văn.
- Là luận văn lần đầu nghiên cứu có hệ thống những khái niệm liên
quan đến vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan;
phân tích đặc điểm, nội dung của quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh
vực hải quan.
- Phân đích, đánh giá, tổng kết thực trạng quản lý nhà nước bằng
pháp luật lĩnh vực hải quan từ năm 1986 đến nay.



10

- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà
nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn gồm: mở đầu, 3 chương 9 tiết, kết luận, mục lục, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT LĨNH VỰC HẢI QUAN
1.1. Các khái niệm liên quan đến quản lý nhà nước bằng pháp luật
lĩnh vực hải quan.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan vừa liên quan đến
những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học pháp lý, vừa là lĩnh vực QLNN
chuyên ngành-khoa học hải quan. Vì thế, nghiên cứu vấn đề tăng cường
QLNN bằng pháp luật lĩnh vực hải quan, về lý luận phải làm rõ các khái niệm,
phạm trù liên quan. Đó không chỉ là vấn đề nhận thức, mà còn có ý nghĩa
phương pháp luận để nghiên cứu những đặc điểm, nội dung QLNN bằng pháp
luật lĩnh vực hải quan, và đặc biệt là giúp cho việc đánh giá chính xác thực
trạng, đề xuất và luận chứng được với tính thuyết phục của các giải pháp tăng
cường lĩnh vực quản lý quan trọng này của Nhà nước.
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Quản lý là một khái niệm được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Theo
sách “Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng”, quản lý là “trông nom, sửa sang, sắp

đặt công việc”, trong đó “quản” là “coi sóc công việc”, “lý” là “sửa sang, sắp
đặt công việc”[67, tr.695].
Theo quan niệm của điều khiển học, quản lý là “điều khiển, chỉ đạo một
hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của
người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước”[82, tr.7].
Các Mác nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học-khi nghiên cứu những
vấn đề tổ chức quản lý xã hội, trước hết là quản lý lao động, đã chỉ rõ:
Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ


12

đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác
với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sỹ vĩ
cầm tự điều khiển mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng[47, tr.480].
Trong tiến trình phát triển của lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa
học quản lý đã xuất hiện những quan niệm khác nhau về quản lý, trong đó
quan niệm phổ biến của quản lý, ở đây quản lý xã hội “là sự tác động nhằm
điều khiển các quá trình xã hội, các hành vi và hoạt động của con người để
chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và đúng với ý chí
của chủ thể quản lý”.
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội, quản lý từng lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, do Nhà nước tiến hành, và quản lý chính việc tổ chức, hoạt
động của Nhà nước. Như thế, quản lý nhà nước chỉ xuất hiện khi Nhà nước
xuất hiện. Ph.Ăngghen, người bạn chiến đấu vĩ đại của Các Mác đã chỉ rõ bản
chất giai cấp, đặc trưng của QLNN. Theo Ông, quản lý nhà nước là quản lý xã

hội do giai cấp nắm quyền thống trị xã hội thực hiện thông qua Nhà nước của
nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng cách phân chia dân cư theo “địa vực”, trên
cơ sở thiết lập một “quyền lực công cộng” tách rời khỏi dân cư và bằng việc
đặt ra pháp luật, bắt buộc mọi tổ chức, mọi thành viên xã hội phải thi hành[46,
tr.178-251-253-254]. Trong nhiều tác phẩm khác, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề
ra những điều kiện của quản lý, trong đó, nhấn mạnh để quản lý phải có các
chuẩn mực pháp lý, bộ máy quản lý và một quyền uy nhất định đủ để buộc đối
tượng quản lý tuân theo ý chí được thể hiện trong các chuẩn mực pháp lý,
trong các quyết định quản lý cụ thể.
Từ các quan niệm trên, QLNN bằng pháp luật được hiểu “là quản lý xã
hội, do Nhà nước đại diện cho giai cấp thống trị xã hội tiến hành bằng công cụ
pháp luật với việc sử dụng kết hợp với các công cụ, phương pháp và bằng hình


13

thức khác nhau để tác động lên các quá trình xã hội, nhằm thiết lập, duy trì trật
tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị”.
1.1.2. Khái niệm hải quan.
Hải quan là một cụm từ tiếng Việt được tích hợp bởi hai từ “hải”, có
nghĩa là “biển” và từ “quan”, có nghĩa là “cửa ở biên giới”. Hải quan được
định nghĩa là “cửa biên giới một nước ở cạnh biển. Nay ta lại hiểu là “ THUẾ
QUAN”,

ở nơi cửa khẩu”[67, tr.355].

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, hải quan được hiểu là “công tác kiểm soát,
đánh thuế hàng hoá xuất nhập cảng: công tác hải quan”, hoặc là “cơ quan làm
công tác kiểm soát, đánh thuế hàng hoá xuất nhập cảng: trình báo đầy đủ giấy
tờ cho hải quan”[90, tr.771].

Theo Luật Hải quan ban hành ngày 29-6-2001, thì hải quan được hiểu là
một chính sách, chế độ, lĩnh vực hoạt động QLNN, là tên của một cơ quan nhà
nước:
- Hải quan, với tính cách là một chính sách được Nhà nước đề ra cho
phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Chính sách hải quan vừa phản
ánh đường lối chính trị, kinh tế, an ninh, đối ngoại của Đảng, vừa phục vụ và
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, góp phần tạo ra khuôn khổ pháp lý về hải
quan và tổ chức hoạt động hải quan, kế thừa và nhất quán chính sách của Nhà
nước ta về hải quan. Chính sách hải quan được thể hiện rõ ở mục đích ban
hành Luật Hải quan, được thể hiện trong lời nói đầu của Luật Hải quan, là “để
góp phần bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, khoa học và công nghệ; hợp tác và giao lưu quốc tế; bảo vệ
chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân”. Chính sách này gắn với đường lối công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, đảm bảo các quyền, lợi ích của các chủ thể, đối
tượng tham gia hoạt động hải quan trong quan hệ đối ứng, tương tác qua lại lẫn
nhau, quyền và lợi ích của các bên đều gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ phải


14

thực hiện; khẳng định rõ quan điểm của Nhà nước về hải quan không chỉ vì lợi
ích Nhà nước, mà chủ yếu “do dân, vì dân”…
Với nội dung trên, chính sách hải quan được thể chế hoá trong Luật Hải
quan, được Nhà nước coi như một “hiến chương” nhất quán, làm nền tảng
“kim chỉ nam” để xây dựng các chế độ quản lý về thủ tục hải quan, kiểm tra,
giám sát, kiểm soát hải quan, áp dụng PLHQ, áp dụng các nguyên tắc quản lý
hải quan hiện đại,… Hiến chương này được ghi nhận rõ tại Điều 1 Luật Hải
quan: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi
về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá

cảnh lãnh thổ Việt Nam”.
- Hải quan với tính cách là một cơ quan nhà nước-cơ quan Hải quan Việt
Nam, với các nhiệm vụ, quyền hạn: 1, kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương
tiện vận tải; 2, phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên
giới; 3, tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá XNK; 4, kiến
nghị chủ trương, biện pháp QLNN về hải quan đối với hoạt động XNK, XNC,
quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá XNK[58].
Những nhiệm vụ, quyền hạn trên của cơ quan Hải quan Việt Nam cũng
là những nhiệm vụ, quyền hạn mà hầu hết các Nhà nước, lãnh thổ tự trị trên thế
giới đều giao cho cơ quan Hải quan. Có thể nói, đây là những nhiệm vụ cơ
bản, chung nhất, thể hiện tính chất, đặc điểm hoạt động hải quan, gắn liền với
sự tồn tại, phát triển lực lượng Hải quan.
- Hải quan được hiểu là một chế độ QLNN, trong đó đối tượng quản lý
là “hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất
cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; về
tổ chức và hoạt động của Hải quan”[58]. Quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan,
dù bằng công cụ, phương thức nào đều nhằm đảm bảo cho các công việc: về
thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; kiểm tra thu thuế hàng hoá XNK;
phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm


15

pháp luật, thống kê hải quan được diễn ra đúng pháp luật, với sự tham gia của
các cấp, ngành, các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các tổ chức và cá nhân
công dân.
- Hải quan còn có thể được hiểu là một lĩnh vực quản lý của Nhà nước.
Để quản lý lĩnh vực hải quan, Nhà nước ban hành và thực hiện chính sách,
pháp luật, chế độ QLNN ở địa bàn hoạt động hải quan, bằng việc sử dụng các
công cụ, phương tiện có tính chất quan thuế như thuế XNK, thuế GTGT đối

với hàng hoá XNK,…hay phi quan thuế, như kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt
động XNK, quá cảnh hàng hoá và hoạt động XNC, quá cảnh phương tiện vận
tải, hành khách; kiểm tra, thu thuế hàng hoá XNK; phòng, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và gian lận thương mại…
1.1.3. Khái niệm hoạt động hải quan.
Hoạt động hải quan nhằm thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ
QLNN lĩnh vực hải quan. Hoạt động hải quan hiện nay gồm các hoạt động làm
thủ tục hải quan, kiểm tra, kiểm soát, giám sát, thu thuế đối với hàng hoá
XNK, quá cảnh, phương tiện vận tải XNC, quá cảnh và phòng, chống buôn
lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới được
tiến hành bởi Hải quan và cơ quan khác của Nhà nước được uỷ quyền, ở cửa
khẩu và ngoài cửa khẩu thuộc địa bàn hoạt động hải quan do pháp luật quy
định. Như thế, hoạt động hải quan luôn gắn liền với hoạt động XNK, quá cảnh
hàng hoá, XNC, quá cảnh phương tiện vận tải, bằng cách sử dụng các biện
pháp nghiệp vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Trong quan niệm trên về hoạt động hải quan có những khái niệm sau
cũng cần được làm rõ:
- Hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh. Theo Luật Hải
quan, hàng hoá và hàng hoá XNK, quá cảnh, gồm: “hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam của người xuất cảnh, nhập
cảnh; vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; kim


16

khí quí, đá quí, cổ vật, văn hoá phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan”. Hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh cũng theo Luật này bao gồm “tất cả động
sản có mã số và tên gọi theo quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan”. Điều này có

nghĩa là hàng hoá XNK, quá cảnh phải là loại đã được “mã số”, có tên trong
Danh mục hàng hoá XNK Việt Nam, là đối tượng(vật thể) phải làm TTHQ,
chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan.
- Hành lý, được hiểu là “đồ dùng mang theo khi đi đường”[90, tr.780].
Tuy vậy, hành lý của người XNC không chỉ là những đồ dùng mang theo khi
đi đường, mà còn là những hàng hoá, đồ dùng trong sinh hoạt, học tập, giải
trí…mang theo người để sử dụng trong thời gian lưu lại ở nước nhập cảnh
hoặc mang theo khi xuất cảnh đến một nước khác để tiếp tục sử dụng. Theo
Luật Hải quan, “hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh là vật dụng cần thiết
cho nhu cầu sinh hoạt hoặc mục đích chuyến đi của người xuất cảnh, nhập
cảnh, bao gồm hành lý mang theo người, hành lý gửi trước hoặc gửi sau
chuyến đi”. Hành lý phải là hàng hoá, vật dụng được phép XNK, lưu hành,
phải làm TTHQ, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan.
- Tài sản di chuyển. Theo Luật Hải quan, Tài sản di chuyển là đồ dùng,
vật dụng phục vụ sinh hoạt, làm việc của cá nhân, gia đình, tổ chức được mang
theo khi thôi cư trú, chấm dứt hoạt động ở Việt Nam hoặc nước ngoài. Tài sản
của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về định cư trong nước thì được miễn
thuế NK và không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Tài sản của tổ chức, cá
nhân Việt Nam đưa ra nước ngoài để kinh doanh, làm việc khi hết thời hạn trở
về nước được miễn thuế NK đối với những tài sản đưa ra nước ngoài, nay đưa
trở về nước. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép vào làm việc, công tác tại
Việt Nam, khi đưa tài sản trở về nước phải nộp thuế XNK phần vượt định mức
miễn thuế. Tài sản di chuyển phải là loại không thuộc Danh mục hàng hoá cấm


17

XK, cấm NK, cấm lưu thông, phải làm TTHQ, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm
soát hải quan.
- Xuất cảnh là “đi qua biên giới, ra khỏi lãnh thổ một nước”[90, tr.

1874]; nhập cảnh là “qua biên giới vào lãnh thổ nước khác của người, hàng
hoá theo thủ tục quy định của nước đó”[90, tr.1242]. Khác với “xuất cảnh,
nhập cảnh” của lĩnh vực an ninh, ngoại giao, giao thông vận tải, trong hoạt
động hải quan “xuất cảnh, nhập cảnh” được hiểu là hoạt động của cá nhân,
phương tiện vận tải XNC khi mang theo hoặc chuyên chở đối tượng(vật thể)
thuộc diện phải làm TTHQ, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan[58].
- Quá cảnh được hiểu là việc “vận chuyển hàng hoá, hành khách qua
một hay nhiều nước để tới nước khác trên cơ sở hiệp định đã kí giữa các nước
hữu quan”[90, tr.1357]. Theo Luật Hải quan, quá cảnh “là việc chuyển hàng
hoá, phương tiện vận tải từ một nước qua cửa khẩu vào lãnh thổ Việt Nam đến
một nước khác hoặc trở về nước đó”. Hàng hoá, phương tiện vận tải quá cảnh
Việt Nam phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép; vận chuyển, đi
đúng tuyến đường; không phải kiểm tra thực tế(trừ khi vi phạm pháp luật),
nhưng phải khai báo hải quan, chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan
đến khi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
- Phương tiện vận tải, theo Luật Hải quan, bao gồm “phương tiện vận tải
đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển, đường sông xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh”. Ngoài ra, vận tải hàng hoá XNK, quá cảnh còn sử dụng
nhiều phương tiện khác, như: ống dẫn chất lỏng, khí, dây dẫn kim loại, cáp
quang,…
- Vật dụng trên phương tiện vận tải, theo Luật Hải quan bao gồm “tài
sản sử dụng trên phương tiện vận tải; nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ hoạt
động của phương tiện vận tải; lương thực, thực phẩm và các đồ dùng khác trực
tiếp phục vụ sinh hoạt của người làm việc và hành khách trên phương tiện vận
tải”. Vật dụng trên phương tiện vận tải khi nhập cảnh không phải làm TTHQ,


18

nhưng phải chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan khi vào khu vực địa

bàn hoạt động hải quan và cho đến khi xuất cảnh khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Phương tiện vận tải nhập cảnh khi còn lưu lại, đậu, đỗ ở Việt Nam được mua
sắm, bổ sung vật dụng, được miễn thuế XNK, và phải làm TTHQ.
- Người khai hải quan; khai ở đây được hiểu là “cho biết hoặc làm cho
biết”; khai báo là “khai với nhà chức trách những việc có liên quan tới mình
hoặc mình biết được”[90, tr.884]. Không giống với việc khai báo cư trú, khai
báo trong ngăn chặn hành chính, hình sự, “khai hải quan” là hoạt động khai
báo với cơ quan hải quan về hàng hoá, phương tiện vận tải được dùng để XNK
hoặc XNC, quá cảnh. Khai hải quan được tiến hành bởi “người khai hải quan”.
“Người khai hải quan bao gồm chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải hoặc
người được chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải uỷ quyền”[58]. Điều này có
nghĩa là khai hải quan được tiến hành bởi chủ sở hữu hợp pháp đối với hàng
hoá XNK, chủ phương tiện vận tải có thể là chủ sở hữu hợp pháp, người điều
khiển hoặc lái phương tiện vận tải, hoặc người được chủ sở hữu hàng hoá, chủ
phương tiện vận tải hàng hoá uỷ quyền hợp pháp để thay mặt họ khai báo, làm
TTHQ trong phạm vi được uỷ quyền. Khai hải quan có thể thực hiện bằng tờ
khai(chất liệu bằng giấy) hoặc khai bằng phương tiện điện tử(khai qua mạng
máy vi tính).
- Người đại lý làm thủ tục hải quan. Đại lý được hiểu là “nơi mua bán
giao dịch hoặc xử lý công việc theo uỷ thác của đơn vị sản xuất, thương
nghiệp”[90, tr.578]. Theo Luật Hải quan, “người đại lý làm thủ tục hải quan là
người khai hải quan theo uỷ quyền của người có quyền và nghĩa vụ trong việc
làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu”. Điều này có
nghĩa là “đại lý làm thủ tục hải quan” là người được chủ sở hữu hàng hoá
XNK(kể cả người được uỷ thác) uỷ quyền làm TTHQ, thực hiện quyền, nghĩa
vụ, các công việc khai, ký tờ khai, công việc khác của TTHQ theo hợp đồng uỷ
quyền; chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi được uỷ quyền về các


19


nghĩa vụ của người khai hải quan; yêu cầu chủ sở hữu hàng hoá cung cấp đầy
đủ, chính xác chứng từ, thông tin cần cho việc làm TTHQ, và đòi bồi thường
thiệt hại, các chi phí phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng đại lý của chủ
hàng gây ra. Người chủ hàng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung
thực của bộ chứng từ, thông tin về hàng hoá đã cung cấp cho người đại lý, mặt
khác, người đại lý phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, người chủ sở hữu
hàng hoá về hành vi vi phạm pháp luật do lạm dụng hợp đồng uỷ quyền.
- Thủ tục hải quan. Trong quản lý nhà nước, “thủ tục” được hiểu là
“cách thức tiến hành một công việc với nội dung, trình tự nhất định theo quy
định của cơ quan nhà nước”[90, tr.1596]. Theo Luật Hải quan, “thủ tục hải
quan là các công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực
hiện” trong mối quan hệ đối ứng quyền, nghĩa vụ giữa Nhà nước với pháp
nhân, công dân. Người khai hải quan(pháp nhân, công dân) phải khai và nộp tờ
khai hải quan; nộp hoặc xuất trình chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; đưa hàng
hoá, phương tiện vận tải đến địa điểm được quy định cho việc kiểm tra thực tế
hàng hoá, phương tiện vận tải; nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính
khác theo quy định của pháp luật. Công chức hải quan(Nhà nước) phải tiếp
nhận và đăng ký hồ sơ hải quan; kiểm tra hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế
hàng hoá, phương tiện vận tải; thu thuế và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật; quyết định việc thông quan hàng hoá, phương tiện vận tải. Thủ
tục hải quan được tiến hành đơn giản, công khai, nhanh chóng, thuận tiện, theo
đúng quy định của pháp luật. Thủ tục hải quan có thể bị tạm dừng khi có yêu
cầu tạm dừng XNK, quá cảnh hàng hoá mà bị cho là đã vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ hợp pháp, nhưng phải theo đúng quy định của pháp luật và người yêu
cầu phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi đưa ra yêu cầu này.
- Kiểm tra hải quan. Kiểm tra được hiểu là “xem xét thực chất, thực tế”
một sự việc, sự vật nào đó[90, tr.937]. Kiểm tra hải quan không đồng nghĩa với
kiểm tra công việc của cấp trên đối với cấp dưới, kiểm tra “chéo” cùng cấp



20

hoặc khám xét-một biện pháp ngăn chặn hành chính, hình sự. “Kiểm tra hải
quan”, theo Luật Hải quan là “việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng từ liên
quan và kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải do cơ quan hải quan
thực hiện” hoặc do cơ quan được pháp luật uỷ quyền thực hiện để đánh giá sự
tuân thủ PLHQ của pháp nhân, công dân thực hiện XNK, XNC, quá cảnh hàng
hoá, phương tiện vận tải. Kiểm tra hồ sơ hải quan, chứng từ liên quan để xem
xét tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ, chứng từ, quyết định đăng ký hoặc từ chối
đăng ký hồ sơ hải quan. Kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải là việc
đối chiếu giữa nội dung khai hải quan với hiện hữu thực tế hàng hoá, phương
tiện vận tải. Kiểm tra thực tế hàng hoá có thể theo tỷ lệ hàng hoá từ 1%-10%,
kiểm tra 100% hoặc miễn kiểm tra thực tế, căn cứ vào tình hình chấp hành
pháp luật của chủ hàng, chính sách mặt hàng hoặc danh mục mặt hàng được
Nhà nước quy định miễn kiểm tra; hàng hoá của đối tượng miễn khai, miễn
kiểm tra. Kiểm tra hải quan được tiến hành với sự chứng kiến của chủ hàng
hoặc đại diện hợp pháp của chủ hàng hoặc có thể kiểm tra vắng mặt chủ hàng
hoá khi cần thiết để đảm bảo an ninh, môi trường, dịch bệnh với sự chứng kiến
của đại diện vận tải, đại diện của UBND xã, phường, thị trấn nơi gần nhất.
Kiểm tra hải quan được thực hiện theo phương châm “giảm tiền kiểm, tăng hậu
kiểm”, đảm bảo hàng hoá, phương tiện vận tải thông quan nhanh nhất trong
thời hạn quy định cho từng loại hình XNK, XNC, quá cảnh.
- Giám sát hải quan. Giám sát được hiểu là “theo dõi, kiểm tra việc thực
thi nhiệm vụ”[90, tr.728]. Giám sát hải quan không giống giám sát của Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoặc giám sát của
Viện kiểm sát nhân dân. “Giám sát hải quan là biện pháp nghiệp vụ do cơ
quan hải quan áp dụng để bảo đảm sự nguyên trạng của hàng hoá, phương tiện
vận tải đang thuộc đối tượng quản lý hải quan”[58]. Giám sát hải quan được
thực hiện trực tiếp bởi cán bộ, công chức hải quan hoặc gián tiếp như: niêm

phong, kẹp chì hải quan(customs seal), dán tem, dùng máy soi, máy ngửi,


21

camera để quan sát, xem xét, theo dõi hoặc dùng súc vật được huấn luyện để
dò tìm… Giám sát hải quan có mục tiêu giảm sự giám sát trực tiếp, tăng giám
sát gián tiếp bằng sử dụng công cụ, phương tiện kỹ thuật, súc vật…
- Kiểm soát hải quan. Kiểm soát theo nghĩa chung là “kiểm tra, xem xét
nhằm ngăn ngừa những sai phạm các quy định”[90, tr.937]. Không giống như
kiểm soát giao thông, kiểm soát không lưu, không phận hoặc kiểm soát dịch
bệnh, “kiểm soát hải quan là các biện pháp tuần tra, điều tra hoặc biện pháp
nghiệp vụ khác do cơ quan hải quan áp dụng để phòng, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật
hải quan”[58]. Kiểm soát hải quan được sử dụng các công cụ, phương tiện, kỹ
thuật, nghiệp vụ, vũ khí hỗ trợ, có thể được tiến hành công khai hoặc bí mật
hoặc được tiến hành bằng các nghiệp vụ trinh sát theo quy định của pháp luật.
Kiểm soát hải quan có thể do cơ quan hải quan độc lập hoặc phối hợp với các
cơ quan chức năng của Nhà nước tiến hành trong hoặc ngoài địa bàn hoạt động
hải quan theo quy định của pháp luật.
- Hồ sơ hải quan. “Hồ sơ” nói chung được hiểu là “tài liệu có liên quan
tới một người, một vụ việc được tập hợp lại một cách hệ thống”[90, tr.834].
Tài liệu trong hồ sơ có thể là các chứng từ bằng giấy, băng, đĩa từ, đĩa quang…
trong đó ghi chép, viết, mô tả lại lai lịch, sự việc hoặc là quy trình, bản hướng
dẫn,v.v… Hồ sơ hải quan gồm các tài liệu chính, như: tờ khai hải quan; hoá
đơn thương mại; hợp đồng mua bán hàng hoá; giấy phép của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với hàng hoá XNK, quá cảnh, phương tiện vận tải XNC,
quá cảnh mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép; các chứng từ khác
theo quy định của pháp luật đối với từng mặt hàng mà người khai hải quan
phải nộp hoặc xuất trình cho cơ quan hải quan. Hồ sơ hải quan phải được nộp

hoặc xuất trình cho cơ quan hải quan tại trụ sở Hải quan. Trong những trường
hợp nhất định, có thể được chậm nộp một số chứng từ, giấy tờ thuộc hồ sơ hải
quan, nếu có sự đồng ý của những người có thẩm quyền của cơ quan hải quan.


22

- Thông quan; “thông” có nghĩa là “nối liền nhau, xuyên suốt, không tắc,
không bị ngăn cách, cản trở”[90, tr.1585]; “quan” là “cửa ở biên giới”[67,
tr.355]. Theo Luật Hải quan, “thông quan là việc cơ quan hải quan quyết định
hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải được xuất cảnh, nhập
cảnh”. Thông quan được thực hiện dựa trên cơ sở: 1, “khai báo của người khai
hải quan hoặc kết luận của cơ quan kiểm tra nhà nước, tổ chức giám định đối
với hàng hoá miễn kiểm tra thực tế”; 2, “kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa của
cơ quan hải quan đối với hàng hoá phải kiểm tra thực tế”; 3,“giấy xác nhận
đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa của tổ chức giám định hoặc
thông báo miễn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá do cơ quan QLNN
có thẩm quyền cấp đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc diện phải kiểm tra nhà
nước về chất lượng hàng hoá”; 4, “kết quả giám định đối với hàng hóa có yêu
cầu giám định”; 5, “xác nhận của cơ quan hải quan trên tờ khai về kết quả
kiểm tra thực tế hàng hóa” đối với “hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu không
thuộc diện chịu các loại thuế do cơ quan hải quan thu, hàng được miễn thuế,
hàng gia công, hàng đặc biệt khác”; 6, “sau khi người khai hải quan đã nộp
thuế” đối với “hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện có thuế”; 7, “sau khi
cơ quan hải quan ra thông báo thuế’ đối với “hàng hóa có thời gian ân hạn nộp
thuế”[58].
- Kiểm tra sau thông quan. Nghị định số 102/2001/NĐ-CP ngày 31-122001 của Chính phủ quy định chi tiết về kiểm tra sau thông quan đối với hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu, định nghĩa: “Kiểm tra sau thông quan là hoạt động
kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm thẩm định tính chính xác, trung thực của
nội dung các chứng từ mà chủ hàng hoá hoặc người được ủy quyền, tổ chức, cá

nhân trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu(…) đã khai, nộp, xuất trình với cơ quan
hải quan, để ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, gian lận
thuế, vi phạm chính sách quản lý xuất nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu đã được thông quan”. Kiểm tra sau thông quan được áp dụng khi


23

“phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu đã được thông quan”; “trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu được thông quan”. Kiểm tra sau thông quan do “công
chức hải quan trực tiếp kiểm tra sổ sách, chứng từ kế toán và các chứng từ
khác có liên quan đến lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan tại
doanh nghiệp để đối chiếu với tờ khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải
quan; trong trường hợp cần thiết và còn điều kiện thì kiểm tra thực tế hàng
hoá”. Trong khi kiểm tra “các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan tạo
điều kiện, cung cấp chứng từ kế toán, các thông tin, tài liệu cần thiết phục vụ
cho việc kiểm tra của cơ quan hải quan” theo yêu cầu của cơ quan hải quan.
- Công chức hải quan. Công chức được hiểu là “người làm việc hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, trong cơ quan nhà nước”[90, tr.454]. Theo Pháp
lệnh Cán bộ, công chức(1998), công chức là công dân Việt Nam, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, là công bộc của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học
tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ
được giao. Theo Luật Hải quan, công chức hải quan “là người được tuyển
dụng, đào tạo và sử dụng theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức”,
“phải có phẩm chất chính trị tốt, thực hiện nhiệm vụ đúng quy định của pháp
luật, trung thực, liêm khiết, có tính kỷ luật, thái độ văn minh, lịch sự, nghiêm
chỉnh chấp hành quyết định điều động và phân công công tác”. Như vậy, công
chức hải quan, vừa phải là người có đủ tiêu chuẩn công chức, vừa phải hội đủ

phẩm chất, yêu cầu mang tính chất đặc thù riêng có của Hải quan.
Với quan niệm trên, hải quan và hoạt động hải quan đã hình thành, phát
triển rất sớm, gắn với nền sản xuất hàng hoá và tình trạng xã hội bị phân chia
thành các giai cấp đối lập và Nhà nước. Trong cơ cấu giai cấp-xã hội thời kỳ
này đã xuất hiện tầng lớp “thương nhân” chuyên làm nhiệm vụ trao đổi, mua
bán hàng hoá, đồ vật để kiếm lời[46, tr.246], đồng thời cũng xuất hiện hoạt


24

động hải quan và cơ quan hải quan để bảo vệ thương nhân và thu thuế. Lịch sử
cho thấy, hoạt động hải quan xuất hiện ở Ai Cập và ở Lưỡng Hà từ trước thiên
niên kỷ thứ 2(trước công nguyên). Khi đó, ở Ai Cập, Nhà nước đã thiết lập các
“điểm kiểm tra nằm ở vị trí các thác, nơi hoang mạc chấm dứt, dưới chân sườn
núi ven sông Nil”. Dưới triều vua Khasékhemoui và Snéfrou, “Eléphantine đã
trở thành trạm thu thuế hải quan trong nền thương mại với phương Nam”[24,
tr.734], và “Dưới vương triều thứ VI, tại Kerna trên thác thứ ba, người ta xây
dựng một pháo đài và một đồn hải quan mới”[24, tr.734-735]. Ở Hi lạp, La Mã
thời kỳ cổ đại và phong kiến, lúc đầu hoạt động của Hải quan chỉ để thu tiền
cho ngân sách nhà nước là chủ yếu. Khi nhà nước phong kiến được thay bằng
các nhà nước tư bản, phát triển kinh tế hàng hoá, thị trường, bên cạnh chức
năng thu thuế truyền thống, Hải quan được giao nhiều chức năng mới, quan
trọng nhất là “bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích tư bản dân tộc”. Ở
Châu Âu, quá trình phát triển kinh tế và liên kết kinh tế giữa các nước, hình
thức liên minh thuế quan đã ra đời. “Các liên minh thuế quan này đóng vai trò
quan trọng trong việc thống nhất các thành bang thành một quốc gia thống
nhất, như Liên minh thuế quan Đức thời kỳ 1841-1888”[33, tr.193]. Hoạt động
thương mại, toàn cầu hoá kinh tế và giao lưu quốc tế ngày càng phát triển, gia
tăng mạnh mẽ, các quốc gia và lãnh thổ trên thế giới đã tìm cách hợp tác với
nhau, nhằm tiêu chuẩn hoá, đơn giản hoá và thống nhất hoá các thủ tục, luật lệ

hải quan, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, đồng thời, đạt hiệu quả cao
hơn trong phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép
hàng hoá qua biên giới; bảo vệ, phòng, chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Đáp ứng yêu cầu thực tế này, năm 1950, Hội đồng hợp tác Hải quan(nay là Tổ
chức Hải quan thế giới-WCO) được thành lập. Trước năm 1991, các nước khối
XHCN tiến hành hợp tác kinh tế và hải quan trên cơ sở Hội đồng tương trợ
kinh tế(COMECON). Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều tổ chức kinh tế
quốc tế, thực chất là các liên minh thuế quan do các Nhà nước lập ra để hợp


25

tác, thống nhất thị trường sản xuất, tiêu thụ hàng hoá giữa các nước thành viên,
đồng thời, đối phó với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với các nước khác bên
ngoài và các tổ chức kinh tế quốc tế khác trên thị trường quốc tế. Các tổ chức
kinh tế quốc tế hoặc các liên minh thuế quan lớn nhất, nổi tiếng nhất trên thế
giới đã và đang có ảnh hưởng quyết định nền kinh tế toàn cầu là Tổ chức
thương mại thế giới(WTO), Khu vực thưong mại tự do Bắc Mỹ(NAFTA),
Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu Âu(EFTA), Diễn đàn các nước Châu Á-Thái
Bình Dương(APEC), Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định
về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung(CEPT)…[28].
Ở Việt Nam, hải quan và hoạt động hải quan có lịch sử phát triển tương
đối sớm. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19, các triều đại phong kiến Việt Nam đã
thực hiện kiểm soát, thu thuế đối với hàng hoá XNK và lập ra các trạm hải
quan, cử các chức quan chuyên trách, trong đó, các trạm nổi tiếng và quan
trọng nhất là Vân Đồn còn gọi là “Thông mậu trường”(ở Hồng Gai, Quảng
Ninh ngày nay), Phố Hiến(Hưng Yên), Phố Hội An(Quảng Nam)…; Nhà hậu
Lê lập ra “Đề bạc ty”, “quan Sát hải sứ”, “quan trấn thủ” và “An phủ ty”; Chúa
Nguyễn ở Đàng trong lập ra “Tàu ty”; Nhà Nguyễn lập hẳn một bộ máy “Thuế
binh”, để cấp giấy phép, làm thủ tục, kiểm tra, kiểm soát, thu thuế đối với hàng

hoá XNK, phòng, chống buôn lậu. Các Bộ luật, lệ của các triều đại phong kiến
Việt Nam, như “Quốc triều hình luật”(Bộ Luật Hồng đức) thời hậu Lê, “Lệ tàu
vụ” của Chúa Nguyễn, “Luật lệ của Đế chế Hoàng Việt”(còn gọi là Bộ luật Gia
Long hay Hoàng Việt Luật lệ) của triều Nguyễn đều có các điều, khoản quy
định về bộ máy QLNN, các thủ tục khai báo, kiểm tra, kiểm soát hàng hoá
XNK, thu thuế và phòng, chống buôn lậu, xử lý nghiêm khắc bằng chế tài hình
luật các hành vi vi phạm.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 10-9-1945, Chủ
tịch Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 26/SL giữ nguyên những luật lệ cũ về
thuế quan và thuế gián thu, và cùng ngày ra Sắc lệnh số 27/SL thành lập “Sở


26

Thuế quan và Thuế gián thu”(thuộc Bộ Tài chính)-tiền thân của Hải quan Việt
Nam ngày nay. Trong kháng chiến chống Pháp(1946-1954), nhiệm vụ chủ yếu
của ngành Thuế quan là “bao vây kinh tế địch, kiểm soát việc trao đổi hàng
hoá giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm, chống buôn lậu xa xỉ phẩm ngoại hoá
và tích cực thu thuế nhập nội, đánh thuế gián thu vào một số hàng hoá lưu
thông ở vùng tự do”[33, tr.193]. Hoà bình lập lại(1954), theo Nghị định số
136/BCT-KB-NĐ ngày 14-12-1954 của Bộ trưởng Bộ Công thương, Sở Thuế
quan và Thuế gián thu được đổi thành “Sở Hải quan” thuộc Bộ Công thương.
Điều lệ Hải quan được ban hành kèm theo Nghị định số 3/CP của Hội đồng
Chính phủ ngày 27-2-1960. Năm 1984, Tổng cục Hải quan được thành lập trực
thuộc Hội đồng Bộ trưởng(nay là Chính phủ) theo Nghị quyết số 547NQ/HĐNN7 ngày 30-8-1984 của Hội đồng Nhà nước. Ngày 20-2-1990 Pháp
lệnh Hải quan được ban hành thay thế Điều lệ Hải quan, từ đây, hoạt động hải
quan bắt đầu được luật hoá. Tháng 7-1993, Hải quan Việt Nam là thành viên
chính thức của Tổ chức Hải quan Thế giới, và trong khuôn khổ của tổ chức này
đã có nhiều hoạt động mang lại kết quả thiết thực. Ngày 29-6-2001, Quốc hội
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ban hành Luật Hải quan thay thế Pháp lệnh

Hải quan, và có hiệu lực từ ngày 01-1-2002. Chính sách hải quan từ chỗ “thực
hiện chính sách độc quyền ngoại thương” của Nhà nước, chuyển sang thực
hiện chính sách “tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh”
phục vụ công cuộc đổi mới, cải cách hành chính, mở cửa, hội nhập, tham gia
toàn cầu hoá kinh tế của Nhà nước ta.
1.2.Đặc điểm, nội dung của quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh
vực hải quan.
1.2.1.Đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải
quan.


27

Quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực hải quan có những đặc điểm
của QLNN bằng pháp luật nói chung, song cũng có những đặc điểm riêng, do
tính chất đặc thù của lĩnh vực hải quan quy định. Đó là những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Đặc điểm của công cụ quản lý.
Quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan sử dụng pháp luật như là một công
cụ chủ yếu. Pháp luật này tồn tại dưới hình thức một hệ thống được hình thành
từ nhiều cấp, nhiều ngành, về nhiều lĩnh vực, bao gồm các “luật thủ tục” và
“luật nội dung” với hai bộ phận cơ bản là hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh trực tiếp các hoạt động hải quan(luật thủ tục) và hệ thống quy
phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động hải quan, do các cơ quan nhà
nước hữu quan ban hành(luật nội dung).
-Về luật thủ tục. Luật này là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định
thủ tục, trình tự tổ chức triển khai, thực hiện các hoạt động hải quan. Về nội
dung, luật thủ tục gồm các quy định về trình tự tiến hành các công việc, biện
pháp nghiệp vụ làm thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan; về
các loại hình XNK, XNC, quá cảnh chịu sự quản lý hải quan; về quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm của các chủ thể, đối tượng quản lý trong hoạt động hải quan;

về nguyên tắc, hệ thống, tổ chức, bộ máy hoạt động hải quan; về địa bàn hoạt
động hải quan; về tổ chức phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước liên quan trong hoạt động hải quan; về chế độ, thủ tục thanh tra,
kiểm tra trong QLNN lĩnh vực hải quan; về thẩm quyền xử lý, các hành vi vi
phạm PLHQ, mức xử phạt áp dụng, trình tự, thủ tục xử lý, khiếu nại, tố cáo và
giải quyết khiếu nại tố cáo vi phạm PLHQ,v.v…
-Về luật nội dung. Luật này là hệ thống các văn bản QPPL quy định về
chế độ, chính sách quản lý, điều hành hoạt động XNK, quá cảnh hàng hoá; về
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các loại pháp nhân, cá nhân thuộc các thành
phần kinh tế kinh doanh XNK; về thẩm quyền QLNN đối với các pháp nhân,


28

cá nhân kinh doanh XNK, quá cảnh; về chế độ kinh doanh XNK, tạm nhập-tái
xuất, tạm xuất-tái nhập, quá cảnh, chuyển cửa khẩu, chuyển cảng…; về các
loại hàng hoá được XNK, quá cảnh theo loại hình mậu dịch-loại có hợp đồng
ngoại thương và phi mậu dịch-loại không có hợp đồng(quà biếu, tặng, cho,
hành lý, tài sản di chuyển, thừa kế, hàng hoá trao đổi cư dân biên giới, hàng là
phế liệu, phế phẩm của các hợp đồng gia công nước ngoài,v.v.); về danh mục
hàng hoá cấm XK, cấm NK, hàng hoá XNK phải có cô-ta(hạn ngạch), giấy
phép, kinh doanh có điều kiện, phải được giám định Nhà nước trước khi XNK,
hàng hoá thuộc diện quản lý chuyên ngành; quy định trách nhiệm, nghĩa vụ
của doanh nghiệp, cá nhân khi XNK, quá cảnh phải nộp các loại thuế và các
khoản tài chính(phụ thu, lệ phí) vào ngân sách nhà nước; Biểu thuế-danh mục
hàng hoá phải chịu các sắc thuế khi XNK và thuế suất các loại: thông thường,
ưu đãi phổ cập, ưu đãi đặc biệt; danh mục hàng hoá không thuộc đối tượng
chịu thuế, được miễn các loại thuế XNK; danh mục hàng hoá áp dụng giá tối
thiểu; danh mục hàng hoá áp dụng thuế hạn ngạch, thuế tuyệt đối; quy định

phương pháp xác định trị giá hàng hoá XNK,v.v…
Thứ hai: Đặc điểm về đối tượng quản lý.
Đối tượng quản lý của QLNN bằng pháp luật lĩnh vực hải quan, gồm cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, cá nhân có trách nhiệm thực hiện pháp luật hải
quan hoặc tham gia hoạt động XNK, XNC, quá cảnh. Đối tượng này rất đa
dạng, phong phú. Theo Luật Hải quan, đối tượng quản lý, gồm các “tổ chức, cá
nhân thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hoá, xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh, phương tiện vận tải”, “cơ quan hải quan, công chức hải quan”,
“cơ quan khác của Nhà nước trong việc phối hợp quản lý nhà nước về hải
quan”. Tổ chức, cá nhân, khi thực hiện hành vi XNK, XNC, quá cảnh, phải
tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về thủ tục và nội dung, bị xử lý bằng các hình
thức chế tài nếu vi phạm PLHQ. Cơ quan hải quan, công chức hải quan-là đối
tượng quản lý của cơ quan nhà nước cấp trên, của cơ quan quản lý theo chuyên


29

ngành dọc ở những lĩnh vực quản lý chuyên ngành liên quan, phải chịu sự
quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực ở Trung ương và địa
phương, nơi có địa bàn hoạt động hải quan. Những đối tượng này phải định kỳ
hoặc đột xuất báo cáo tình hình hoạt động của Ngành với Bộ trưởng Bộ Tài
chính, báo cáo số liệu thống kê hải quan về Bộ Thương mại, Tổng cục Thống
kê, báo cáo công tác hải quan trước Hội đồng nhân dân địa phương, chịu sự
giám sát của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận và đoàn
thể ở địa phương…
Trong các đối tượng quản lý của QLNN bằng pháp luật lĩnh vực hải
quan có đối tượng quản lý đặc thù là cơ quan hải quan cấp dưới chịu sự quản
lý, điều hành duy nhất của hệ thống cơ quan hải quan cấp trên theo ngành dọc,
trên cơ sở nguyên tắc “tập trung thống nhất” về pháp luật, chỉ đạo nghiệp vụ,
không bị lệ thuộc vào chính quyền các cấp ở địa phương. Các cơ quan khác

của Nhà nước gồm: Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Cảnh sát kinh tế, Kiểm
dịch y tế, Kiểm dịch động vật-thực vật, Kiểm tra văn hoá, Ngân hàng, Kho
bạc…là đối tượng quản lý khi thực hiện chức năng phối hợp hoạt động, và
cũng như hệ thống tổ chức hải quan, phải chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát
của các chủ thể quản lý có thẩm quyền.
Thứ ba: Đặc điểm về không gian-“lãnh thổ hải quan”, nơi tổ chức thực
hiện pháp luật hải quan.
Ở góc độ chung nhất, xuất phát từ chủ quyền quốc gia, hệ thống pháp
luật Việt Nam có giá trị hiệu lực thi hành trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Trong lĩnh vực hải quan điều này có đặc thù ở chỗ là hiệu lực không gian áp
dụng pháp luật đã bị phụ thuộc vào phạm vi, địa bàn tổ chức thực hiện QLNN.
Cũng như pháp luật lĩnh vực biên phòng, cảnh sát biển, kiểm dịch biên giới,
pháp luật hải quan chỉ được thực hiện, áp dụng ở một số phạm vi lãnh thổ, có
ranh giới nhất định, và chỉ ở một số vùng, miền nhất định, gọi là “địa bàn hoạt
động hải quan” hoặc “lãnh thổ hải quan”.


30

Lãnh thổ hải quan là những khu vực hoạt động hải quan ở trong và ngoài
lãnh thổ Việt Nam. Tại lãnh thổ hải quan, cơ quan hải quan “toàn quyền” tổ
chức kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với các hoạt động XNK, XNC, quá cảnh
hàng hoá, phương tiện vận tải. Lãnh thổ hải quan được Luật Hải quan xác định
trong phạm vi các khu vực địa lý nhất định, “bao gồm các khu vực cửa khẩu
đường bộ, ga đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế,
cảng hàng không dân dụng quốc tế, các địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài
cửa khẩu, khu chế xuất, kho ngoại quan, kho bảo thuế, khu vực ưu đãi hải
quan, bưu điện quốc tế, các địa điểm kiểm tra hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
trong lãnh thổ và vùng biển thực hiện quyền chủ quyền của Việt Nam, trụ sở
doanh nghiệp khi tiến hành kiểm tra sau thông quan và các địa bàn khác theo

quy định của pháp luật”. Nghị định số 107/2002/NĐ-CP ngày 23-12-2002 của
Chính phủ quy định cụ thể lãnh thổ hải quan là phạm vi địa bàn hoạt động hải
quan xác định, gồm: khu vực cảng biển; khu vực ga hàng không dân dụng
quốc tế; khu vực ga đường sắt liên vận quốc tế; bưu điện quốc tế; khu vực cửa
khẩu đường bộ; khu vực cảng sông quốc tế… Ngoài ra, lãnh thổ hải quan còn
là các “khu vực ưu đãi hải quan”, “các địa bàn hoạt động hải quan khác theo
quy định của pháp luật”. Khu vực ưu đãi hải quan-thực chất là các khu vực
được ưu đãi về thủ tục hải quan theo pháp luật quy định, như: khu vực tự do
thương mại, các khu vực kinh tế cửa khẩu, các khu kinh tế mở, khu chế xuất…,
chẳng hạn: Khu kinh tế thương mại Lao Bảo tỉnh Quảng Trị, Khu kinh tế cửa
khẩu Móng Cái tỉnh Quảng Ninh, Khu kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam,
Khu chế xuất Linh Trung tỉnh Đồng Nai,… Địa bàn hoạt động hải quan khácđược hiểu là những địa bàn, khi phát triển, hội nhập kinh tế, sẽ tạo lên nhiều
mô hình thương mại mới, sẽ được quản lý kịp thời, không cần phải bổ sung
Luật, là cơ sở pháp lý để ban hành các quy định điều chỉnh thích hợp.
Thứ tư: Đặc điểm về mục đích quản lý.


×