Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phương pháp dậy Tiếng Anh hiệu quả nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.36 KB, 10 trang )

Phương pháp dạy học môn Tiếng Anh THCS (ELT Methodology - Middle
Schools)
Đăng ký nhận thông tin về bài đăng
Dạy Ngữ pháp cho học sinh
đăng 09:58 21-03-2009 bởi Chien Nguyen Danh [ đã cập nhật 10:01 21-03-2009 ]
Phần cuối cùng của mỗi đơn vị bài học là phần Language Focus, nhằm giúp hệ thống hoá, củng cố và
luyện tập sử dụng các chức năng ngôn ngữ, các điểm ngữ pháp và từ vựng đã xuất hiện trong các bài đã
học. Tuỳ theo nội dung từng bài tập, giáo viên có thể lựa chọn những loại bài để học sinh thực hiện trên lớp
hay hướng dẫn cho các em về làm tại nhà. Tuy nhiên, phần hệ thống hoá, củng cố và chữa bài là khâu quan
trọng. Qua những bài tập này, giáo viên có thể rút ra được những mặt mạnh và mặt yếu của học sinh và có
kế hoạch củng cố, bồi dưỡng thêm cho các em.
Khi thực hiện các bài tập ở phần này, cần cho học sinh liên hệ lại những tình huống hay ngữ cảnh mà các
mục ngữ pháp, hay chức năng ngôn ngữ này đã được xuất hiện trong các mục trước của bài học để qua đó có
thể làm rõ ý nghĩa các ngữ liệu đó và hệ thống hoá được tốt hơn. Đây là lúc giáo viên có thể giải thích, tóm tắt hay
chốt lại các điểm ngữ pháp đã xuất hiện trong bài một cách kỹ lưỡng hơn.

Giới thiệu cấu trúc ngữ pháp
Đầu tiên GV giới thiệu bằng lời cấu trúc mới rồi ghi lên bảng. Cấu trúc ngữ pháp đó phải nằm trong ngữ
cảnh. Cách đơn giản nhất để trình bày một cấu trúc là chỉ ra một cách trực tiếp, sử dụng các vật thể mà HS
có thể nhìn thấy trong và ngoài lớp, tranh ảnh, hình vẽ minh hoạ, bản đồ, biểu bảng, bản thân GV và HS
hoặc bằng hành động.
Một cách khác để chỉ ra ý nghĩa của một cấu trúc là đặt ra một tình huống ở trong và ngoài lớp mà trong
đó cấu trúc đó có thể sử dụng một cách tự nhiên. Tình huống có thể có thực, tưởng tượng hoặc sáng tạo.
Việc kết hợp các thủ pháp khác nhau là cần thiết trong việc chỉ ra ý nghĩa của một cấu trúc mới bởi HS có
nhiều có nhiều cơ hội để tiếp thu nó một cách trọn vẹn hơn. Bên cạnh việc chỉ ra một cấu trúc ngữ pháp
được sử dụng và có ý nghĩa như thế nào thì GV cũng cần phải chỉ ra hình thức của cấu trúc ấy. Có nhiều
cách thể hiện hình thức cấu trúc ngữ pháp:
• Đọc cấu trúc và yêu cầu HS nghe và nhắc lại.
• Viết cấu trúc lên bảng.
• Yêu cầu một số HS (cá nhân) nhắc lại.
• Giải thích cấu trúc ngữ pháp mới được hình thành như thế nào.


• Yêu cầu cả lớp chép cấu trúc vào vở.
• Đặt thêm ví dụ và tình huống để luyện tập.

Quy trình 3 bước của giờ dạy ngữ pháp
Theo giáo học pháp hiện đại, giờ lên lớp được xây dựng trên cơ sở một quy trình 3 bước (The Three P's)
gồm: Giới thiệu, Luyện tập và Vận dụng. Quy trình đó có thể được mô tả trong mô hình sau:
Presentation → Practice → Performance/Production


Tham khảo tài liệu về PPP: Nhấn chuột vào đây để đọc.
Dạy/Rèn kỹ năng Viết cho học sinh
đăng 09:54 21-03-2009 bởi Chien Nguyen Danh
Quy trình dạy Viết thực hiện theo 3 bước sau:
a) Trước khi viết (Pre-writing)
• Giới thiệu bài viết mẫu (phần a).
• Yêu cầu học sinh đọc kĩ để tìm hiểu cấu trúc của bài viết (lưu ý cách diễn đạt ngôn ngữ trong văn
bản viết).
• GV cần làm rõ nghĩa từ mới và mẫu câu.

b) Trong khi viết (While-writing)
1
• GV nêu yêu cầu bài viết (phần b) và có thể cho gợi ý.
• HS thảo luận theo cặp hoặc nhóm, sau đó cá nhân HS tự viết.
• HS cần bám sát bài viết mẫu, các gợi ý để viết theo yêu cầu.
• GV gọi vài HS (đại diện nhóm) trình bày bài viết trước lớp (có thể ding OHP).
• GV sửa lỗi và đưa ra đáp án gợi ý.

c) Sau khi viết (Post-writing)
• HS có thể trình bày lại bài viết (dưới dạng nói).
• GV có thể yêu cầu HS viết một bài theo tình huống gợi ý tương tự (bài viết mới liên hệ thực tế,

mang tính sáng tạo và tự do hơn).
Nói tóm lại, các bài luyện viết thường bắt đầu bằng một bài mẫu ở mục a). Thông qua hoạt động đọc
hiểu, học sinh nắm bắt cách trình bày viết một bài viết theo mục đích hay yêu cầu nhất định. Phần b) sẽ là
phần học sinh thực hiện các bài tập viết theo yêu cầu đề ra, có hướng dẫn, hoặc có gợi ý; sau đó là bài viết
mở rộng mang tính sáng tạo và tự do hơn.
- Để thực hiện bài này, giáo viên cần làm tốt phần hướng dẫn mẫu qua các bài tập đọc và phát hiện,
sau đó giải thích yêu cầu bài viết.
- Cần làm rõ tình huống và yêu cầu bài viết. Nên cho các gợi ý nếu cần. Để làm tốt phần gợi ý, nên khai
thác sự đóng góp ý kiến của cả lớp hay nhóm trước khi học sinh làm việc cá nhân.
- Nhìn chung, để tiết kiệm thời gian trên lớp, các bài tập viết sau khi đã hướng dẫn, đều có thể dành làm
bài tập về nhà và chữa tại lớp.
Dạy/Rèn kỹ năng Nghe hiểu cho học sinh
đăng 09:51 21-03-2009 bởi Chien Nguyen Danh
Các hoạt động dạy nghe hiểu được thực hiện theo 3 bước: trước, trong khi và sau khi nghe cũng nhằm
các mục đích giống tương tự như với kỹ năng đọc, với một số điểm cụ thể cho các bài tập nghe.

a) Trước khi nghe (Pre-listening):
 Giới thiệu nội dung chủ điểm/tình huống;
 Các câu hỏi đoán về nội dung sắp nghe;
 Các câu hỏi tạo trí tò mò, gây hứng thú về nội dung sắp nghe;
 Ra yêu cầu bài nghe.
 Lưu ý: Giới thiệu một số từ mới hoặc cấu trúc ngữ pháp mới có liên quan đến việc hiểu nội dung bài
nghe; tuy nhiên không nên giới thiệu hết mọi từ mới không quan trọng.

b) Trong khi nghe (While-listening):
 Ra câu hỏi hướng dẫn, yêu cầu mục đích khi nghe;
 Chia quá trình nghe thành từng bước nếu cần. Ví dụ, nghe lần thứ nhất: nghe ý chính, trả lời các câu
hỏi đại ý; nghe lần thứ hai: nghe chi tiết nội dung; có thể cho HS nghe thêm lần thứ ba để tự tìm hết đáp án
hay tự sửa lỗi trước khi giáo viên sửa lỗi và cho đáp án.
 Lưu ý: Nên cho nghe hết cả nội dung bài, không dừng từng câu một (trừ trường hợp câu khó muốn

cho HS tìm thông tin chi tiết chính xác)

c) Sau khi nghe (Post-listening):
 Các bài tập ứng dụng, chuyển hoá tương tự như các bài tập sau khi đọc.
 Cần phối hợp nhiều cách kiểm tra các đáp án như: để HS hỏi lẫn nhau, trao đổi đáp án và chữa chéo,
hay một HS hỏi trước lớp và chọn người trả lời trước khi GV cho đáp án cuối cùng.
Dạy/Rèn kỹ năng Nói cho học sinh
đăng 09:49 21-03-2009 bởi Chien Nguyen Danh
Sau phần giới thiệu ngữ liệu (ở lớp 8 và lớp 9) là phần luyện tập nói (Speak), với các hình thức bài tập
và hoạt động ở mỗi bài có khác nhau nhằm luyện tập sử dụng các trọng tâm cấu trúc ngữ pháp, hay từ vựng
để diễn đạt các chức năng ngôn ngữ theo các chủ đề và tình huống có liên quan đến bài học.

Quy trình luyện nói bao gồm:

2
a) Chuẩn bị nói (Pre-speaking)
• Giới thiệu bài nói mẫu (Những phát ngôn riêng lẻ hay một bài hội thoại).
• Yêu cầu học sinh luyện đọc (Chú ý cách phát âm và nghĩa của từ mới)
• Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để HS tự rút ra cách sử dụng từ và cấu trúc câu.
• Giáo viên yêu cầu bài nói.

b) Luyện nói có kiểm soát (Controlled practice)
• Học sinh dựa vào tình huống gợi ý (qua tranh vẽ, từ ngữ, cấu trúc câu cho sẵn hoặc bài hội thoại
mẫu) để luyện nói theo yêu cầu.
• HS luyện nói theo cá nhân/ cặp /nhóm dưới sự kiểm soát của của GV (sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ
pháp, gợi ý từ …)
• GV gọi cá nhân hoặc cặp HS trình bày (nói lại) phần thực hành nói theo yêu cầu.

c) Luyện nói tự do (Free practice/ Production)
• HS nói về kinh nghiệm bản thân, bạn bè, người thân trong gia đình hoặc về quê hương, đất nước

hay địa phương nơI mình ở.
• GV không nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ ; nên để HS tự do nói, phát huy khả năng
sáng tạo của bản thân.
Để thực hiện mục này giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:
• Cần phối hợp sử dụng thường xuyên các hình thức luyện tập nói theo cặp (pairs) hoặc theo nhóm
(groups) để các em có nhiều cơ hội sử dụng tiếng Anh trong lớp qua đó các em có thể cảm thấy tự tin và
mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
• Cần hướng dẫn cách tiến hành, làm rõ yêu cầu bài tập hoặc gợi ý hay cung cấp ngữ liệu trước khi
cho học sinh làm việc theo cặp hoặc nhóm. Việc hướng dẫn và gợi ý cho phần luyện nói rất cần sự sáng tạo
và thủ thuật phong phú của giáo viên, không nên chỉ bám sát thuần tuý vào sách.
• Ngữ cảnh cần được giới thiệu rõ ràng. Sử dụng thêm các giáo cụ trực quan để gợi ý hay tạo tình
huống.
• Có thể mở rộng tình huống, khai thác các tình huống có liên quan đến chính hoàn cảnh của địa
phương, khuyến khích liên hệ đến tình hình cụ thể của chính cuộc sống thật của các em.
Kỹ thuật giới thiệu/dạy ngữ liệu mới
đăng 09:42 21-03-2009 bởi Chien Nguyen Danh
Giới thiệu ngữ liệu mới là làm rõ nghĩa, cách phát âm, cấu trúc hình thái, và cách dùng của một mục
dạy nào đó trong một ngữ cảnh nhất định. Mục dạy có thể là các mẫu lời nói, từ vựng hay ngữ pháp, hoặc
một nội dung chủ điểm nào đó, thường được giới thiệu thông qua một bài hội thoại hay một bài khoá, hoặc
những tình huống có sự hỗ trợ của giáo cụ trực quan.
Với phương pháp dạy học mới, công việc giới thiệu ngữ liệu không còn thuần tuý chỉ là việc thày giải
thích nghĩa của từ mới (mà phần lớn giáo viên thường thực hiện bằng cách cho nghĩa tiếng Việt) và giải
thích các quy tắc ngữ pháp và các mẫu câu. ở phần này, người giáo viên còn cần phải đồng thời làm rõ cách
sử dụng của các mẫu câu hoặc từ mới đó trong ngữ cảnh. Chỉ khi được giới thiệu trong ngữ cảnh, nghĩa và
cách sử dụng của các ngữ liệu cần dạy mới được làm sáng tỏ. Như vậy, nội dung cần giới thiệu ở bước giới
thiệu ngữ liệu là:
 Hình thái (Form: pronunciation; spelling; grammar)
 Ngữ nghĩa (Meaning)
 Cách sử dụng (Use)
Một đặc điểm nổi bật của phương pháp mới trong việc giới thiệu ngữ liệu là phương pháp mới rất chú

trọng tới việc phải làm sao cho học sinh tiếp thụ bài học không chỉ qua nghe thụ động mà còn được vận động trí
óc, chủ động tham gia vào quá trình của họat động này qua nhiều hoạt động ngôn ngữ khác nhau.
Có nhiều cách/ thủ thuật giới thiệu ngữ liệu. Sau đây là một số thủ thuật giới thiệu ngữ liệu mà các
giáo viên có thể tham khảo để ứng dụng cho bài dạy cụ thể của mình.

Các thủ thuật tạo dựng tình huống. (setting up situations/ contexts)
a). Dùng môi trường, đồ vật thật trong lớp, trong trường;
b). Sử dụng những tình huống thật trong lớp;
c). Dùng các tình huống thật trong đời sống thật của hoc sinh;
d). Dùng các câu chuyện có thật, các hiện tượng thật trong thực tế;
e). Sử dụng các bảng biểu, bản đồ, bảng tin, báo chí;
3
f). Sử dụng tranh, ảnh, giáo cụ trực quan;
g). Sử dụng ngôn ngữ học sinh đã biết;
h). Sử dụng các bài hội thoại ngắn;
i). Sử dụng tiếng mẹ đẻ;
k). Phối hợp một hay nhiều cách trên.
Giới thiệu hình thái ngôn ngữ
Sau khi dùng ngữ cảnh để giới thiệu nghĩa và cách dùng của các mục dạy, lúc này giáo viên có thể
làm rõ hình thái cấu trúc, các quy tắc ngữ pháp nếu có để học sinh nhớ được dễ hơn và hệ thống hoá được
những ngữ liệu đã học. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh tự nhận xét và lập thành mẫu câu hoặc lập ra các
công thức dễ nhớ.
Kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh. (Checking comprehension)
Sau khi giáo viên đã giới thiệu làm rõ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu mới, cần thực hiện việc
kiểm tra mức độ tiếp thu bài của học sinh để qua đó biết được học sinh đã thực sự hiểu bài chưa, mức độ
hiểu đến đâu, để trên cơ sở đó có thể kịp thời bổ xung bài giảng nếu cần.
Việc kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh ở phần giới thiệu ngữ liệu này có thể được thực hiện
thông qua một số bài tập thực hành như:
 Học sinh ứng dụng mẫu câu vừa học vào các tình huống tương tự khác giáo viên đưa ra;
 thực hiện một số bài tập lắp ghép;

 xây dựng các bài hội thoại ngắn theo mẫu bằng cách lắp ghép những từ, đoạn câu gợi ý;
 thực hiện các bài tập hỏi /trả lời theo dạng câu hỏi đóng hoặc các câu hỏi trắc nghiệm đúng sai
(comprehensive questions, True/False questions)
 dịch ra tiếng Việt (nếu phù hợp và cần thiết)
Tóm tắt các bước giới thiệu ngữ liệu mới
Các bước giới thiệu ngữ liệu mới có thể được tóm tắt theo một tiến trình như sau:
1) Giới thiệu ngữ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu: cấu trúc ngữ pháp/ từ mới/ mẫu câu
chức năng qua tình huống, ngữ cảnh, mẫu hội thoại, tranh ảnh...
2) Nêu bật cấu trúc/ từ/ mẫu câu chức năng mới bằng cách đọc to cho học sinh nghe nhắc lại
hoặc bằng các thủ thuật khác nhằm hướng sự chú ý của học sinh vào những mục dạy đó.
3) Viết các cấu trúc/ từ mới lên bảng, làm rõ hình thái cấu trúc, giải thích nếu cần.
4) Làm rõ thêm nghĩa và cách sử dụng bằng cách tiếp tục đưa thêm các tình huống hoặc các
ví dụ khác.
5) Lặp lại tương tự bước 2 hoặc cho học sinh tái tạo theo gợi ý.
6) Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh sử dụng các thủ thuật kiểm tra hiểu như gợí ý ở
mục 2.3.
Khi giáo viên nhận thấy học sinh đã làm tốt được bước 6. thì có thể chuyển sang phần luyện tập sáng
tạo hơn với các loại bài tập mang tính giao tiếp hơn.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng không phải lúc nào việc giới thiệu ngữ liệu cũng phải tuân theo tuần tự
tiến trình trên. Ví dụ, ngay sau bước 2. nếu giáo viên cảm thấy học sinh đã hiểu và có thể làm tốt các bài tập
tái tạo thì có thể chuyển ngay sang bước 6. Hoặc công việc của bước 3. cũng có thể để lui lại để thực hiện
vào cuối bài ở bước củng cố bài, sau khi học sinh đã làm các bài tập thực hành.
Một số lưu ý khi giới thiệu/dạy từ vựng
Tiến trình giới thiệu ngữ liệu được trình bày ở trên có thể được coi là tiến trình chung cho việc giới
thiệu ngữ liệu mới. Tuy nhiên, cách giới thiệu từ vựng cũng có những đặc thù riêng. Phần này sẽ trình bày
một số điểm cần lưu ý khi giới thiệu từ mới.
Chọn từ để dạy
Thông thường trong một bài học sẽ luôn luôn có từ mới. Song không phải từ mới nào cũng cần đưa
vào dạy như nhau. Để lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần xem xét các câu hỏi sau:
a) Từ chủ động hay từ bị động?

 Từ chủ động (active/ productive vocabulary) là những từ học sinh hiểu, nhận biết và sử dụng được
trong giao tiếp nói và viết.
 Từ bị động (passive/ receptive vocabulary) là những từ học sinh chỉ hiểu và nhận biết được khi nghe
và đọc.
Cách dạy hai loại từ này có khác nhau. Từ chủ động liên quan đến cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, cần
đầu tư thời gian để giới thiệu và luyện tập nhiều hơn, đặc biệt là cách sử dụng. Với từ bị động, giáo viên có thể chỉ
dừng lại ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần xác định xem
sẽ dạy từ nào như một từ bị động và từ nào như một từ chủ động. Với từ bị động, giáo viên có thể khuyến khích
học sinh tự tìm hiểu nghĩa từ (ví dụ: tra từ điển), hoặc đoán từ qua ngữ cảnh.
b) Học sinh đã biết từ này chưa?
Giáo viên cần xác định rõ từ mình định dạy có thực sự là từ cần dạy hay không. Vốn từ của học sinh luôn
luôn được mở rộng bằng nhiều con đường, và cũng có thể bị quên bằng nhiều lý do khác nhau. Để tránh tình trạng
4
giới thiệu những từ không cần thiết và mất thời gian, giáo viên có thể dùng những thủ thuật nhằm phát hiện xem các
em đã biết những từ đó chưa và biết đến đâu. Giáo viên có thể dùng các thủ thuật như eliciting; brainstorming; các
thủ thuật dùng ở các bước 5) và 6) trong tiến trình giới thiệu ngữ liệu mới; hoặc có thể hỏi trực tiếp học sinh những
từ nào là từ mới và khó trong bài.
Những thủ thuật làm rõ nghĩa từ
Ngoài những thủ thuật giới thiệu nghĩa trong ngữ cảnh đã đề cập ở phần giới thiệu ngữ liệu chung, có
thể sử dụng một số thủ thuật đặc thù cho từ vựng như:
a) Dùng trực quan như: đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ (hình que), hình cắt dán từ
tạp chí, cử chỉ điệu bộ v.v.
b) Dùng ngôn ngữ đã học:
 Định nghĩa, miêu tả;
 Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa;
 Dựa vào các quy tắc hình thành từ, tạo từ;
 Tạo tình huống;
 Đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh
c) Dịch sang tiếng mẹ đẻ.
Các bước tiến hành giới thiệu từ mới cũng tương tự như các bước giới thiệu ngữ liệu nói chung, song

có thể được phối hợp nhanh hơn.Cụ thể là sau khi đã làm rõ nghĩa và cách sử dụng từ, giáo viên sẽ tạo điều
kiện cho học sinh thực hành ngay qua các bài tập ứng dụng phối hợp với các mẫu cấu trúc hoặc mẫu câu
chức năng. Qua các bài tập thực hành này giáo viên đã cùng lúc kiểm tra được mức độ tiếp thu bài của học
sinh.

Tăng cường sự tham gia của học sinh ở bước giới thiệu ngữ liệu mới
Như đã đề cập, điểm nổi bật ở phương pháp mới là tạo cho học sinh được tham gia vào quá trình giới
thiệu ngữ liệu mới.
Trong giai đoạn giới thiệu ngữ liệu mới, thông thường giáo viên đóng vai trò chính, vai trò truyền thụ,
học sinh đóng vai tiếp nhận, thụ động là chủ yếu. Tuy nhiên, nếu giáo viên tạo được điều kiện cho học sinh
tham gia vào quá trình này, kết quả tiếp thu bài của các em sẽ tốt hơn nhiều.
Để làm được điều đó, giáo viên cần tìm kiếm và sử dụng những thủ thuật phát huy sự chủ động suy
đoán, tự phát hiện của học sinh. Ví dụ, phát hiện và nhận biết cấu trúc hay từ mới và tự rút ra mẫu cấu trúc
của các mục ngữ pháp, hoặc đoán nghĩa từ trong ngữ cảnh, tự giải thích nghĩa từ bằng vốn từ có sẵn, cho
từ đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa,v.v.

Sử dụng phối hợp các kỹ năng trong khi giới thiệu ngữ liệu mới
Trong quá trình giới thiệu ngữ liệu, giáo viên nên phối hợp nhiều các kỹ năng với nhau để giới thiệu
mục dạy, ví dụ giới thiệu qua nói, sau đó học sinh nghe và nhắc lại; học sinh nhìn mẫu được viết trên bảng,
hoc sinh tái tạo qua nói, nghe, viết , đọc; học sinh xây dựng các bài hội thoại theo mẫu qua nói nghe trong
nhóm sau đó viết lại hoặc ngược lại, chuẩn bị qua viết, sau đó nói lại; học sinh viết các câu trả lời trên giấy
trong/ bảng con, sau đó đưa ra trước lớp để được nhận xét, v.v.
Dạy/Rèn kỹ năng Đọc hiểu cho học sinh
đăng 09:42 21-03-2009 bởi Chien Nguyen Danh
Khi tiến hành một bài dạy kỹ năng, ví dụ như một bài đọc hoặc bài nghe… (trong chương trình lớp 8
và lớp 9) cần tiến hành theo 3 bước: trước khi vào bài, trong khi thực hiện bài và sau khi thực hiện xong bài
(pre-task, while-task and post-task). Những yêu cầu hoạt động được thiết kế theo các bước này sẽ giúp học
sinh hiểu bài và thực hành được các kỹ năng lời nói một cách thấu đáo và có suy nghĩ hơn, trên cơ sở đó sẽ
khắc sâu bài lâu bền hơn.
Mục đích của từng bước

a) Các hoạt động trước khi vào bài:
Các hoạt động trước khi vào bài giúp học sinh hình dung trước nội dung chủ điểm hay nội dung tình
huống của bài các em sẽ nghe, đọc, nói về hoặc viết về chúng.
Các hoạt động cho bước này sẽ được lựa chọn tuỳ theo từng kỹ năng cụ thể và tuỳ theo từng nội
dung và yêu cầu cụ thể của bài. Các hoạt động đó có thể là:
 Trao đổi, thu thập các ý kiến, những hiểu biết và kiến thức hoặc quan điểm của học sinh về chủ
điểm của bài trước khi các em nghe, nói đọc, viết về nó qua các hoạt động dạy học hay thủ thuật như
brainstorming, discussions ...
 Đoán trước nội dung sắp học bằng các câu hỏi đoán về nội dung bài hoặc về từ vựng sẽ xuất hiện
trong bài;
5

×