Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

skkn một số giải pháp bồi dưỡng phẩm chất và phát triển năng lực cho học sinh trung học phổ thông qua môn học giáo dục công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.57 MB, 170 trang )

0/
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT
VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THƠNG QUA MƠN HỌC GIÁO DỤC CƠNG DÂN

Nhóm tác giả
Họ và tên
Nguyễn Trọng Khánh
Mai Thị Lệ Hằng
Nguyễn Thị Thơng Hoa
Đồn Thị Mận
Đặng Thanh Cao

Chức vụ

Đơn vị cơng tác

Hiệu trưởng

THPT Hoa Lư A

Tổ phó, nhóm trưởng CM

THPT Hoa Lư A

Giáo viên


THPT Hoa Lư A

Phó Hiệu trưởng

THPT Hoa Lư A

Bí thư Đoàn trường

THPT Hoa Lư A

Hoa Lư, tháng 5 năm 2017


MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT
VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG QUA MÔN HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến
Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách
và là yếu tố nền tảng tạo nên nhân cách của một con người. Mục tiêu giáo dục
trong mọi thời đại đều hướng tới mục tiêu giáo dục nhân cách. Tuy nhiên qua
các thời kỳ với các giai đoạn lịch sử khác nhau, yêu cầu về nhân cách nói chung
và phẩm chất, năng lực nói riêng của con người cũng có những thay đổi phù hợp
với địi hỏi của thời kỳ đó.
Trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW về"đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo”, nền Giáo dục và Đào tạo nước ta cần có sự thay đổi. Bên cạnh việc
thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện, giúp người học hình thành hệ thống kiến
thức, kỹ năng, thái độ thì giáo dục cịn cần phải giúp người học hình thành một

hệ thống phẩm chất, năng lực đáp ứng được với yêu cầu mới. Hệ thống phẩm
chất, năng lực đó được cụ thể hóa phù hợp với sự phát triển tâm lý, sinh lý của
người học, phù hợp với đặc điểm môn học và cấp học, lớp học. Theo đó, những
phát triển của phẩm chất, năng lực người học trong quá trình giáo dục cũng sẽ là
q trình hình thành, phát triển, hồn thiện nhân cách con người.
Trong dự thảo chương trình giáo dục, đến năm 2018 mới có sách giáo
khoa cho chương trình mới theo khung chương trình tổng thể, nhưng hiện nay
các trường có thể vận dụng được việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực
trên chương trình và sách giáo khoa hiện hành (sách của chương trình sau năm
2000). Điều đó thực hiện được bởi vì trong sách giáo khoa tri thức vẫn là tri thức
khoa học, chỉ có sự chiếm lĩnh tri thức và ứng dụng sáng tạo tri thức là điều cần
thay đổi và ln thay đổi. Vì vậy khi tiếp cận, làm quen với việc dạy học phát
triển phẩm chất, năng lực người học, người cán bộ quản lý giáo dục, người day
sẽ phát hiện ra nhiều vấn đề có thể đóng góp hữu ích cho dự thảo chương trình
tổng thể hiện nay và chương trình cụ thể trong thời gian tới.
Khi nung nấu và bắt tay vào thực hiện ý tưởng, nhóm tác giả đã tìm hiểu
và rất tâm đắc với sơ đồ phẩm chất và năng lực trong mối quan hệ với các yếu tố
2


tư tưởng, đạo đức, lối sống và kiến thức, kỹ năng, thái độ do các nhà nghiên cứu
và phát triển giáo dục Việt Nam đưa ra:

Theo sơ đồ trên, việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học
tuy có khác với dạy học trước đây nhưng có sự kế thừa, nâng lên từ phương
pháp, nội dung dạy học trước đây. Điểm khác nhau giữa các phương pháp là ở
chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học có u cầu cao hơn, mức
độ khó hơn, địi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng dạy nói chung
cao hơn trước đây.
Hướng dẫn Số 964 /SGDĐT-CTTT, ngày 13/9/2016 của phòng CTTT- Sở

Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình về việc thực hiện Cơng tác HSSV, giáo dục
thể chất và y tế trường học năm học 2016-2017 đã xác định một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là: Tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, chú trọng nội dung liên quan tới giáo dục trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH,HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, chương trình khởi nghiệp cho HSSV; Triển khai có hiệu quả Quyết định
số 1501/QĐ-TTg ngày 28/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án"Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020”; Kế hoạch triển khai Quyết định số
1501/QĐ-TTg của ngành Giáo dục ban hành theo Quyết định số 410/QĐBGDĐT ngày 04/02/2016 của Bộ trưởng Bộ GDĐT; Tiếp tục thực hiện có hiệu
quả các nội dung phong trào thi đua xây dựng THTT,HSTC. Tăng cường các
hoạt động giáo dục, hướng dẫn cách sử dụng, khai thác thông tin trên Internet
3


cho thanh, thiếu niên trong trường học; tăng cường giáo dục toàn diện; giáo dục
kỹ năng sống, kỹ năng thực hành, ý thức trách nhiệm với cộng đồng, xã hội cho
HSSV. Thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể
thao trong nhà trường; Triển khai có hiệu quả hoạt động câu lạc bộ, tư vấn tâm
lý, nghề nghiệp cho HS; Tổ chức triển khai thực hiện các quy định tại Thông tư
liên tịch số 13/2016/TTLT-BGDĐT-BVHTTDL-BLĐTBXH-BCA ngày
05/5/2016 về việc hướng dẫn thực hiện giáo dục chuyển đổi hành vi về xây dựng
gia đình và phịng, chống bạo lực gia đình trong nhà trường.
Những phẩm chất, năng lực của người học chỉ có thể được hình thành và
phát triển thơng qua nhiều hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trong đó có
hoạt động giáo dục trong giờ nội khóa, giáo dục ngồi giờ lên lớp; căn cứ vào
kinh nghiệm quản lý; chức năng, nhiệm vụ và kinh nghiệm giảng dạy bộ môn

Giáo dục công dân (GDCD) ở cơ sở giáo dục cấp THPT; căn cứ vào lý luận về
đổi mới phương pháp giảng dạy và điều kiện, tình hình thực tiễn, trong những
năm học từ 2015 - 2016 và 2016 - 2017 nhóm tác giả sáng kiến đã trăn trở và
mạnh dạn áp dụng một số giải pháp trong đó có phương pháp dạy học trực quan
thông qua việc sử dụng đồ dùng dạy học trong giờ nội khóa mơn GDCD; phát
huy vai trị liên mơn, khả năng xã hội hóa giáo dục; tổ chức có hiệu quả các hoạt
động giáo dục ngồi giờ lên lớp, tạo nhiều sân chơi, nhiều cơ hội cho học sinh
được trải nghiệm sáng tạo, đó là những lý do cơ bản nhất để nhóm tác giả lựa
chọn sáng kiến"Một số giải pháp bồi dưỡng phẩm chất và phát triển năng lực
cho học sinh trung học phổ thông qua môn học Giáo dục công dân”.
2. Lịch sử đề tài
Vai trị, chức năng của giáo dục phổ thơng ln nhắc tới mục tiêu giáo
dục toàn diện nhưng trên thực tế những năm qua, việc tổ chức thực hiện vẫn
nặng về"dạy chữ” hơn là"dạy người”,"dạy nghề”. Sự thiếu sót này bắt nguồn từ
sự q tải của chương trình học nội khóa; sự nhận thức sai lệch, thiếu quan tâm
của một số các nhà quản lý, các nhà giáo về việc bồi dưỡng phẩm chất và phát
triển năng lực cho học sinh. Trong các cơ sở giáo dục phổ thơng cịn gặp rất
nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, kinh phí, thời gian và cơ hội cho các hoạt
động giáo dục nội khóa và đặc biệt là giáo dục ngồi giờ lên lớp.
Mỗi cơ sở giáo dục có điều kiện, hồn cảnh riêng vì vậy sự vận dụng các
phương pháp, hình thức tổ chức thực hiện và hiệu ứng của chương trình giáo
dục cũng khác nhau. Trong năm học 2015 - 2016, nhóm thực hiện sáng kiến của
chúng tơi đã tiến hành đi sâu nghiên cứu, tiếp cận vấn đề và quan tâm trau dồi,
4


phát triển các phẩm chất, kỹ năng cho học sinh thông qua việc sử dụng đồ dùng
dạy học trong giờ nội khóa bộ mơn GDCD đối với khối 11; năm học 2016 –
2017 nhóm tác giả tiếp tục áp dụng mạnh việc sử dụng đồ dùng dạy học trong
giờ nội khóa bộ mơn GDCD đối với cả ba khối lớp 10,11,12 đồng thời phối hợp

với Đoàn Thanh niên, Hội Chữ Thập đỏ, Ban Đại diện cha mẹ học sinh... tổ
chức nhiều hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (NGLL) như hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, Hội thi"Công dân với tình bạn, tình u, hơn nhân và gia
đình”, tổ chức"Ngày Hội Khởi nghiệp”...
Qua quá trình vận dụng một số giải pháp đã góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học bộ mơn GDCD, tạo sự biến chuyển tích cực về nhận thức và hành vi
của học sinh. Việc học sinh hứng thú học tập và sự thành công của các chương
trình ngoại khóa đã khẳng định bước đi đúng hướng, phù hợp với đối tượng học
sinh THPT và địa phương Hoa Lư, Ninh Bình, đáp ứng được yêu cầu cấp thiết
trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường, góp
phần tạo tiền đề cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo trong thời gian
tiếp theo.
3. Điểm mới của sáng kiến
3.1. Đổi mới phương pháp tổ chức thực hiện
Hoạt động dạy và học là hoạt động điều khiển, tổ chức học sinh nắm vững
hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam về tự nhiên xã hội- nhân văn, đồng thời rèn luyện cho các em hệ thống
kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Trên cơ sở tổ chức cho học sinh nắm vững tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức mà hình thành cho các em cơ sở
thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân
cách nói chung theo mục đích giáo dục đã đề ra.
- Trước hết: Sự đổi mới phương pháp tổ chức thực hiện được thể hiện
trong sự đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động nhận thức trong giờ nội khóa.
Để thực hiện thành cơng một giờ lên lớp người thầy phải tìm tịi và áp dụng rất
nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học phù hợp với đối tượng song trong phạm vi
sáng kiến này chúng tôi tập trung làm rõ nét về phương pháp sử dụng đồ dùng
dạy học trong môn học GDCD;
- Thứ hai: Lựa chọn tên hội thi, hình thức hội thi, cuộc thi tun
truyền"Cơng dân với tình bạn, tình u, hơn nhân và gia đình” được sân khấu
hóa kết hợp với những hoạt động"Ngày Hội Khởi nghiệp” với những lựa chọn

vô cùng phong phú, sáng tạo cho hoạt động giáo dục NGLL cho học sinh."Tình
5


bạn”,"tình u”,"hơn nhân và gia đình” được đặt dưới góc nhìn của tuổi học trị;
là những vấn đề đang diễn ra với vai trò là một trong các thành tố giáo dục gia
đình - nhà trường - xã hội; đó có thể là vấn đề của bạn, của tơi hoặc của gia đình
bạn, gia đình tơi và của tồn xã hội song cái mà nhóm tác giả hướng tới là từ
những kiến thức sẽ đánh thức ý thức trách nhiệm giáo dục của nhà trường - gia
đình - xã hội đến ý thức tự giáo dục, tự bồi dưỡng phẩm chất, năng lực và hình
thành nhân cách của mỗi học sinh; đánh thức ý thức trách nhiệm của thanh niên
- người công dân - chủ nhân đất nước trong tương lai trong bước khởi nghiệp
tiến tới chấn hưng đất nước và một giá trị nhân văn hướng tới là sự chia sẻ "vì
bạn xứng đáng”.
- Thứ ba: Phát huy tối ưu sự kết hợp bồi dưỡng phẩm chất và phát triển
năng lực cho học sinh trong giờ nội khóa mơn GDCD kết hợp với giải pháp bồi
dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực cho học sinh thông qua các hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp bởi lẽ học trên lớp và hoạt động ngoại khóa là hai hình
thức tổ chức dạy học mà ở mỗi hình thức dạy học đều có điểm mạnh và những
hạn chế nhất định song sự kết hợp các hình thức tổ chức dạy học đó lại có điều
kiện bổ trợ cho nhau rất hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ dạy học. Giờ
học nội khóa diễn ra trong khn khổ lớp học theo thời gian quy định để thực
hiện khung chương trình đã được quy định mà ở đó chủ yếu diễn ra hoạt động
tương tác chủ yếu giữa thầy và trò, giữa trị với trị trong khi đó hoạt động ngoại
khóa là một trong những sân chơi để học sinh tự nguyện tham gia theo nhu cầu,
khả năng của bản thân giúp học sinh giải tỏa căng thẳng trong việc học với khối
lượng kiến thức lớn ở trên lớp và tìm tịi ra những bài học từ trong cuộc sống,
phát triển kĩ năng; được khám phá bản thân, phát triển những kĩ năng mới và
củng cố những gì bạn có. Học sinh còn tập làm quen với việc lập kế hoạch và
thực hiện các chương trình giúp triển khai các mục tiêu, dự định cũng như có

thêm nhiều kinh nghiệm quản lý và làm việc theo nhóm. Tham gia tích cực vào
các hoạt động ngoại khóa giúp học sinh cân bằng cuộc sống, thư giãn và tiếp
thêm sinh lực từ đó khám phá ra những sở thích mới mẻ, những trải nghiệm thú
vị, phát triển rất nhiều kỹ năng đặc biệt là kỳ năng sống (KNS) góp phần hồn
thiện bản thân cùng với những kiến thức được học để xây dựng hành trang vững
chắc nhất khi bước vào cuộc sống xã hội với những bổn phận và trách nhiệm
của người công dân.
- Thứ tư: Phát huy tối đa nội lực đi đôi với sự tranh thủ tiềm lực của các
lực lượng giáo dục ngoài nhà trường: Để thực hiện tốt các nhiệm vụ của hoạt
6


động dạy học ở trường phổ thơng, địi hỏi phải gắn hoạt động dạy học với việc
nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện; tạo mơi trường và điều kiện thuận lợi
cho đội ngũ cán bộ, giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong đó,
quan trọng nhất là tạo động lực và kích thích tinh thần lao động sáng tạo của đội
ngũ giáo viên; kết hợp phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo của mỗi thành
viên trong tập thể với sự quản lý thống nhất của đội ngũ cán bộ quản lý nhà
trường; đảm bảo chất lượng dạy học một cách bền vững; xây dựng cơ chế và có
chính sách phù hợp để phát huy tối đa nội lực đi đôi với sự tranh thủ tiềm lực
của các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường.
Thực hiện mục tiêu bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực cho học
sinh qua giảng dạy bộ môn GDCD, Ban Giám hiệu đã chỉ đạo nhóm chun
mơn kết hợp với BCH Đoàn trường xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện trong
đó đi sâu áp dụng phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học trong giờ nội khóa và
chương trình ngoại khóa"Cơng dân với tình bạn, tình u, hơn nhân và gia đình”
được triển khai trên cả khối lớp 10, 11,12. Trong chuỗi hoạt động đó cao điểm là
Hội thi"Cơng dân với tình bạn, tình u, hơn nhân và gia đình”; Hội thi được đặt
trong khơng gian"Ngày Hội Khởi nghiệp” tổ chức vào ngày 24/3/2017 với
phương châm hiệu quả, an toàn, tiết kiệm, phát huy nội lực, phát huy tối đa khả

năng và sức sáng tạo của học sinh và khả năng xã hội hóa giáo dục trong hoạt
động dạy và học.
3.2. Học sinh thực sự là chủ thể trong mọi hoạt động
- Trong giờ nội khóa HS là chủ thể của mọi hoạt động nhận thức: Lớp
trưởng (nhóm trưởng) là người điều hành hoạt động nhóm; mọi thành viên chủ
động tiếp cận, phát hiện, nêu vấn đề và đưa ra ý kiến, hướng giải quyết vấn đề;
giáo viên hướng dẫn và ở mức độ nào đó cùng HS làm đồ dùng dạy học (cùng
vẽ sơ đồ tư duy, lập bảng biểu kiến thức, phản ánh những câu chuyện có thật
trong cuộc sống...);
- Trong giờ ngoại khóa HS là"Nhóm Khởi nghiệp”,"Nhà đầu tư”, được
làm người dẫn chương trình, người thủ lĩnh hay người quản lý một nhà hàng;
được làm một diễn viên trên sân khấu hóa thân trong những hình tượng nhân vật
yêu thích; được đối diện với sự thành cơng hay thất bại trong kinh doanh, được
nói lên quan điểm, nhận thức của mình...
Theo sự hướng dẫn của thầy cơ, HS hồn tồn chủ động tiếp cận vấn đề
và từng bước làm sáng tỏ các yêu cầu trong hoạt động cá nhân và tập thể. Trong
quá trình tổ chức thực hiện chú ý kết hợp giữa mục tiêu trau dồi kiến thức, rèn
7


luyện kỹ năng, bồi dưỡng tư tưởng, thái độ, tình cảm tích cực trong giờ nội khóa
với các hoạt động giáo dục NGLL; qua quá trình học tập khám phá tri thức cũng
chính là q trình các tập thể và cá nhân khám phá chính bản thân mình, bộc lộ
khả năng, thái độ, xúc cảm, vai trị của mình trong tập thể từ đó có định hướng
rõ hơn con đường đi trong tương. Kết quả đạt được của các hoạt động là thước
đo tình cảm, tài năng, trí tuệ của mỗi tập thể và cá nhân.
3.3. Phát huy khả năng vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học
Môn GDCD có đặc trưng riêng là tổng hợp nhiều kiến thức từ Triết học,
Kinh tế - chính trị Mác - Lênin, Nhà nước và pháp luật, Đạo đức, các chính sách
xã hội...và tích hợp nhiều nội dung như giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh, Phịng chống tham nhũng, tun truyền Luật an tồn giao thơng,
phịng chống các tệ nạn xã hội.... Nội dung của chương trình có mối liên hệ với
một số nội dung của các môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục quốc phịng,
Sinh học, Cơng nghệ... Chính vì vậy khi đổi mới phương pháp giảng dạy theo
hướng bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực người học, GV các mơn học
khác nhau có thể phối hợp nhịp nhàng để cùng xây dựng và thực hiện các hoạt
động giáo dục. Đặc biệt với hình thức giáo dục NGLL. Chẳng hạn, với chủ
đề"môi trường”,"dân số”, ‘việc làm”, kiến thức môn học Giáo dục công dân và
Địa lí có nhiều điểm trùng nhau. Hay bài 14 (GDCD10): Công dân với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có một số điểm tương đồng với kiến thức
mơn Ngữ văn (giáo dục lịng u nước), mơn Lịch sử, Giáo dục quốc phòng
(giáo dục truyền thống yêu nước)...
Phát huy tính liên mơn trong hoạt động giáo dục, mục tiêu bồi dưỡng
phẩm phẩm chất, phát triển năng lực cho người học sẽ đạt được hiệu quả cao
hơn nhờ việc khai thác và vận dụng kiến thức liên môn nên sâu sắc, có ý nghĩa
hơn. Mặt khác, giáo viên các mơn học có sự tương tác, phối hợp nên qua đó việc
học hỏi và trao đổi kinh nghiệm chun mơn có hiệu quả hơn.
3.4. Phát huy tối đa việc thực hiện xã hội hóa trong học tập
Khả năng xã hội hóa (XHH) giáo dục được thể hiện ở những khía cạnh cơ
bản như: Hoạt động giáo dục đó đã lơi cuốn được bao nhiêu người tham gia? họ
là ai? họ đã tham gia thực hiện công việc như thế nào? Số tiền ủng hộ để thực
hiện cơng việc đó là bao nhiêu? Những ai được thụ hưởng thành quả từ hoạt
động giáo dục đó?...
Chương trình đã đạt được những thành cơng nhất định. Kết quả có được
là do sự đồng thuận, sự quan tâm chỉ đạo vào tạo mọi điều kiện vật chất, tinh
8


thần, con người, thời gian của các cấp lãnh đạo đảng, chính quyền trong nhà
trường, các cơ quan chun mơn và có liên quan đóng trên địa bàn, sự phối hợp

của các ban, ngành, của các bậc phụ huynh, của giáo viên (GV) và HS trong
tồn trường.
3.5. Đưa thơng điệp rộng rãi trong cộng đồng
Thực hiện chuyên đề ngoại khóa, nhóm tác giả đã lựa chọn hình thức"Hội
thi” theo từng chủ đề cho khối 10 là"Tình bạn”; khối 11 -"Tình u”; khối 12 "Hơn nhân và gia đình”.
Tình bạn, tình u, hơn nhân và gia đình là những phạm trù, những vấn
đề của đời sống xã hội mà mỗi người vừa là chủ thể vừa là khách thể trong
tổng hòa các mối quan hệ xã hội đó. Hiển hiện trong đời thực lại có rất nhiều
câu hỏi, nhiều bài tốn cuộc đời được đặt ra; có những góc khuất tâm hồn ta
không nhận thấy... Tự tin bước tiếp hay không thể vượt qua một ranh giới vơ
hình mong manh trong những vấn đề của cuộc sống? Tất cả đề được gọi tên,
nêu ra, để tìm, để hiểu, để có câu trả lời - Chỉ có những diễn đàn mới đưa
thơng điệp đến với công chúng nhanh nhất, nhiều nhất, đầy đủ nhất ngay cả
những điều khó nói nhất.
4. Phạm vi, đối tượng áp dụng sáng kiến
Sáng kiến góp phần cung cấp những kỹ năng có thể áp dụng để giảng dạy
trong giờ chính khóa hoặc ngoại khóa ở tất cả các mơn học trong chương trình
hiện hành và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đối với học sinh trung học
phổ thông.

9


PHẦN NỘI DUNG
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VIỆC BỒI DƯỠNG
PHẨM CHẤT VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH THPT
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Những phẩm chất và năng lực cần bồi dưỡng và phát triển cho học
sinh THPT qua môn học Giáo dục công dân
1.1. Khái niệm về nhân cách, phẩm chất, năng lực

Dưới góc nhìn giáo dục học thì nhân cách là tổ hợp của những phẩm chất
và năng lực, là đạo đức và tài năng được kết tinh ở mỗi con người. Con người
khi mới sinh ra chưa có nhân cách, nhân cách phản ánh bản chất của xã hội của
mỗi cá nhân và chỉ được hình thành, phát triển trong hoạt động giao lưu. Chính
trong q trình sống, hoạt động, giao tiếp, học tập, lao động, vui chơi, giải trí...
con người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Cịn theo các nhà
xã hội học thì nhân cách là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong
toàn bộ thời gian con người tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con
người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã
hội sâu sắc.
Theo từ điển Tiếng Việt: Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay
vật; hoặc: Phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình
cảm, giá trị cuộc sống; ý thức pháp luật của con người được hình thành sau một
quá trình giáo dục.
Cũng theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc: Năng lực là khả
năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một
loại công việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung
và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ
người nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể
hiện trên từng lĩnh vực khác nhau như năng lực đặc thù môn học là năng lực
được hình thành và phát triển do đặc điểm của mơn học đó tạo nên.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố: di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân trong đó:
10


- Các yếu tố bẩm sinh - di truyền tốt là những mầm mống của phẩm chất
và tài năng, nhất là tài năng con người; các mầm mống cần được phát hiện kịp

thời và giáo dục đúng cách thì tài năng mới phát huy, tỏa sáng. Nếu không làm
như vậy, mầm mống cũng bị mai một. Do vậy yếu tố di truyền khơng có vai trị
quyết định đến hình thành nhân cách.
- Mơi trường tự nhiên, mơi trường gia đình, xã hội, hồn cảnh sống có tác
động và ảnh hưởng to lớn đến cá nhân nhưng cũng khơng có vai trị quyết định
đối với việc hình thành và phát triển nhân cách bởi vì hồn cảnh sáng tạo ra con
người nhưng trong một chừng mực, con người cũng sáng tạo ra hồn cảnh.
- Giáo dục giữ vai trị chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách như: giáo dục sẽ định hướng cho phát triển nhân cách, giáo dục làm phát
huy các yếu tố bẩm sinh - di truyền, giáo dục khắc phục được một số các
khuyết tật, lệch lạc của cá nhân. Tuy vậy cá nhân phát triển đến mức độ nào,
theo xu hướng nào, giáo dục không quyết định được cho cá nhân. Giáo dục
không là vạn năng.
Trong các yếu tố kể trên chỉ có hoạt động của cá nhân mới là yếu tố quyết
định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
Việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực là phương pháp tích tụ dần dần
các yếu tố của phẩm chất và năng lực người học để chuyển hóa và góp phần cho
việc hình thành, phát triển nhân cách vì vậy dạy học phát triển phẩm chất, năng
lực vừa là mục tiêu giáo dục (xét về mục đích, ý nghĩa của dạy học), vừa là một
nội dung giáo dục (xét về các tiêu chuẩn, tiêu chí cần đạt của người học) đồng
thời cũng là một phương pháp giáo dục (xét về cách thức thực hiện). Do vậy, dạy
học phát triển phẩm chất, năng lực có một ưu thế vượt trội trong hình thành và
phát triển nhân cách bởi vì nó hướng người học đi vào hoạt động cá nhân (hoạt
động trong giờ, ngoài giờ, hoạt động giao tiếp với tự nhiên, xã hội, môi trường,
trải nghiệm...), mà các hoạt động sống, hoạt động cá nhân có vai trị quyết định
đối với hình thành nhân cách. Vì vậy vấn đề còn lại là người học tham gia như thế
nào các hoạt động để hình thành và phát triển nhân cách của mình.
1.3. Mơ hình dạy học phát triển 3 phẩm chất, 8 năng lực ở Việt Nam
Trong một dự thảo cho đổi mới về chương trình sách giáo khoa sau năm
2015. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra một chương trình tổng thể gồm ba

phẩm chất và tám năng lực như sau. (Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố ngày
05/8/2015).
11


* Ba phẩm chất là: Sống yêu thương, sống tự chủ, sống trách nhiệm.
- Sống yêu thương gồm: Yêu tổ quốc, giữ gìn phát huy truyền thống, di
sản quê hương đất nước, tơn trọng các nền văn hóa trên thế giới, nhân ái, khoan
dung, yêu thiên nhiên.
- Sống tự chủ gồm: Sống trung thực; tự trọng; tự lực; chăm chỉ; vượt khó;
tự hồn thiện.
- Sống trách nhiệm gồm: Tự nguyện; chấp hành kỷ luật; tuân thủ pháp
luật; bảo vệ nội quy, pháp luật.
Mỗi phẩm chất sẽ được Bộ nêu rõ những tiêu chí cụ thể hơn, cụ thể hóa
trong chương trình theo từng cấp học và từng mơn học.
*Tám năng lực: Hệ thống phẩm chất, năng lực chung được khái quát:
Nhóm năng lực
quan hệ xã hội
CÁC
Nhóm năng lực
NĂNG
làm chủ và phát
LỰC
triển bản thân
CHUNG
Nhóm năng lực
cơng cụ

- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác

- Năng lực tự học
- Năng lực tự giải quyết vấn đề và sáng tạo
- Năng lực thể chất
- Năng lực thẩm mỹ
- Năng lực tính tốn
- Năng lực công nhệ thông tin và truyền thông

2. Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng
lực cho học sinh
Bồi dưỡng các phẩm chất, phát triển các năng lực cho học sinh thực chất
chính là hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống. Cơng tác này có
vai trị vơ cùng quan trọng trong thời kỳ hiện nay, khi tình trạng xuống cấp đạo
đức đang ngày càng trở nên nghiêm trọng và kỹ năng, năng lực lao động xã hội
rất thấp đang là vấn đề báo động cấp quốc gia. Và môn GDCD là một bộ mơn
đặc thù có đóng góp quan trong trong việc bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng
lực cho học sinh phổ thông.
Giáo dục đạo đức, lối sống giúp cho mỗi cá nhân nâng cao trình độ nhận
thức về các giá trị đạo đức, lối sống từ đó tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp
với những chuẩn mực đạo đức, lối sống của xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị đạo
đức mà các thế hệ trước đã tạo dựng; đồng thời góp phần tích cực trong việc
giáo dục hình thành những giá trị đạo đức, lối sống mới, khắc phục những quan
12


điểm lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị đạo đức truyền thống, những thói hư tật
xấu hay những hiện tượng phi đạo đức.
Giáo dục đạo đức, lối sống không chỉ làm cho con người nhận thức đúng
các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức, lối sống mà cịn thơng qua đó để
hình thành niềm tin và tình cảm đạo đức. Trên cơ sở đó giúp con người nhận ra

giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị và ý nghĩa cuộc sống mang tính
nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu sắc, góp phần nhân đạo hóa con người và đời
sống xã hội. Trong chiến lược phát triển con người, Đảng và Nhà nước ta đề cao
vai trò giáo dục đạo đức, lối sống cho cho học sinh - những chủ nhân tương lai
của đất nước. Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng
góp phần:
- Hồn thiện nhân cách cho học sinh thực hiện tốt những bổn phận đạo
đức của bản thân đối với việc học tập, rèn luyện, có trách nhiệm với gia đình và
xã hội.
- Nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh.
- Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm trong sáng, cao thượng.
- Bồi dưỡng ý chí, hành động đúng, hình thành những thói quen đạo đức,
lối sống đặc biệt là ý thức trách nhiệm công dân.
- Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những biểu hiện thiếu đạo đức trong tư
tưởng, tình cảm, hành động của học sinh. Xây dựng nếp sống văn minh, thanh
lịch, tích cực tham gia phòng chống tệ nạn xã hội.
- Hướng tới mục tiêu ngăn chặn tình trạng bạo lực trong học sinh; đảm
bảo an ninh, trật tự trong trường học, kiềm chế, đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp
luật trong học sinh.
Giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng các phẩm chất, năng lực cho người
học có vai trị rất lớn trong việc hình thành ý thức, tình cảm cũng như các hành
vi đạo đức của con người nói chung, của học sinh nói riêng. Đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo đức xã hội; trước những
biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên thì
cơng tác giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng phẩm chất và phát triển năng lực
cho học sinh càng trở nên quan trọng. Để hồn thành xuất sắc"sứ mệnh” của
mơn học, nhà giáo là yếu tố quyết định thành công của công tác giáo dục phẩm
chất, năng lực cho học sinh thông qua việc biết lựa chọn phương pháp giảng dạy
phù hợp, đáp ứng được yêu cầu về đổi mới phương pháp, thỏa mãn được yêu
13



cầu của người học; để từ đó, trang bị kiến thức và kỹ năng cho học sinh đạt hiệu
quả cao hơn.
3. Vai trị của bộ mơn Giáo dục cơng dân trong việc bồi dưỡng phẩm
chất và phát triển năng lực cho học sinh THPT
Vai trị của các mơn học đối với phát triển phẩm chất, năng lực theo các
mức độ khác nhau và thể hiện theo các mức độ như: Mơn học đóng vai trị chủ
yếu...; mơn học góp phần...; môn học tạo cơ hội phát triển năng lực cụ thể hoặc
theo nhóm năng lực.
Mơn học GDCD trong chương trình giáo dục phổ thơng đóng vai trị quan
trọng trong việc giáo dục đạo đức, giáo dục học sinh về ý thức và hành vi, góp
phần trang bị cho học sinh kỹ năng sống, rèn luyện ý thức sống của người cơng
dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực
cần thiết của công dân trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là
việc làm vừa mang tính cấp bách, vừa có tính lâu dài và cũng khơng hề đơn giản
trước những làn sóng văn hóa của thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế thị
trường. Đặc biệt là khi Nhà nước đang quyết tâm triển khai thực hiện có hiệu
quả việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng
phát triển phẩm chất, năng lực của người học, chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển con người tồn diện thì hơn bao giờ
hết, bộ mơn GDCD giữ một vị trí vơ cùng quan trọng, là môn học cần thiết,
không chỉ trang bị cho người học những tri thức đạo đức mà điều quan trọng là
rèn luyện cho học sinh thói quen, kỹ năng và thực hiện hành vi quan hệ giao
tiếp, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội.
Thứ nhất: Giáo dục cơng dân đóng vai trị quan trọng trong quá trình
hình thành phẩm chất, nhân cách học sinh.
Khi sinh ra mỗi học sinh giống như tờ giấy trắng, chính sự dạy dỗ của gia
đình, nhà trường và xã hội mà hình thành nên nhân cách một con người. Nhà
trường là nơi mà trẻ em được giáo dục đầy đủ nhất về các mặt như: trí tuệ, đạo

đức, thẩm mỹ…. Trong đó mơn giáo dục cơng dân đóng vai trị chủ đạo trong
việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Mơn giáo dục cơng dân hình thành cho các
em những tri thức, niềm tin đạo đức, từ đó hình thành nên các hành vi đạo đức
và động cơ đạo đức tương ứng. Mơn học khơi gợi cho học sinh tình yêu đất
nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực và trách nhiệm. Những
hành động sai thường bắt nguồn từ những quan điểm sai lệch, chính vì vậy mà
ngay từ dầu chúng ta phải hướng các em học sinh đến những quan điểm đạo đức
14


đúng đắn, phù hợp với quan niệm đạo đức của xã hội, để hình thành nên những
thói quen đạo đức tốt. Giáo viên trực tiếp là người uốn nắn những tư tưởng sai
lệch của học sinh, chỉ ra cho các em cái gì là đúng là phù hợp với quan niệm đạo
đức của xã hội, điều gì là chưa đúng để các em kịp thời sửa chữa.
Thứ hai: Giáo dục công dân là môn học cung cấp cho học sinh cái
nhìn đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan.
Trong cuộc sống biết nhìn nhận mọi vấn đề một cách khách quan, khơng
áp đặt ý kiến chủ quan của mình. Nhận thức đúng đắn quá trình hình thành và
phát triển của thế giới. Tin tưởng vào sự phát triển của xã hội, tránh xa những hủ
tục, lạc hậu và mê tín dị đoan. Trở nên bình tĩnh trước mọi tình huống của cuộc
sống. Có thái độ cầu thị trong học tập, rèn luyện và lao động sản xuất. Tránh cho
học sinh tư tưởng chủ quan, coi thường việc nhỏ. Đây là những đức tính tốt giúp
ích rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu của học sinh sau này. Là con
đường để hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: Giáo dục công dân là phương tiện hữu hiệu để giúp học sinh
hình thành và phát triển các năng lực, kỹ năng sống. Kỹ năng sống của học sinh
là khả năng vận dụng những kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp…)
để giải quyết một nhiệm vụ. Bất cứ kỹ năng nào cũng dựa trên cơ sở lý thuyết.
Những kiến thức mà môn giáo dục cơng dân đã cung cấp cho học sinh chính là
những cơ sở đầy đủ và mang tính khách quan nhất. Kỹ năng quan trọng mà học

sinh tiếp nhận được khi học môn giáo dục công dân là những kỹ năng như: tự
học, giải quyết vấn đề, hợp tác, sáng tạo, sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, ứng….
Nhờ những kỹ năng này mà học sinh có thể tự tin hơn trong cuộc sống, sống có
trách nhiệm với bản thân gia đình và xã hội.
Như vậy có thể nói mơn giáo dục cơng dân có một vai trị vơ cùng to lớn
đối với việc giáo dục phẩm chất, phát triển năng lực cho học sinh. Nó giúp cho
học sinh có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để ứng xử phù hợp trong cuộc
sống. Việc dạy học có hiệu quả mơn giáo dục công dân sẽ giúp giảm thiểu
những tệ nạn xã hội đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra trong xã hội. Xây dựng
mơi trường văn hóa học đường lành mạnh, khơng cịn lối ứng xử thiếu văn hóa,
khơng cịn tình trạng bạo lưc trong giáo dục, một xã hội chỉ có tình u thương,
sự tơn trọng, sống trung thực, trách nhiệm, xây dựng hịa bình, hạnh phúc.

15


B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
I. Thực trạng vấn đề đạo đức, lối sống của học sinh THPT hiện nay
1. Những biểu hiện tích cực về đạo đức, lối sống của của học sinh
Có thể khẳng định rằng, cơng tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh hiện nay đã có nhiều tiến bộ; sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong
tồn bộ hệ thống chính trị được tăng cường; việc phối hợp giữa nhà trường, gia
đình và xã hội để chung tay giáo dục học sinh có lối sống lành mạnh, tích cực
học tập, nghiên cứu khoa học và sống có trách nhiệm đã được quan tâm đúng
mức. Học sinh hiện nay nói chung và học sinh trường THPT Hoa Lư A nói riêng
có tinh thần yêu quê hương đất nước, tin tưởng, chấp hành đường lối, chủ
trương, sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của nhà nước. Đa số học sinh đều xác
định được mục tiêu sống, có lý tưởng phấn đấu rõ ràng với động cơ học tập
nghiêm túc; tích cực tham gia các hoạt động, các phong trào thanh niên vì cộng
đồng, vì xã hội; biết chia sẻ, hỗ trợ những người có hồn cảnh khó khăn.

* Về phẩm chất, tư tưởng chính trị: Hầu hết học sinh có tinh thần u quê
hương đất nước, tin tưởng và chấp hành đường lối, chủ trương, sự lãnh đạo của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đa số học sinh đồng ý việc cần thiết phải giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập với thế giới hiện nay; quê hương, cội
nguồn dân tộc vẫn là quan trọng.
Đa số học sinh đều xác định được mục tiêu cuộc sống, có lí tưởng phấn đấu rõ
ràng với động cơ học tập nghiêm túc, tích cực và chủ động với tinh thần vượt khó; có
ý chí vươn lên trong học tập, rèn luyện và đưa ra được yêu cầu tính tích cực, chủ
động, linh hoạt là yếu tố quan trọng giúp học sinh thành công trong học tập.
* Về phẩm chất đạo đức: Đa số học sinh có nhận thức và hành vi trân
trọng các giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Các phẩm chất như
nhân ái, tương thân tương ái giúp đỡ nhau, sống có nghĩa tình, cần cù kiên trì,
hiếu học, tơn sư trọng đạo, trung thực, đoàn kết được đại đa số học sinh nhận
thức và phát huy. Hầu hết học sinh có ý thức trách nhiệm với gia đình, với việc
học tập rèn luyện và bản thân.
Học sinh đều biết và thực hiện sống, làm việc tuân thủ theo pháp luật; ý
thức và trách nhiệm công dân được tăng cường hơn rất nhiều. Học sinh tích cực
tham gia các hoạt động tập thể, các phong trào, xung kích, sáng tạo, tình nguyện
vì cộng đồng. Phong trào tình nguyện do Trung ương Đoàn Thanh niên, Hội
Sinh viên Việt Nam tổ chức đã trở thành phong trào chung, thường xuyên trong
tất cả các nhà trường với nhiều hình thức phong phú.
16


* Về lối sống, kỹ năng sống: Học sinh THPT hiện nay đều có lối sống
lành mạnh, biết chia sẻ, hỗ trợ người có hồn cảnh khó khăn trong các phong
trào quyên góp ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thiên tai.
Phần lớn học sinh có lối sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, phong phú và
phê phán những tiêu cực, tệ nạn xã hội và các hành vi trái thuần phong mĩ tục

của dân tộc, không sa vào tệ nạn xã hội. Tích cực tham gia các hoạt động, phong
trào thi đua, cuộc vận động do ngành Giáo dục và các đoàn thể xã hội tổ chức
phát động.
Trong cuộc sống hiện đại, với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng thì mọi người cần hợp tác với nhau hơn. Học sinh quan niệm rằng hợp tác
giúp tạo nên sức mạnh và khiến cho công việc đạt hiệu quả hơn. Đồng thời, học
sinh vẫn giữ được nếp sống yêu lao động, tiết kiệm, giản dị, khiêm tốn, tôn trọng
sự khác nhau về cá tính và tơn trọng người khác.
Như vậy, hầu hết học sinh THPT ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với
Tổ quốc và gia đình và bản thân, ra sức phấn đấu lao động, học tập, rèn luyện về
mọi mặt với khát vọng cống hiến hết mình vì tương lai tươi sáng của dân tộc.
2. Những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống của học sinh
Phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị
trường cũng như của xu thế tồn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc
trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận học sinh ở nước ta đang có những biểu
hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng: Không chịu học tập, học lấy
vì, gian dối trong thi cử kiểm tra, học tập mang tính gị ép của cha mẹ, cho rằng
sướng khổ do số trời….
- Một bộ phận không nhỏ chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu
dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu
lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật ...điều
này thể hiện rõ qua biểu hiện: Thiếu lễ phép với với cha mẹ, thầy cơ..thích gây
gổ, quấy rối, đánh nhau, trộm cắp, cướp giật mà những điều đó cũng bởi vì đam
mê cờ bạc, số đề, nghiện chơi game….
- Những biểu hiện đó làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn,
tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là khi chưa được trang bị và thiếu
kiến thức về vấn đề này.
Tất cả những suy nghĩ lệch lạc đó dần dần ảnh hưởng xấu đến động cơ,
ước mơ hồi bảo vươn lên: lý tưởng trống rỗng, mục đích trông chờ, mờ nhạt, tư
tưởng thực dụng…


17


Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản
thân, gia đình, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và
văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực thù
địch đang"chờ đợi” và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến
hành chiến lược"diễn biến hịa bình” hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển
của cách mạng Việt Nam.
Cụ thể, đạo đức trong học đường đang có nguy cơ xuống cấp, mơ hồ về
truyền thống dân tộc, chê bai tinh hoa dân tộc trong khi đó đua địi sính
ngoại…. Một bộ phận học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường;
khơng kính trọng thầy cô, xem thường bạn bè, mọi người xung quanh; khơng
hiếu thảo với ơng bà cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê games bỏ học hoặc
tự tử vì games, vì yêu đương …
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra con số thống kê (chưa
đầy đủ) thì từ năm 2009 đến nay, học sinh, sinh viên liên quan đến trên 8.000 vụ
việc pháp luật hình sự, trong đó các hành vi gây rối trật tự cơng cộng có 935 vụ,
tội phạm ma túy có 357 vụ, giết người có 37 vụ, trên 6.000 vụ trộm, cướp tài
sản…Bạo lực học đường tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn xảy ra tại nhiều địa
phương. Tình trạng học sinh, sinh viên bỏ học, bỏ nhà sống lang thang, tụ tập
thành băng nhóm gây rối trật tự công cộng, phạm pháp diễn biến phức tạp. Theo
báo cáo sơ bộ của công an 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, từ năm 2010 đến
nay, có trên 7.700 học sinh, sinh viên tham gia đánh nhau, bị xử lý kỷ luật.
Đối với học sinh trường THPT Hoa Lư A cũng cịn có những học sinh bộc
lộ một số biểu hiện chưa tốt về đạo đức, lối sống, lý tưởng:
- Một số học sinh có biểu hiện chán nản, khơng thích học, khơng xác định
được động cơ học tập nên bỏ học hoặc học để lấy tấm bằng tốt nghiệp THPT.
- Một số học sinh thường xuyên vi phạm, không chấp hành nội quy của

nhà trường: đi học muộn, không thực hiện đồng phục học sinh, nghỉ học khơng
lí do, gây mất trật tự trong lớp, nói tục, nói dối thầy cơ và bạn bè; để các kiểu
tóc, ăn mặc phản cảm…
- Còn hiện tượng học sinh bỏ học đi chơi điện tử; hút thuốc lá.
- Có hiện tượng gây gổ gây gổ đánh nhau trong trường, có các hành vi
ngơn ngữ, ứng xử thiếu văn hóa.
Trước thực trạng đó, công tác bồi dưỡng phẩm chất, giáo dục đạo đức, kỹ
năng sống, phát triển năng lực của học sinh được các cơ sở giáo dục, các nhà
giáo tích cực triển khai thực hiện với nhiều cách thức khác nhau và đem lại hiệu
quả nhất định, trong đó, hình thức giáo dục qua hoạt động ngoài giờ lên lớp thu
18


hút được sự quan tâm, tạo ra hứng thú mạnh mẽ với học sinh phổ thơng, nhờ đó
có ảnh hưởng tích cực đến phẩm chất, năng lực của học sinh.
II. Thực trạng việc bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực cho học
sinh THPT trong môn học Giáo dục công dân và những nguyên nhân tồn tại
1. Thực trạng việc bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực cho học
sinh THPT trong môn học Giáo dục công dân
Mặc dù bộ mơn GDCD có vai trị quan trọng trong giáo dục đạo đức, bồi
dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
THPT, song đến thời điểm hiện nay, trong tâm niệm của của đa số phụ huynh và
học sinh vẫn còn lối suy nghĩ bộ môn GDCD là bộ môn phụ trong nhà trường, là
môn học khơng có trong các kỳ thi quan trọng như thi tốt nghiệp hay thi đại học
nên học sinh thường học chỉ để có đủ điểm, bỏ qua vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu
thêm kiến thức đằng sau mỗi bài học, thậm chí là học qua loa, học cho xong.
Mặc dù từ năm học này, môn GDCD đã trở thành một trong những môn thi tự
chọn trong kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia nhưng người học chưa thực sự quan
tâm học tập, nhất là những học sinh không chọn thi khối khoa học xã hội. Thực
trạng đó đã và đang tác động tiêu cực tới tâm lí của người dạy. Một bộ phận giáo

viên tâm huyết với nghề, với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nhưng khơng ít giáo
viên thiếu sự đầu tư, tìm tịi suy nghĩ để cải tiến phương pháp giảng dạy, nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức, bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực của
người học. Dù các trường đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong đổi mới phương
pháp giảng dạy nhưng vẫn cịn"bó khung” trong khn khổ của lớp học, giờ dạy
nặng tính lý thuyết, thiếu những tư liệu, trích đoạn"người thật việc thật”, những
tình huống"thật”… cho nên sức thuyết phục, độ cảm xúc của bài dạy chưa cao.
Hơn nữa thời lượng dành cho mơn GDCD chỉ có 1 tiết/ tuần mà lượng kiến thức
thì khá nhiều, khơng chỉ riêng nội dung chính thức mà nhiều nội dung giáo dục
khác nhau cũng"bị giao" cho mơn GDCD để"tích hợp” nên việc dạy học mang
nặng tính khái qt, giáo viên khơng có nhiều thời gian giảng dạy cặn kẽ cho
học sinh những nội dung, vấn đề nào đó mà học sinh có nhu cầu tìm hiểu sâu
hơn. Sự khó khăn về thời gian và kinh phí khiến mơn học thiếu điều kiện tốt
nhất để thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình. Cơng tác phối hợp giữa cấp uỷ,
Ban Giám hiệu với tổ chức Cơng đồn, Đồn Thanh niên, Hội Phụ huynh, giáo
viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn đã được thực hiện nhưng vẫn chưa phát huy
hết nội lực, mối tương quan trách nhiệm giữa nhà trường, gia đình và xã hội
trong việc giáo dục đạo đức cho các em chưa được thể hiện rõ nét. Từ đó, phần
lớn tại các trường vẫn cịn tình trạng một bộ phận nhỏ học sinh chấp hành chưa
19


nghiêm túc nội quy nhà trường, thiếu động cơ học tập, rèn luyện, chưa tích cực
lao động, chưa tự giá rèn luyện phẩm chất, đạo đức cần thiết và quan trọng, do
đó, kỹ năng sống thiếu và yếu…Chính vì vậy, tích cực đổi mới phương pháp dạy
học, tạo điều kiện cho người học được chủ động học tập, nghiên cứu và vận
dụng tri thức vào thực tiễn đã và đang được Bộ Giáo dục và đào tạo triển khai
sâu rộng trong ngành giáo dục. Lựa chọn những giải pháp tích cực, tiên tiến nhất
để áp dụng trong môn GDCD nhằm thực hiện mục tiêu bồi dưỡng phẩm chất,
phát triển năng lực cho học sinh là vấn đề cần thiết và phải triển khai mạnh mẽ,

kịp thời, có hiệu quả trên cơ sở điều kiện nhà trường, giáo viên và học sinh.
2. Nguyên nhân của của những tồn tại
Bất kỳ một lỗi lầm nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa của
nó. Đạo đức, lối sống của học sinh ngày càng suy thối, bị"tha hóa”, chất lượng
giảng dạy mơn GDCD còn hạn chế xuất phát từ 2 nguyên nhân cơ bản sau:
* Nguyên nhân khách quan
- Về phía gia đình: Đối với gia đình cha mẹ sống hịa thuận, có điều kiện
phát triển về kinh tế, cha mẹ có điều kiện và thời gian chăm sóc, yêu thương và
quan tâm đến việc ni dạy con cái thì trẻ sẽ có phẩm chất đạo đức tốt. Cịn đối
với những gia đình thiếu về vật chất, cha mẹ phải bơn ba lo cuộc sống thì việc
giáo dục con cái bị sao nhãng...điều này cũng ảnh hưởng đến việc hình thành
nhân cách lối sống của các em. Bên cạnh điều kiện sống của gia đình, tấm
gương đạo đức của cha mẹ cũng là ngọn đuốc soi sáng và giáo dục đạo đức cho
con cái. Cha mẹ có lối sống lành mạnh, hịa nhập, sống thiện, sống tốt, có lịng
nhân nghĩa và biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh, hiếu thảo với ơng
bà cha mẹ… thì con cái cũng học tập và có những phẩm chất tốt đẹp của cha mẹ
vì"gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Ngược lại, nếu trẻ sống trong gia đình mà
cha mẹ gây cãi, đánh nhau, rượu chè cờ bạc… cũng ảnh hưởng xấu đến việc
hình thành nhân cách và đạo đức của các em.
Hơn nữa, cuộc sống hôn nhân của cha mẹ cũng quyết định quá trình hình
thành đạo đức của trẻ. Cha mẹ có cuộc sống hơn nhân hạnh phúc, quan tâm,
thương u giúp đỡ và chia sẽ lẫn nhau những khó khăn trong cuộc sống luôn
tạo ra một niềm tin và định hướng cho con cái phát triển. Ngược lại, cuộc sống
hôn nhân của cha mẹ không hạnh phúc, đỗ vỡ sẽ tạo ra một áp lực lớn về tinh
thần cho con cái, làm cho con cái chán nản, bi quan trong cuộc sống, dễ rơi vào
tệ nạn xã hội, đạo đức bị suy thoái.
Mặt khác, do nhu cầu thực dụng của phụ huynh về nghề nghiệp và cuộc
sống trong tương lai cho con, họ chỉ quan tâm đầu tư đến các môn học để thi Đại
20



học nên xem nhẹ mơn GDCD. Thậm chí, nhiều bậc phụ huynh ít quan tâm đến
giáo dục đạo đức cho con, chỉ chú ý đến việc đáp ứng các nhu cầu vật chất của
con.
- Về phía nhà trường: Thực tế cho thấy, nhiều trường học chưa quan tâm
thích đáng đến công tác giáo dục đạo đức, bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng
lực cho học sinh. Khó khăn lớn nhất của nhà trường là phải chú trọng thực hiện
các mục tiêu khác được cho là quan trọng hơn. Bên cạnh đó, một số giáo viên
chỉ chú trọng dạy chữ mà chưa quan tâm đến việc dạy học sinh cách làm người.
Một phần do thời lượng chương trình khơng cho phép giáo viên bộ môn dừng lại
để uốn nắn học sinh. Một phần do môn GDCD chưa được coi trọng đúng mức,
giáo viên thiếu sự đầu tư giảng dạy để đạt chất lượng cao nhất. Hơn nữa, với
thời lượng 1 tiết/tuần, dù nỗ lực thì giáo viên dạy mơn GDCD cũng rất khó khăn
trong bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực cho học sinh do nội dung
chương trình mang tính hàn lâm, nặng về lí thuyết, nội dung đạo đức, kỹ năng
sống chưa được đặt ở một vị trí xứng đáng với tầm quan trọng vốn có. Thơng
qua các tiết dạy, giáo viên vừa trang bị kiến thức, vừa trang bị kỹ năng sống và
giáo dục đạo đức trong học sinh, cho nên, hiệu quả đạt được chỉ ở một mức độ
nhất định.
- Về phía xã hội: Mơi trường xã hội ảnh hưởng khơng nhỏ vào việc hình
thành nhân cách của mỗi cơng dân nói chung và mỗi học sinh nói riêng do tác
động của mặt cơ chế thị trường làm cho trẻ vị thành niên bị cám dỗ vào lối sống
hưởng thụ, thực dụng, ích kỉ …. Mơi trường sống xung quanh cùng với những tệ
nạn xã hội đang diễn ra tràn lan và ngày càng xâm nhập sâu vào học đường cũng
là nguyên nhân gây ra sự suy thối về đạo đức….
*Ngun nhân chủ quan
Từ chính bản thân của các em học sinh: Do các em chưa phát triển đầy
đủ về tâm sinh lí, ở giai đoạn này trẻ ln hướng tới sự ham thích mới lạ, hiếu
động trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống cịn hạn chế, thiếu bản lĩnh khả
năng kiềm chế chưa cao dễ bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội... Trong khi đó, mơn

GDCD ở bậc THPT lại bao hàm hệ thống kiến thức mang tính lí luận, khơ khan,
trừu tượng, thiếu hấp dẫn. Đồng thời, đó là mơn khơng thi Đại học nên các em
thiếu quan tâm thích đáng. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng giáo dục
nói chung và mơn GDCD nói riêng.

21


Chương II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT,
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH THPT QUA MÔN HỌC
GIÁO DỤC CÔNG DÂN
A. SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC TRONG GIẢNG DẠY MƠN
GIÁO DỤC CƠNG DÂN TRONG GIỜ NỘI KHĨA
I. Tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng dạy học
Dạy học trực quan (hay cịn gọi là trình bày trực quan) là PPDH sử dụng
những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau
khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, khi củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo. Phương pháp dạy học trực quan được thể hiện dưới hình thức là
minh họa và trình bày:
+ Minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính chất minh
họa như bản mẫu, bản đồ, bức tranh, tranh chân dung, hình vẽ trên bảng…
+ Trình bày thường gắn liền với việc trình bày thí nghiệm, những thiết bị
kĩ thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video. Trình bày thí nghiệm
là trình bày mơ hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn cẩn thận
về mặt sư phạm. Nó là cơ sở, là điểm xuất phát cho quá trình nhận thức - học tập
của HS, là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Thơng qua sự trình bày của giáo
viên mà học sinh khơng chỉ lĩnh hội dễ dàng tri thức mà còn giúp các em học tập
được những thao tác mẫu của GV từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo…
Đồ dùng dạy học ở đây được hiểu là những phương tiện, thiết bị vật chất
được sử dụng trong quá trình dạy học như: Tư liệu, câu chuyện, tranh, ảnh, bản

đồ, biểu đồ, sơ đồ, bản thống kê, số liệu, phim tình huống, phim tư liệu, trị
chơi…Ngồi ra, ta có thể sử dụng một số đồ dùng thơng thường trong gia đình,
trong sinh hoạt: Dùng để sắm vai, chơi trò chơi ...
Như vậy đồ dùng dạy học ở đây còn bao gồm cả đồ dùng dạy học trực
quan, do đó có nhiều kiểu và loại đồ dùng dạy học khác nhau nhưng chức năng
của chúng là tích hợp và cơ động. Mỗi đồ dùng dạy học đều có thể thực hiện
một trong các chức năng sau:
- Truyền thụ tri thức
- Giới thiệu vào bài
- Thơng báo hay trình bày thơng tin.
- Minh họa, giải thích, mơ tả trực quan.
- Tổ chức và tiến hành các hoạt động học tập.
- Hình thành kĩ năng
- Phát triển hứng thú học tập
- Kết thúc bài học và giáo dục học sinh
22


Đồ dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nâng cao chất
lượng dạy và học, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
học sinh có hiệu quả nhất. Đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thơng tin
và nó cịn là nội dung của quá trình truyền thụ tri thức giáo dục tư cách, rèn
luyện kỹ năng thực hành cho HS. Nó điều khiển mọi hoạt động tư duy của học
sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nó tác động lớn trong việc
phát huy năng lực chủ động, sáng tạo, tích cực ở học sinh, kích thích hứng thú
trong việc dạy và học của thầy và trò. Đặc biệt sử dụng đồ dùng hợp lí bao giờ
cũng cho những kết quả đúng về tính khoa học sư phạm và tính mĩ thuật, các giờ
học trở nên sinh động, hiệu quả hơn.
II. Thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học trong giảng dạy mơn GDCD
- Về phía giáo viên:

Đổi mới phương pháp dạy học là xu thế của thời đại, là trào lưu chung
của loài người, là mệnh lệnh của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là sự địi hỏi của sự đáp ứng yêu cầu về đào tạo
nguồn nhân lực trong điều kiện thị trường lao động đầy cạnh tranh của con em
chúng ta,...chứ không phải là ý muốn chủ quan của một người hoặc một nhóm
người nào đó.
Như chúng ta đều biết dạy học môn GDCD trước đây thường thiên về giải
thích cho học sinh hiểu khái niệm, các giá trị và chuẩn mực, sau đó buộc các em
phải chấp nhận. Cụ thể là: đối với các bài học thuộc chuẩn mực đạo đức thì giáo
viên yêu cầu học sinh trình bày khái niệm đã có sẵn trong sách giáo khoa, sau đó
giáo viên lấy ví dụ minh họa rồi học sinh có thể dựa vào đó lấy thêm ví dụ. Trên
cơ sở tìm hiểu đó, học sinh áp dụng vào làm bài tập liên quan. Còn đối với các bài
học thuộc quy phạm, chuẩn mực pháp luật, bài học về các chính sách kinh tế,
chính trị xã hội thông thường trước đây giáo viên thường dựa chủ yếu vào các qui
định có sẵn trong sách giáo khoa để phổ biến cho học sinh. Ngồi ra giáo viên có
thể phân tích, giải thích tại sao lại phải qui định như vậy, tại sao phải đề ra các
chính sách đó. Tuy nhiên, bài học chỉ dừng lại ở mức hiểu những qui định,
phương hướng trong một phạm vi nhất định chứ khơng có nhiều liên hệ thực tế,
khơng có cơ hội được thể hiện, không phát triển được năng lực học sinh.
Trong mấy năm gần đây, bộ môn GDCD đã đổi mới nhiều trong các khâu
cơ bản của quá trình dạy học. Bài học GDCD diễn ra sinh động, hấp dẫn, khơng
khí học tập sơi nổi, hứng thú, học sinh được hoạt động nhiều hơn, tích cực làm
việc một cách độc lập, có phần sáng tạo. Nhiều giáo viên dạy GDCD có năng
lực tổ chức q trình học tập theo quan niệm sư phạm hiện đại, vận dụng các
phương pháp mới đạt hiệu quả, bên cạnh những cách dạy học truyền thống; có
23


nhận thức đúng đắn về đổi mới phương pháp dạy học. Đặc biệt, một số giáo viên
đã tích cực sử dụng phương tiện, đồ dùng trực quan dạy học có hiệu quả góp

phần quan trọng vào việc rèn luyện năng lực tích cực, độc lập suy nghĩ, sáng tạo
nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình học tập; giúp học sinh nắm
vững, hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn hệ thống kiến thức của môn học, rèn luyện cho
học sinh kĩ năng tư duy, lôgic…Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức nói
chung, tinh thần chun cần trong lao động học tập, thái độ vượt khó nói riêng,
biết quý trọng lao động. Năm học 2014 - 2015, Bộ giáo dục triển khai việc đổi
mới trong dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát triển năng lực của học sinh.
Bên cạnh việc cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống, kết hợp đa dạng
các phương pháp dạy học thì việc tăng cường sử dụng phương tiện, đồ dùng trực
quan dạy học góp phần quan trọng trong việc phát triển năng lực tư duy, năng
động, sáng tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề thực tiễn của học sinh.
Song đơi khi vì nhiều lí do, do điều kiện khách quan, điều kiện chủ quan
cũng có, làm cho trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên không
phải lúc nào cũng thành công, cũng mang lại hiệu quả cao. Chẳng hạn một thực
tế hiện nay các nhà trường THPT nói chung và trường tơi nói riêng đã trang bị
các phương tiện phục vụ cho giảng dạy từng bước được tăng cường hơn trước
như máy tính, máy chiếu, mạng Internet...Tuy thế nhưng hầu như các trường đều
chưa có điều kiện lắp đặt máy tính, máy chiếu cho tất cả các phịng học, chỉ có
một số phịng học được trang bị máy chiếu, máy tính... Do đó, giáo viên khơng
thể ứng dụng CNTT trong mọi giờ dạy hàng ngày. Chính vì thế, truyền thụ tri
thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số
giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng các phương pháp
dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn hạn chế. Dạy
học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí thuyết. Việc rèn luyện kĩ năng sống, kĩ
năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận
dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. Trong giờ học, học sinh
được hoạt động ít, thụ động, giờ học khơng sinh động, khơng gây hứng thú cho
học sinh, thậm trí có những em cịn ngủ trong giờ khơng ghi chép bài, vì đồ
dùng dạy học ít được sử dụng hoặc sử dụng một cách hình thức. Nên đó chưa
phải là phương pháp tích cực vì học sinh chưa thực sự có cơ hội để thể hiện thái

độ, lập trường năng hực của cá nhân mình. Những giờ học như vậy, học sinh ít
có khả năng sáng tạo, khám phá, khơng gây hứng thú cho người học.
Trên thực tế có nhiều giáo viên đã sử dụng phương tiện, đồ dùng trực
quan dạy học, tuy nhiên sử dụng đồ dùng dạy học để phát triển năng lực cho học
sinh một cách có hiệu quả nhất thì cịn nhiều hạn chế.
24


- Về phía học sinh: Các em thường hay rụt rè khi được yêu cầu phát biểu,
thường chỉ một vài em tích cực từ đầu năm đến cuối năm ln ln phát biểu,
cịn có em ngại nói, ít tư duy, khơng cần quan tâm đến giờ học những gì, có thái
độ bàng quan trong giờ. Nếu thầy, cô không yêu cầu trả lời câu hỏi thì các em sẽ
tiếp thu bài học một cách khiên cưỡng, khơng tích cực phát huy vai trị của mình
trong giờ học. Vì vậy phần lớn học sinh ngại học GDCD, khơng thích học
GDCD. Hầu hết các em coi môn GDCD là môn phụ không cần học, nếu có học
chỉ để được cho điểm, khơng cần đọng lại gì trong đầu về các bài học đạo đức,
pháp luật đặc biệt các em cịn có thái độ ái ngại và chán nản hơn khi học các bài
học về kinh tế, chính trị,.. Học sinh học GDCD một cách thụ động, chỉ biết ghi
chép, học thuộc như một cái máy....
Tại sao học sinh lại khơng u thích với môn GDCD, giờ học GDCD? Do
nội dung bài học mang tính lí luận trừu tượng hay vì người dạy chưa có phương
pháp thích hợp? Tơi đã tiến hành khảo sát tâm lí 350 học sinh đang học lớp 11,
kết quả trắc nghiệm như sau:
BẢNG KHẢO SÁT TÂM LÍ
STT
Nội dung
Có (%) Khơng (%)
1 Em có quan tâm đến bộ mơn GDCD khơng?
51,5
48,5

2 Em có u thích giờ học GDCD khơng?
71,0
28,5
Em có thích những tranh, ảnh minh họa bài
3
98,0
2,0
học GDCD khơng?
Em có thích những phim tư liệu, Video clip
4
100
0
tình huống... minh họa bài học GDCD khơng?
Em có thích những câu chuyện minh họa bài
5
100
0
học GDCD khơng?
Em có thích những trị chơi được tổ chức
6
87,0
13,0
trong giờ GDCD khơng?
Em có thích những biểu đồ minh họa bài học
7
96,0
4,0
GDCD khơng?
Em có thích nội dung bộ mơn GDCD mang
8

0
100
nặng tính lí luận trừu tượng khơng?
9 Em thích mơn GDCD vì cơ giáo dạy rất hay? Đúng: 100
Sai: 0
Qua kết quả điều tra, số học sinh u thích mơn GDCD cịn thấp do nội
dung chương trình mang nặng tính lí luận trừu tượng. Và các phương pháp giảng
dạy có sử dụng hiệu quả một số đồ dùng dạy học thích hợp đã đem lại sức hấp
dẫn đáng kể cho giờ học GDCD.

25


×