Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Xây dựng nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã hội người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.38 KB, 28 trang )

MỤC LỤC

1.1.

Trang
4
Một số vấn đề lý luận về nhóm xã hội giáo viên và nhóm
7
xã hội người học
7
Khái quát chung về nhóm xã hội

1.2.

Nhóm xã hội giáo viên

8

1.3.

Nhóm xã hội học sinh
Nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã hội học viên

9
11

trong nhà trường quân sự
Thực trạng và nguyên nhân của nhóm xã hội giáo viên

18


2.1.

và nhóm xã hội học viên trong nhà trường quân sự
Thực trạng của nhóm xã hội giáo viên

18

2.2.

Thực trạng của nhóm xã hội học viên

20

2.3.

Nguyên nhân của những tồn tại của nhóm xã hội giáo

20

3.

viên và nhóm xã hội học viên
Giải pháp xây dựng nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã

21

MỞ ĐẦU
1.

1.4.

2.

hội học viên ở các nhà trường quân sự
3.1.

Giải pháp xây dựng nhóm giáo viên

22

3.2.

Giải pháp xây dựng nhóm học viên

26

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

29
30

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận

3


Xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung; là
đặc thù của sự phát triển và vận hành của các hệ thống xã hội xác định về mặt
lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các

quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và
các dân tộc. Như vậy, xã hội học là khoa học nghiên cứu các quy luật hình
thành, vận động và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội. Mặt khác
tư duy về xã hội học đã hình thành rất sớm, từ khi con người sống thành các tập
đoàn xã hội, con người đã quan tâm nghiên cứu quan hệ giữa các con người xã
hội, giữa các nhóm xã hội và tập đoàn xã hội; quan hệ giữa con người xã hội
với nhóm xã hội và xã hội, đặt cơ sở cho sự hình thành xã hội học. Xã hội học
trở thành khoa học độc lập vào thập kỷ 30 thế kỷ XIX khi mà tư duy về xã hội
học đã chín muồi để có thể xây dựng hệ khái niệm, phạm trù, cơ cấu, chức năng
và phương pháp nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh.
Xã hội học giáo dục là một chuyên ngành còn non trẻ, vẫn còn mới
đối với nước ta. Hiện nay, xã hội học giáo dục đang phát triển mạnh mẽ do
có sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
đồng thời còn do nhu cầu của thực tiễn nền giáo dục nước ta đặt ra. Do vậy,
xã hội học giáo dục là một chuyên ngành giáp ranh giữa xã hội học và giáo
dục học, bởi xã hội học giáo dục là một lĩnh vực xã hội học ứng dụng
chuyên ngành nghiên cứu hệ thống giáo dục với tư cách là một thiết chế xã
hội, nghiên cứu mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa hệ thống đó
và các phân hệ của nó với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của xã hội,
với cơ cấu giai cấp - xã hội, chính trị, khoa học, văn hoá…của xã hội đó và
nghiên cứu các nhóm liên quan trực tiếp đến quá trình xã hội hoá cá nhân và
cá thể hoá, nhất là việc thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Là một
bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, trong những năm qua, các nhà
trường quân sự luôn xác định: nâng cao chất lượng quá trình giáo dục - đào
tạo là một yêu cầu tất yếu, thường xuyên nhằm không ngừng đáp ứng việc
chuẩn bị nguồn lực con người trong quân đội. Chất lượng quá trình giáo dục
- đào tạo của các nhà trường quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng
4



quan trọng và quyết định nhất vẫn là chất lượng hoạt động của giáo viên và học
viên. Đây là hai nhóm xã hội giáo dục cơ bản quy định việc thực hiện vai trò,
chức năng của nhà trường. Đồng thời, theo nghiên cứu của xã hội học giáo dục
cho thấy, sự tác động của nhóm sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành, phát
triển ý thức, nhân cách của mỗi cá nhân, vì mỗi cá nhân luôn chịu sự tác động
của các quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực và giá trị của nhóm xã hội mà mình
tham gia theo hướng tiếp nhận, tuân thủ phù hợp với đòi hỏi chung của nhóm.
Vì vậy, xem xét dưới góc độ quá trình giáo dục, nhóm giáo viên, học viên trong
nhà trường có vai trò như những nhà giáo dục.
Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề tích cực đã đạt được, các nhóm xã hội
giáo viên và học viên ở các nhà trường quân sự trong thời gian qua vẫn còn bộc
lộ nhiều hạn chế nhất định về mặt giáo dục nhân cách đối với học viên. Do đó,
nghiên cứu các nhóm xã hội giáo viên và học viên trong các nhà trường quân sự
là vấn đề cần thiết để đánh giá đúng thực trạng về vai trò, chức năng giáo dục
của các nhóm, để có cơ sở tìm ra các giải pháp phát huy vai trò giáo dục nhân
cách cho học viên quân sự nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của các
nhà trường quân sự hiện nay.
Với lý do như vậy, tác giả chọn nội dung: “Xây dựng nhóm xã hội
giáo viên và nhóm xã hội học viên ở các nhà trường quân sự” làm chủ đề
bài tiểu luận.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Nghiên cứu làm rõ nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã hội
học viên ở các nhà trường quân sự.
* Nhiệm vụ: Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản của lý luận về nhóm
xã hội giáo viên và nhóm xã hội học viên.
Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của nhóm xã hội giáo viên và
nhóm xã hội học viên ở các nhà trường quân sự.
Đề xuất giải pháp xây dựng nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã hội học
viên ở các nhà trường quân sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5


* Đối tượng nghiên cứu: Nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã hội học
viên ở các nhà trường quân sự.
* Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản
của nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã hội học viên trong các nhà trường
quân sự. Các tư liệu phục vụ cho tiểu luận giới hạn từ 2017 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiều luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn, trong đó chú trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử.
5. Giá trị, ý nghĩa của tiểu luận
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần làm sáng tỏ nhóm xã hội giáo
viên và nhóm xã hội học viên ở các nhà trường quân sự hiện nay.
6. Cấu trúc của tiểu luận
Tiểu luận gồm mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo.

NỘI DUNG

6


1. Một số vấn đề lý luận về nhóm xã hội giáo viên và
nhóm xã hội người học
1.1. Khái quát chung về nhóm xã hội
Theo xã hội học, nhóm xã hội được hiểu là một tập hợp người, trong
đó các cá nhân có mối liên hệ tương tác với sự tồn tại một kiểu cấu trúc
nhất định. Đó là một tập hợp người hiện thực cùng có thái độ tích cực vì
mục tiêu hoạt động chung, tính cộng đồng, cùng ý tưởng “sự nghiệp” và
trách nhiệm lẫn nhau. Trong nhóm xã hội luôn xác định vị trí xã hội, vị thế

của cá nhân trong đó hợp thành cơ cấu xã hội nhóm. Bầu không khí tâm lý
của nhóm (nhất là thái độ chung) là có sự liên tục, tự nguyện.
Đặc trưng chung của nhóm xã hội là sự hình thành nên các vị trí, vị
thế, địa vị xã hội của các cá nhân trong nhóm và mối liên hệ tác động lẫn
nhau giữa chúng, sự tác động đến toàn xã hội nói chung. Vì vậy, nghiên
cứu nhóm xã hội phải thấy được các vị thế, địa vị của mỗi cá nhân trong
đó và với xã hội trong đó; sự tương tác giữa tập thể nhóm và cá nhân; ảnh
hưởng của nhóm với xã hội và các nhóm khác; khuynh hướng vận động
phát triển của nhóm đó.
Nhóm xã hội là một khái niệm rất rộng, thể hiện ở nhiều dạng thức
khác nhau từ gia đình, lứa tuổi, giới tính, giai tầng…đến quy mô lớn nhỏ
khác nhau. Vì vậy các nghiên cứu của xã hội học cho thấy có rất nhiều loại
nhóm: nhóm lớn, nhóm nhỏ; nhóm chính thức, nhóm không chính thức;
nhóm ước lệ, nhóm hiện thực; nhóm sơ cấp, nhóm thứ cấp…tuỳ theo mục
đích và phương pháp tiếp cận nghiên cứu mà đề cập.
Xã hội học giáo dục, dựa trên khái niệm và những lí luận cơ bản của
xã hội học về “nhóm xã hội” để nghiên cứu các nhóm liên quan trực tiếp
đến quá trình xã hội hoá cá nhân và cá thể hoá, nhất là việc thực hiện mục
tiêu của nhà trường. Cụ thể là, nó quan tâm nghiên cứu sự tác động về mặt
giáo dục của nhóm xã hội đối với các cá nhân trong nhóm; nghiên cứu làm
rõ chức năng xã hội của các nhóm xã hội giáo dục. Vì vậy xã hội học giáo

7


dục thường đi sâu nghiên cứu về nhóm xã hội học sinh, nhóm xã hội giáo
viên, nhóm xã hội gia đình học sinh và một số nhóm xã hội liên quan gần,
xa đối với giáo dục. Khi nghiên cứu về nhóm xã hội học sinh, nhóm xã hội
giáo viên, hay một nhóm nào đó cần phải xem xét nó trên các khía cạnh cơ
bản như: thành phần cấu trúc nhóm, lịch sử phát triển, tính cơ động và xu

hướng của nó; vai trò chức năng xã hội của nhóm; các hành vi hành động
xã hội; mối liên hệ tương tác xã hội trong và ngoài nhóm; các chuẩn mực
giá trị của nhóm…để thấy được cấu trúc, chức năng, vị thế của nhóm trong
xã hội, đồng thời có biện pháp phát huy vai trò xã hội của nhóm đó.
1.2. Nhóm xã hội giáo viên
Nhóm xã hội giáo viên, hay còn gọi là nhóm xã hội người dạy là tập
hợp tất cả những người dạy, những người làm công tác giáo dục- đào tạo ở
các nhà trường.
Về cấu trúc của nhóm xã hội giáo viên, người ta xem xét trên các
vấn đề cơ bản là: Cấu trúc cán bộ giảng dạy và cán bộ công nhân viên; cấu
trúc giới, cấu trúc dân tộc trình độ chuyên môn; cấu trúc trong biên chế,
hợp đồng, trường công lập và các loại hình khác với phạm vi nhóm lớn.
Các nhóm nhỏ được xác định như khoa, tổ bộ môn, tập thể giáo viên theo
lớp…với tư cách là nhóm chính thức. Bên cạnh đó còn có các cấu trúc
nhóm nhỏ không chính thức hoặc phi hình thức hoá. Đối với những nhóm
xã hội giáo viên cấp độ quy mô nhỏ, người ta thường quan tâm nghiên cứu
các tổ chức đoàn thể, chuyên môn của giáo viên, đặc điểm các loại nhóm
đó và hệ thống các mối quan hệ nhóm…
Chức năng cơ bản, tất yếu của người dạy và nhóm xã hội người dạy là
giáo dục - đào tạo con người. Tuy nhiên, với tư cách là các chức năng xã hội,
việc giảng dạy và học tập luôn có quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau, quy
định lẫn nhau. Chúng vừa là yếu tố của sự phân công lao động xã hội, vừa là
những yếu tố cơ cấu xã hội đặc trưng cho tổ chức ngành giáo dục.
Phân tích đặc trưng của người dạy thấy vai trò tác dụng của cả cá
nhân và tập thể sư phạm. Sự thống nhất hành vi do sự phân công lao động
8


và hợp tác giữa các cá nhân trong hoạt động trên là nội dung và là cơ sở cho
sự hình thành nhóm xã hội người dạy và quy định chức năng xã hội của nhóm.

Chức năng giáo dục - đào tạo của giáo viên bao gồm các hoạt động
giảng dạy, bồi dưỡng và xây dựng nhân cách các thế hệ người. Đó là chức
năng xã hội phản ánh nghĩa vụ và trách nhiệm, cũng như quyền lợi, sự ưu
đãi xã hội đối với họ. Tính chất đặc biệt trong hoạt động của người dạy là ở
đối tượng và kết quả của hoạt động không đồng nhất về động cơ, mục đích
và phương thức. Đối tượng của hoạt động xã hội người dạy ở đây là đối
tượng kép: Các giá trị về phẩm chất, năng lực của nhân cách và đối tượng
giáo dục - đào tạo. Kết quả cuối cùng của hoạt động sư phạm là sự trưởng
thành về nhân cách của người học, không phải là vật chất thuần tuý hay tiền
bạc. Do đó, các nhà trường đòi hỏi rất cao về văn hoá sư phạm và định
hướng giá trị ở người dạy. Để phát huy vai trò giáo dục của người dạy,
nhóm xã hội giáo viên cần chú ý nhiều về thái độ, năng lực, uy tín của
người thầy trong xã hội và đối với nhóm xã hội người học trong việc xã hội
hoá cá nhân và cá thể hoá của học sinh.
Từ những lý luận chung về nhóm xã hội người dạy và nhóm xã hội
người học, sẽ tạo cơ sở cho việc nghiên cứu nhóm giáo viên, nhóm học viên ở
các nhà trường quân sự nhằm giúp tìm giải pháp phát huy tốt vai trò nhà giáo
dục của các nhóm đó trong quá trình giáo dục nhân cách học viên.
1.3. Nhóm xã hội học sinh
Nhóm xã hội học sinh hay còn gọi là nhóm xã hội người học bao gồm
tất cả những người đi học tạo nên những nhóm lớn và nhóm nhỏ. Nhóm xã
hội học sinh được xem xét trên nhiều mặt như: Tổng số người đi học theo
bậc học, ngành học, dân tộc, giới tính, vùng lãnh thổ, loại hình trường lớp…
Những số liệu về chúng đã được nghiên cứu trong những năm qua cho thấy
trên 25% dân số cả nước là những người đi học, tạo nên một bộ phận lớn
trong cấu trúc xã hội, một nhóm lớn xã hội người học. Điều này kèm theo
những chỉ báo phân hệ của nhóm như giới tính, dân tộc, ngành học…đã là cơ
sở cho các vấn đề xã hội và phương hướng hoạch định giáo dục tầm vĩ mô.
9



Cụ thể như: vấn đề bình đẳng về cơ hội học tập đối với các vùng, các giới,
các dân tộc; vấn đề dân trí và văn hoá; sự tương quan giữa cấu trúc nhóm xã hội
học sinh trong cấu trúc toàn xã hội, vấn đề di động xã hội…
Để phục vụ tốt hơn quá trình giáo dục cho người học ở các nhà
trường, người ta quan tâm hơn đến việc nghiên cứu nhóm xã hội học sinh
ở cấp độ, quy mô thấp, nhỏ là chủ yếu (lớp học).
Lớp học là nhóm nhỏ về mặt xã hội. Các lớp học là đơn vị cấu trúc
nhỏ, cấp cơ sở và phổ biến của hệ thống nhà trường. Trong đó người ta
còn chia nhỏ đến tổ, nhóm học tập, thậm chí đôi bạn học tập…Về mặt xã
hội, tâm lý học hội và xã hội học giáo dục, cũng như giáo dục học được
coi ở đó diễn ra quá trình giáo dục như là các hoạt động xã hội với các
tương tác xã hội trực tiếp. Trong môi trường xã hội ấy, từng học sinh được
giáo dục và trực tiếp tiếp thu các ảnh hưởng giáo dục một cách có kế
hoạch, định hướng rõ ràng. Do đó nhóm xã hội học sinh ở quy mô lớp học
được coi là một đối tượng quan trọng của xã hội học giáo dục.
Lớp học là nhóm xã hội chính thức, song khi nghiên cứu nhằm mục
đích cho giáo dục, người ta còn phải quan tâm đến sự hiện diện của các
nhóm thuộc các tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng và các nhóm không
chính thức, tự phát trong nhóm xã hội học sinh.
Nhóm xã hội học sinh được hình thành, do nhu cầu và sự tổ chức của xã
hội vì quyền lợi của xã hội nên nó thực hiện chức năng của một sự phân công
lao động xã hội đặc biệt, đó là phát triển chính bản thân người học như là một
nhiệm vụ xã hội. Hay nói cách khác, chức năng xã hội của nhóm xã hội học
sinh là phát triển con người vì họ và qua đó thực hiện các vai trò xã hội. Nhóm
xã hội học sinh giúp cho người học thực hiện vai trò chủ thể của mình trong
quá trình xã hội hoá. Đặc biệt là vai trò trong quá trình cá thể hoá, nội tâm
hoá, tự thể hiện và tự khẳng định, biến các giá trị xã hội thành giá trị cá nhân.
Vai trò đó thể hiện trong mọi quá trình giáo dục, mọi hoạt động và giáo lưu
của cá nhân trong mối quan hệ với nhóm xã hội của mình và các nhóm xã hội

khác. Do đó, khi phân tích chức năng xã hội của nhóm xã hội người học (trong
10


đó có chức năng xã hội của cá nhân người học), người ta quan tâm tới 4 nhóm
quan hệ xã hội quy định đến quá trình thực hiện chức năng đó là: mối liên hệ
giữa người học với xã hội; mối liên hệ giữa người học với tập thể giáo viên;
mối liên hệ giữa người học với với tập thể và các nhóm của họ; mối liên hệ
giữa người học với gia đình của họ. Những nội dung chủ yếu trong chức năng
của nhóm xã hội người học bao gồm:
- Tạo môi trường cho việc thực hiện chức năng của người học là nội
dung bao trùm, quan trọng nhất trong chức năng của nhóm xã hội người
học. ở đây cần xem xét đến các nhóm xã hội nhỏ, nhóm không chính thức
như: Nhóm bạn, nhóm sở thích, nhóm tự phát được hình thành trong các
quá trình quan hệ tạo nên thành nhóm.
- Xây dựng và phát triển các mối quan hệ xã hội cho các cá nhân
thông qua hoạt động, giao lưu xã hội. Qua đó nhằm hình thành hệ thống
giá trị, đặc biệt là định hướng giá trị được khơi dậy từ những động lực xã
hội của người học trong các nhóm xã hội khác nhau. Trong đó đặc biệt
nhấn mạnh sự hình thành, phát triển các hệ giá trị đạo đức, văn hoá, lối
sống, khoa học kĩ thuật - công nghệ, tài nghệ chuyên môn nghề nghiệp…
Với tư cách là thành viên của nhóm xã hội, người học không chỉ
quan hệ với nhóm mình mà còn tương tác với các nhóm xã hội khác.
Trong đó, có nhóm xã hội giáo viên là một trong những nhóm xã hội đặc
biệt được quan tâm nghiên cứu sự ảnh hưởng qua lại với nhóm xã hội
người học trong quá trình giáo dục ở các nhà trường.
1.4. Nhóm xã hội giáo viên và nhóm xã hội học viên trong nhà
trường quân sự
1.4.1. Nhóm xã hội giáo viên trong nhà trường quân sự
Đội ngũ giáo viên trong nhà trường quân sự là những người trực tiếp

làm công tác giảng dạy, tiến hành các hoạt động sư phạm quân sự trong các
nhà trường quân sự. Với tư cách là một nhân tố trung tâm của quá trình sư
phạm quân sự, đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng
giáo dục đào tạo trong các nhà trường quân sự. Đồng thời đội ngũ giáo viên
11


là chủ thể trực tiếp tổ chức điều khiển tất cả các nhân tố khác của quá trình
dạy học, giáo dục, liên kết các nhân tố đó lại trong hệ thống, làm cho mỗi
nhân tố đó phát huy cao nhất chức năng của mình. Điều 66, Luật giáo dục
2019 chỉ rõ vai trò và trách nhiệm của nhà giáo: “Nhà giáo có vai trò quyết
định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục, có vị thế quan trọng trong xã
hội, được xã hội tôn vinh”. Như vậy, giáo viên là người tổ chức cho học viên
thực hiện hoạt động học tập dưới mọi hình thức, trong những thời gian và
không gian khác nhau. Giáo viên không đơn thuần là người truyền đạt các
kiến thức mà còn là người tổ chức, điều khiển, kiểm tra quá trình nắm kiến
thức, kỹ xảo, kỹ năng và nghiên cứu khoa học của học viên trên nguyên tắc
phát huy tính tích cực học tập của học viên, làm cho việc học tập trở thành
một hoạt động độc lập có ý thức. Bằng sự khéo léo của phương pháp sư
phạm giáo viên còn khai thác tiềm năng trí tuệ, khai thác những kinh nghiệm
sống của học viên, để tổ chức cho họ tìm ra những phương pháp học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo, tự lực nắm lấy kiến thức và hình thành các kỹ năng
hoạt động. Đối tượng hoạt động của giáo viên là hệ thống kiến thức, sự phát
triển trí tuệ và nhân cách của học viên. Trước khi giảng bài giáo viên phải
nghiên cứu các tài liệu, nắm vững và gia công các tài liệu đó. Bằng phương
pháp giảng dạy chuyển tải nội dung, giáo viên đã tác động đến nhận thức của
học viên, làm cho học viên phát triển theo mục đích, mục tiêu giáo dục- đào tạo
của nhà trường. Mục đích của hoạt động dạy là làm cho học viên nắm vững
kiến thức và hình thành kỹ năng hoạt động từ đó mà phát triển trí tuệ và nhân
cách nghĩa là làm cho học viên trở thành những công dân, quân nhân có ý thức

và kỷ luật hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao sau khi ra trường.
Hệ thống nhà trường quân sự hiện nay bao gồm 10 Học viện; 12
trường Đại học; 10 trường cao đẳng quân sự; 12 trường quân sự Quân
khu, Quân đoàn. Theo đó, cấu trúc nhóm xã hội giáo viên nhà trường quân
sự cũng có số lượng, trình độ, quy mô đa dạng phong phú phụ thuộc vào
cơ cấu cấp học, bậc học, ngành học và nhiệm vụ của các nhà trường. Về
cơ bản, cơ cấu đội ngũ giáo viên các học viện, nhà trường quân sự có cơ
12


cấu ngành nghề, chuyên ngành, trình độ học vấn, độ tuổi, tổ chức các bộ
môn, các khoa theo lĩnh vực kiến thức đáp ứng được yêu cầu giảng dạy . Về
phẩm chất của đội ngũ giáo viên trong các trường quân sự, nhìn chung đã
phát huy tinh thần trách nhiệm cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và
nghiên cứu khoa học góp phần tạo nên chất lượng giáo dục - đào tạo có
bước chuyển biến tích cực. Hầu hết đội ngũ giáo viên có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; yên
tâm xây dựng quân đội, yêu ngành, yêu nghề, có tâm huyết với sự nghiệp
giáo dục đào tạo; có đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh.
Tuy nhiên, khi đánh giá về đội ngũ nhà giáo, Nghị quyết 86 về công
tác giáo dục- đào tạo trong tình hình mới, Đảng uỷ quân sự Trung ương
đã chỉ ra: “Đội ngũ nhà giáo còn thiếu về số lượng và tỉ lệ đạt tiêu chuẩn
về chất lượng còn thấp”1. Nguồn kế cận hẫng hụt lớn cần nhanh chóng
khắc phục. Số giáo viên được cử đi thực tế ở đơn vị còn ít, thời gian
ngắn, chưa đáp ứng được yêu cầu là có đủ kinh nghiệm thực tế để vận
dụng vào trong công tác giảng dạy.
Chức năng xã hội của giáo viên và nhóm xã hội giáo viên trong nhà
trường quân sự được xác định rõ qua nhiệm vụ chức trách được giao.
Người giáo viên trong nhà trường quân sự có vai trò rất quan trọng, ngoài
việc truyền thụ kiến thức khoa học, rèn luyện kĩ xảo, kĩ năng nghề nghiệp

cho học viên, họ còn là người quản lý hoạt động của học viên trên lớp,
giáo dục nhân cách cho học viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo. Thực chất
giáo viên phải đảm nhiệm cả vai trò của người thầy và vai trò của người
chỉ huy, người đồng chí, đồng đội. Do vậy, ngoài các nhiệm vụ của người
giáo viên đã được quy định trong Luật Giáo dục năm 2019, người giáo
viên ở học viện nhà trường quân sự còn phải thực hiện tốt các nhiệm vụ có
tính đặc thù như: Thực hiện đúng các quy định trong Điều lệ công tác Nhà
trường quân đội, chấp hành nghiêm Điều lệnh quân đội và tham gia giáo
1

Nghi quyết 86/NQ- ĐUQSTW của Đang uỷ quân sự Trung ương về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình
mới, Nxb QĐND, H, 2007, tr.07.

13


dục, quản lý học viên trong giờ giảng dạy.
1.4.2. Nhóm xã hội học viên trong các nhà trường quân sự
Xã hội học giáo dục đã chỉ ra rằng: Trong quá trình giáo dục, không
những nhóm xã hội giáo viên được coi là nhà giáo dục mà còn có nhóm xã
hội người học cũng đóng vai trò to lớn trong quá trình thực hiện mục tiêu
giáo dục cho chính bản thân mỗi người học. Nhóm xã hội học viên trong
các nhà trường quân sự là tập hợp những người học có tổ chức, cùng vì mục
tiêu giáo dục- đào tạo của nhà trường. Học viên quân sự là những quân
nhân đã trưởng thành về mặt nhân cách nhất định; được học tập, rèn luyện
trong quá trình giáo dục - đào tạo ở các nhà trường quân sự, là một trong
hai nhân tố trung tâm quyết định chức năng xã hội của nhà trường, quyết
định chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Về thiết chế xã hội, nhóm xã hội học viên trong các nhà trường quân
sự là dạng nhóm nhỏ, nhóm chính thức và được biên chế trong các đại đội,

tiểu đoàn, khoá, hệ học viên. Lớp là loại hình nhóm xã hội cơ bản của
nhóm xã hội học viên các nhà trường quân sự, lớp là một đơn vị tổ chức
biên chế của nhà trường có quy mô lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào số lượng
học viên đào tạo theo các chuyên ngành và khoá (từ vài học viên đến vài
chục học viên). Cấu trúc nhóm xã hội học viên theo hệ thống các nhà
trường và từng trường khác nhau. Tính đa dạng phong phú của nó phụ
thuộc vào quy hoạch, kế hoạch và nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của Bộ
Quốc phòng, Quân, Binh chủng, Quân khu, Quân đoàn.
Về cơ cấu xã hội của nhóm xã hội học viên có những đặc điểm nổi
bật đó là: Có độ tuổi trưởng thành, thống nhất về giới tính trong lớp và mặt
bằng trình độ, có phẩm chất đạo đức và sức khoẻ là những điểm nổi bật của
các học viên, của nhóm xã hội học viên. Biên chế ngành nghề đào tạo, cơ
cấu đa dạng. Có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh. Về mặt tổ chức
được biên chế theo lớp, đại đội, tiểu đoàn học viên… đó là một tổ chức
chính quyền, một đơn vị quân đội, có người chỉ huy, có sự lãnh đạo của các
tổ chức Đảng. Hệ thống cán bộ khung học viên hầu hết là sĩ quan, cán bộ
14


chuyên trách đã qua đào tạo, bồi dưỡng ở các nhà trường của quân đội. Một
học viên được quản lý, rèn luyện bởi nhiều tầng bậc, nhiều tổ chức: Tổ chức
chỉ huy, tổ chức Đảng, tổ chức Đoàn, hội đồng quân nhân. Do vậy, nhóm xã
hội học viên luôn có kỷ luật thống nhất, chặt chẽ, tự giác, nghiêm minh.
Cùng một lúc, người học viên phải đồng thời chấp hành pháp luật của Nhà
nước, kỷ luật quân đội, điều lệ công tác nhà trường, các điều lệ của tổ chức
Đảng và các tổ chức đoàn thể mà người học viên tham gia. Điều đó cũng có
nghĩa mỗi học viên, ngay trong quan hệ hàng ngày ở đơn vị phải đóng rất
nhiều vai trò trong các nhóm chính thức của họ. Tuy nhiên, điều đáng nói ở
đây là: Nhóm xã hội học viên quân sự thường sống trong một tập thể mạnh,
những lệch chuẩn xã hội không nhiều và không nghiêm trọng so với nhóm

học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngược lại, trong tập
thể học viên thường là nơi thể hiện các chuẩn mực, giá trị tích cực tiến bộ,
có bầu không khí tâm lý xã hội người học lành mạnh, dân chủ.
Chức năng xã hội của nhóm học viên được xác định và thể hiện
trong các mối quan hệ xã hội cơ bản của họ với sự tương tác xã hội gần
gũi thường xuyên và cụ thể.
Quan hệ giữa học viên và xã hội biểu hiện tập trung ở quyền lợi,
nghĩa vụ, trách nhiệm của họ đối với xã hội, đồng thời là sự tương tác, chế
ước, định hướng của xã hội đối với học viên theo các chuẩn mực, giá trị và
mong muốn của xã hội thông qua các hoạt động học tập, rèn luyện, giao
lưu, công tác đoàn thể xã hội…quan hệ này có được tăng cường và phát huy
tác dụng giáo dục tốt hay không là tuỳ thuộc vào cách thức tổ chức của các
nhà quản lý giáo dục, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý trực tiếp học viên.
Giữa học viên, nhóm học viên với giáo viên và tập thể giáo viên có
mối quan hệ quan trọng trên những khía cạnh như: Quan hệ giữa người
dạy và người học, quan hệ giữa chỉ huy với phục tùng, quan hệ đồng chí,
đồng đội. Trong đó quan hệ giữa thầy và trò (người dạy và người học) là
mối quan hệ sư phạm cơ bản, quyết định chất lượng lĩnh hội tri thức và
phát triển nhân cách học viên, tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho quá trình
15


xã hội hoá, cá thể hoá cá nhân. Quá trình tương tác thầy - trò trong dạy
học không chỉ diễn ra ở sự truyền thụ những kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng
thuần tuý từ giáo viên, mà thông qua nội dung giảng dạy, phong cách sư
phạm và đạo đức người thầy còn góp phần quan trọng vào việc xây dựng
động cơ, thái độ học tập và rèn luyện của học viên, hình thành thế giới
quan, nhân sinh quan và phát triển các phẩm chất nhân cách cần thiết ở
học viên. Tuy nhiên quá trình phát triển nhân cách của học viên còn phụ
thuộc phần lớn vào yếu tố chủ quan (thái độ) của học viên. Nếu vai trò

trung tâm của học viên được phát huy tốt thì sẽ giúp họ thực hiện nhiệm
vụ học tập, rèn luyện theo mục tiêu yêu cầu đào tạo tốt hơn. Vì vậy chức
năng xã hội của người học viên được phát huy tốt hay không (sự phát
triển nhân cách chính bản thân học viên) phụ thuộc rất lớn vào quan hệ
giữa họ và giáo viên cũng như tập thể nhà giáo.
Trong quá trình đào tạo tại các nhà trường quân sự, mối quan hệ
giữa các cá nhân học viên với nhau, giữa cá nhân học viên với nhóm xã
hội học viên của họ và quan hệ với các nhóm xã hội học viên khác là điều
tất yếu, thường xuyên cần phải tính đến. ở góc độ cá nhân, đây là mối
quan hệ đồng chí đồng đội, đồng nghiệp, bạn bè, anh em, cấp trên, cấp
dưới…tương ứng với những vị trí xã hội đa dạng được xác định trong
nhóm. Trong đó thường xuyên diễn ra sự thi đua, ganh đua, tự khẳng định
giữa cá nhân trong nhóm. Vì vậy nhà tổ chức giáo dục cần có biện pháp
phát huy sự thi đua tích cực, sự tự khẳng định đó đúng với chuẩn mực xã
hội mong muốn. Ngoài ra mối quan hệ giữa cá nhân học viên với tập thể
học viên luôn trên cơ sở những quy định, chuẩn mực chung, chịu sự kiểm
soát và chế ước của tập thể nhằm phát triển bản thân và thực hiện chính
chức năng chung của tập thể học viên. Trong các mối quan hệ của học viên
với nhóm của mình còn có sự hiện diện của mối quan hệ học viên với các
nhóm không chính thức của họ nhằm thoả mãn các nhu cầu cá nhân như:
Nhóm đồng niên, đồng nghiệp, đồng hương, cùng sở thích…Thực tế người
học viên chịu sự tác động không nhỏ của các nhóm này, nên nhà giáo dục
16


cần định hướng các nhóm này theo hướng lành mạnh, tích cực cho mục
tiêu giáo dục - đào tạo học viên của nhà trường. Bên cạnh đó, mối quan hệ
giữa học viên và gia đình họ cũng biểu hiện ra trong quá trình thực hiện
chức năng xã hội của nhóm học viên, vì ảnh hưởng tình cảm của gia đình
là rất lớn đối với từng cá nhân học viên.

Chức năng xã hội của nhóm học viên ở các nhà trường quân sự không
nằm ngoài việc tạo môi trường xã hội hoá thuận lợi và tổ chức các hoạt
động làm tăng mối quan hệ giao lưu cho quá trình xã hội hoá, cá thể hoá
nhân cách học viên và điều chỉnh tâm lý tình cảm của học viên. Chúng ta có
thể nhận thấy rằng: Môi trường tương tác xã hội của nhóm xã hội học viên
là gần gũi, cọ xát thường xuyên và trực tiếp, liên tục so với các môi trường
xã hội người học khác. Các học viên cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng vui
buồn và cùng tham gia các hoạt động với nhau do nhà trường và đơn vị tổ
chức, với nhiều giờ trong ngày và mang tính liên tục là điều kiện tạo nên
mối tương đồng tâm lý, sự ảnh hưởng mạnh mẽ về nhiều mặt. Đặc biệt là
cùng chung các quy định, chuẩn mực, yêu cầu trong các hoạt động tập thể
đã tạo nên môi trường tác động sâu sắc, thường xuyên và cơ bản đến quá
trình xã hội hoá, cá thể hoá cá nhân học viên. Vì vậy, nếu những tương tác
ấy được thực hiện đúng những chuẩn mực, giá trị, thống nhất với mục tiêu
yêu cầu của quá trình giáo dục- đào tạo ở nhà trường quân sự thì sẽ tạo nên
sức mạnh giáo dục to lớn giúp quá trình giáo dục đó đạt chất lượng, hiệu
quả như mong muốn. Vì vậy, muốn đạt kết quả giáo dục học viên tốt thì
cùng với việc xây dựng nhóm xã hội giáo viên, chúng ta cần phải quan tâm
xây dựng nhóm xã hội học viên sao cho những biểu hiện tương tác xã hội
của nó tạo nên động lực, môi trường xã hội giáo dục tốt nhất cho học viên,
đồng thời nhóm xã hội học viên phải trở thành môi trường lành mạnh, nắm
bắt, hướng dẫn, chỉ đạo, kích thích và tổ chức tăng cường quá trình hình
thành nhận thức, tình cảm, niềm tin, thói quen hành vi phù hợp các chuẩn
mực giá trị xã hội ở học viên.

17


2. Thực trạng và nguyên nhân của nhóm xã hội giáo viên và
nhóm xã hội học viên trong nhà trường quân sự

2.1. Thực trạng của nhóm xã hội giáo viên
Thực trạng tình hình đội ngũ giáo viên trong các nhà trường quân sự
hiện nay vẫn còn trong tình trạng thiếu về số lượng, chất lượng tỷ lệ nhà giáo
đạt chuẩn nhà nước và quy định của Bộ Quốc phòng còn thấp; Còn một tỷ lệ
nhỏ nhà giáo chưa được hoàn thiện trình độ theo cấp học, bậc học. Trình độ
tin học, ngoại ngữ của nhóm xã hội nhà giáo nói chung còn thấp so với yêu
cầu. Bên cạnh đó, cơ cấu trình độ học vấn, trình độ ngành nghề, độ tuổi vẫn
còn mất cân đối (số lượng Giáo sư, Phó giáo sư, giảng viên đầu ngành còn ít,
phần đông đã cao tuổi), do đó khó có thể đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn
mới trong quá trình thực hiện chức năng xã hội của mình. Nhất là đối với vai
trò nhà giáo dục, nhóm xã hội giáo viên nhà trường quân sự hiện nay đang
đứng trước nhiều vấn đề cần phải khắc phục.
Ngoài những hạn chế về trình độ học vấn chuyên môn ngành nghề, kĩ
năng sư phạm, những bất cập trong văn hoá sư phạm (nổi bật là những phẩm
chất nghề nghiệp sư phạm, tác phong sư phạm) và vấn đề xây dựng tập thể
giáo viên, đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực xã hội đang hàng ngày
xâm nhập vào môi trường giáo dục của các nhà trường quân đội là điều cần
quan tâm giải quyết, khắc phục. Xét từ khi chọn nghề nghiệp và vào đào tạo
giáo viên ở các nhà trường quân sự cho thấy những giáo viên tương lai của
quân đội đã bị chi phối nhiều bởi lợi ích cá nhân, lợi ích vật chất. Trách
nhiệm của nhiều giáo viên trong việc quản lý, giáo dục đối với học viên còn
chưa cao, coi việc uốn nắn, rèn giũa nhân cách học viên là của cán bộ quản
lý ở đơn vị học viên. Do đó việc phối hợp thống nhất giữa nhóm giáo viên
với các lực lượng khác của nhà trường trong nhiệm vụ giáo dục học viên còn
có mặt chưa tốt. ở đâu, đó còn sẩy ra tình trạng học viên trốn học, tác phong
luộm thuộm, nói năng, phát ngôn, cư xử kém văn hoá, nói chuyện, ngủ gật
trong giờ học nhưng giáo viên không nhắc nhở, chấn chỉnh hoặc không phối
hợp với đơn vị quản lí và các cơ quan chức năng có liên quan để giáo dục
18



học viên. Đặc biệt, là căn bệnh thành tích trong giảng dạy đã và đang trở
thành một vấn đề nhức nhối ở nhiều trường, làm cho lực lượng giáo viên có
biểu hiện như là hạ thấp yêu cầu cao đối với người học, đến mức có khi phải
vừa dạy, vừa “dỗ” học viên và vấn đề dạy học theo kiểu “bày sẵn” lại phát
triển khá phổ biến, nhất là ở các nhà trường sĩ quan, trường quân sự Quân
khu, Quân đoàn. Điều này xét về góc độ tác động tới giáo dục nhân cách
cũng thể hiện sự bất cập, bởi hạ thấp yêu cầu cao trong dạy học đối với học
viên thì cũng đồng nghĩa với tạo cho họ có xu hướng giảm đầu tư thời gian
vào việc học và như vậy thời gian “vô bổ”, vui chơi giải trí của học viên sẽ
tăng lên. Thực tế này đã làm cho lực lượng quản lý học viên ở các nhà
trường thêm khó khăn trong việc quản lý giáo dục, phải lo tổ chức cho học
viên các hoạt động tự học, cùng các loại hoạt động ngoại khoá sao cho giảm
bớt sự “nhàn rỗi” của học viên. Tình trạng này đã làm giảm uy tín, tính mô
phạm của người thầy, làm tăng xu hướng lệch chuẩn về định hướng giá trị
trong học viên.
Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên nhất là ở các trường quân sự quân
khu, quân đoàn thiếu chí “tiến thủ”, ngại nghiên cứu học tập, cho rằng việc đi
học như là sự bắt buộc đã dẫn đến sự lão hoá về trình độ. Cùng với đó, sức
mạnh, uy tín của tập thể giáo viên, khoa, bộ môn cũng là vấn đề ảnh hưởng
không nhỏ tới sự hình thành, phát triển nhân cách của học viên. Việc quản lý
giáo viên, xây dựng tập thể khoa, bộ môn ở một số nhà trường còn thiên về tính
chất “gia trưởng”, nặng về chuyên môn, lỏng lẻo về hành chính, nên không có
sự thống nhất về sức mạnh tập thể, không phát huy được trách nhiệm của giáo
viên trong tự tu dưỡng rèn luyện và giáo dục đối với học viên. Thậm chí có nơi
giáo viên còn không tôn trọng nhau, làm giảm uy tín của nhau trước học viên,
đối xử không công bằng giữa các học viên và giữa các lớp.
Với vai trò, vị thế xã hội và chức năng xã hội của nhóm xã hội giáo
viên quân sự, từ những vấn đề xã hội học giáo dục nghiên cứu và đã chỉ ra
ở trên, đang trở thành những vấn đề bức xúc hiện nay về nghề và người


19


dạy học đã đặt ra những yêu cầu cao đối với việc xây dựng đội ngũ nhà
giáo quân sự trong giai đoạn mới.
2.2. Thực trạng của nhóm xã hội học viên
Đánh giá chung về những tồn tại của nhóm xã hội học viên hiện nay,
nổi lên một số vấn đề sau:
- Còn một số tập thể học viên chưa thực sự thống nhất mục đích hoạt
động, nhất là động cơ học tập, định hướng nghề nghiệp, định hướng giá trị
của học viên còn biểu hiện lệch lạc so với mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Bầu
không khí tâm lí xã hội trong tập thể lớp có khi chưa tích cực, lành mạnh.
Hoạt động của các tổ chức đoàn thể có nơi hiệu quả giáo dục chưa cao.
- Việc quan tâm tạo điều kiện xây dựng và định hướng hoạt động của
các nhóm tự phát, không chính thức trong các đơn vị học viên còn hạn
chế. Do vậy, khó ngăn chặn một cách hiệu quả những ảnh hưởng tiêu cực
từ các nhóm này tới học viên, đồng thời không phát huy tốt lợi thế giáo
dục từ các nhóm đó đối với học viên.
- Các hành động giáo dục chung cho tập thể học viên có lúc chưa đạt
yêu cầu, chưa phát huy sức mạnh dư luận tập thể và khơi dậy sự tự khẳng
định tính tích cực ở mỗi học viên đối với tập thể nhóm.
- Tính đấu tranh và yêu cầu cao lẫn nhau trong học viên còn hạn chế,
hành vi tiêu cực, tệ nạn xã hội vẫn còn biểu hiện trong một số tập thể học
viên, như: nạn cờ bạc, số đề, vi phạm các quy chế, quy định, chế độ của
quân đội và của nhà trường vẫn còn xảy ra.
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại của nhóm xã hội giáo viên và
nhóm xã hội học viên
Về khách quan: Thực tiễn đất nước, quân đội đang phát triển, có những
vấn đề đang trong quá trình vận động, chưa được tổng kết, rút kinh nghiệm

hoặc chưa có dự báo dẫn đến hạn chế trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Mặt
khác, sự phát triển của quân đội về nhiệm vụ đặt ra sự đổi mới về giáo dục - đào
tạo những yêu cầu mới về chất làm cho phát sinh không ít những khó khăn.
Cùng với đó, nền kinh tế đất nước và ngân sách cho quốc phòng chưa có điều
20


kiện tăng đầu tư cho việc “chuẩn hoá, hiện đại hoá” các điều kiện bảo đảm chất
lượng đào tạo, thực hiện chế độ, chính sách giáo dục - đào tạo trong Quân đội.
Sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, trình độ văn hoá, chính
trị của các đối tượng đào tạo không đồng đều, cùng với đó đời sống vật chất, tinh
thần của số đông cán bộ, nhà giáo, học viên còn khó khăn cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo của các nhà trường quân đội trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về chủ quan: Một bộ phận cán bộ các cấp nhận thức chưa sâu sắc các
quan điểm, chủ trương trong Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Đảng uỷ
Quân sự Trung ương về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới,
nhất là trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, còn có
khuynh hướng lệch lạc, nóng vội, muốn nhanh chóng thực hiện đại học hoá
ngay cho đội ngũ sỹ quan.
Trình độ, năng lực của một bộ phận trong nhóm xã hội giáo viên còn
có mặt bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện
công tác giáo dục - đào tạo trong các nhà trường; và thực tiễn công tác giáo
dục - đào tạo hiện nay đang đặt ra cho các nhà trường. Cho nên kết quả
năng lực thực hành nhiệm vụ theo chức trách của một số cán bộ cấp phân
đội mới ra trường còn yếu.
Nhận thức vai trò các môn giáo dục chính trị của một bộ phận trong
nhóm xã hội học viên chưa đúng mức, chưa tập trung nâng cao nhận thức, tạo
chuyển biến về hành động trong quá trình đào tạo. Cho nên có học viên vi phạm

kỷ luật về đạo đức, tác phong quân nhân.
Việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ chưa được
quan tâm đúng mức ở một số nhà trường.
3. Giải pháp xây dựng nhóm xã hội giáo viên và
nhóm xã hội học viên ở các nhà trường quân sự
Từ lý luận về nhóm xã hội giáo viên, học viên trong các nhà trường
quân sự và những thực trạng yếu kém về vai trò giáo dục của các nhóm
21


này đối với giáo dục nhân cách học viên, để phát huy tốt vai trò giáo dục
của các nhóm xã hội giáo viên và học viên trong giáo dục nhân cách học
viên, các nhà trường cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
3.1. Giải pháp xây dựng nhóm giáo viên
Một là, kiện toàn, phát triển đội ngũ giáo viên nhà trường quân sự
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục - đào tạo và được
xã hội tôn vinh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Có gì vẻ vang
hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này, tích cực góp phần xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là
thầy giáo, là người vẻ vang nhất”2. V.I. Lênin cũng đã từng khẳng định: “Trong
bất kỳ một trường hợp nào, điều quan trọng nhất là phương hướng chính trị và
tư tưởng của các bài giảng. Cái gì quyết định phương hướng đó? Hoàn toàn và
chỉ là thành phần các giảng viên thôi”3. Chính vì vậy, cần kiện toàn, phát triển
đội ngũ giáo viên nhà trường quân sự đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và hài
hoà về cơ cấu theo hướng chuẩn hoá về chất lượng đội ngũ nhà giáo. Trên cơ sở
quy hoạch xây dựng các nhà trường, cần tập trung sức đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên, đổi mới kiến thức, nâng cao trình độ học vấn, kinh nghiệm thực
tiễn, năng lực và tay nghề sư phạm nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy theo chương
trình, nội dung đào tạo mới phù hợp với thực tiễn hiện nay, đó là: “Đổi mới toàn
diện công tác giáo dục- đào tạo và xây dựng nhà trường quân đội theo hướng

“chuẩn hoá, hiện đại hoá”, tạo sự chuyển biến cơ bản và vững chắc về chất
lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học”. Thực hiện tiêu
chuẩn hoá đội ngũ giáo viên và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh quy
định. Tổ chức biên chế hợp lý đội ngũ giáo viên theo hướng mở rộng liên kết
giảng dạy giữa các cơ sở đào tạo. Kiên quyết tuyển chọn, điều động số cán bộ đã
qua đào tạo cơ bản và qua thực tiễn chiến đấu, công tác, có khả năng giảng dạy,
tăng cường cho các trường. Tạo điều kiện cho giáo viên đi thực tế ở các đơn vị,
vì như vậy vừa làm cho giáo viên nắm chắc tình hình đơn vị, nâng cao chất lượng
2
3

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H. 1996, Tr. 331.
V. I. Lênin, Toàn tập, tập 47, Nxb Tiến bộ, M. 1981, Tr. 248.

22


học tập, rèn luyện năng lực giảng dạy sau khi trở lại trường. Có chính sách đối
với giáo viên để khuyến khích người giỏi yên tâm và làm tốt công tác giảng dạy,
đào tạo cán bộ.
Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo cơ sở quan trọng giúp đội ngũ giáo viên
có đủ trình độ, phẩm chất, phát huy chức năng xã hội của mình, ảnh hưởng tích
cực tới quá trình xã hội hoá, cá thể hoá của học viên.
Hai là, xây dựng tập thể giáo viên vững mạnh
Xây dựng tập thể giáo viên vững mạnh, nhất là sự thống nhất mục tiêu
nhiệm vụ, hành vi tác động đến học viên, mối quan hệ hợp tác cùng nhau giữa
các giáo viên, giữ uy tín cho đồng nghiệp trước học viên.
Các nhà trường cần xây dựng tập thể giáo viên có tinh thần trách
nhiệm, luôn phấn đấu đạt hiệu quả cao trong công tác. Đồng thời, cần tạo điều
kiện cho cán bộ, giáo viên tham gia phong trào tự học, tự rèn luyện.

Xây dựng phong cách cho giáo viên gồm 2 mặt: Thái độ đổi mới công
việc, cách xử lý những tình huống trong dạy học và cuộc sống hàng ngày.
Người giáo viên muốn công việc của mình đạt hiệu quả, nhất thiết phải có uy
tín đối với học viên, phải tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ và có nhân
cách tốt. Biết đoàn kết, tôn trọng kỷ luật chung và phát huy dân chủ. Giáo viên
phải thực sự được học viên tin yêu.
Trong công tác giáo dục tư tưởng, giáo viên cần tự rèn luyện cho mình
những phẩm chất của người giáo viên sống có văn hóa. Mỗi giáo viên là tấm
gương cho học viên noi theo. Từ đó, học viên kính trọng và yêu quý thầy cô
giáo, tích cực học tập và học tập đạt kết quả cao.
Ba là, coi trọng bồi dưỡng, hoàn thiện văn hoá sư phạm cho giáo viên
Văn hoá sư phạm của người giáo viên trước hết phải là văn hoá nhân cách
cụ thể, mà đó chính là nhân cách của một người thầy - đang trực tiếp làm công
tác giáo dục, đào tạo với mục đích phục vụ, cống hiến cho sự nghiệp trồng người.
Văn hoá sư phạm của người giáo viên được đánh giá bằng những tiêu
chí cụ thể như: trình độ cao trong nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo; kinh
nghiệm sư phạm; nghệ thuật quản lý và giáo dục học viên; chất lượng sản
23


phẩm giáo dục (phẩm chất, năng lực của người học sau khi ra trường hoàn
thành tốt được các mục tiêu, yêu cầu đã xác định).
Văn hoá sư phạm của người giáo viên được coi là một phức hợp các
phẩm chất và năng lực của họ với tư cách là nhà sư phạm. Sự cấu thành đó
được tạo nên bởi ba nhân tố: xu hướng sư phạm, tài nghệ sư phạm và phong
cách sư phạm.
Vì vậy, các nhà trường cần coi trọng bồi dưỡng, hoàn thiện văn hoá
sư phạm cho giáo viên, trong đó nhấn mạnh phong cách sư phạm, đạo đức
nghề nghiệp sư phạm quân sự. Quá trình giảng dạy cần đề cao tính giáo
dục, tính mô phạm của người thầy, truyền được nhiệt huyết, đức hạnh của

người thầy đến học viên.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện văn hoá sư phạm cho đội ngũ giáo
viên trong các trường quân sự hiện nay là sự tổng hợp của nhiều yếu tố. Quá
trình này yêu cầu sự nỗ lực, cố gắng của cả tập thể nhà trường, trong đó,
chính người giáo viên đóng vai trò quyết định. Mỗi giáo viên phải luôn xác
định tốt vai trò trong công tác giáo dục. Để phát huy tốt sự nỗ lực chủ quan
vươn lên nâng cao trình độ văn hoá sư phạm đòi hỏi mỗi giáo viên phải
không ngừng tự học hỏi kinh nghiệm sư phạm, tự lên kế hoạch, mục tiêu cụ
thể cho việc rèn luyện và thường xuyên có sự kiểm tra, nhìn nhận lại trình độ
tay nghề của bản thân để có sự điều chỉnh kịp thời, hợp lý.
Bốn là, bảo đảm các mối quan hệ giữa giáo viên và học viên
Trong môi trường đại học quân sự, mối quan hệ giáo viên và học viên được
coi là mối quan hệ tập trung nhất, xuyên suốt trong quá trình dạy và học.
Mối quan hệ này là một phạm trù tinh thần, hàm chứa tính đa dạng và
phức tạp, liên quan trực tiếp đến chất lượng giáo dục toàn diện.Vì vậy, việc giải
quyết tốt mối quan hệ giáo viên và học viên thực chất là cơ bản đã giải quyết
được mục tiêu đào tạo, góp phần to lớn trong việc hoàn thiện nhân cách học viên.
Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 của Đảng về đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục với những mục tiêu và cách tiếp cận mới mẻ. Theo đó, những xu
hướng mới của giáo dục như "thầy thiết kế - trò thi công", "dạy học hợp tác"
24


(giữa thầy và trò); "dạy học lấy học sinh làm trung tâm"... đều đặt học trò lên
vị trí chủ thể của giáo dục. Do đó, mối quan hệ giáo viên và học viên trong
môi trường quân sự đã bước đầu được định hướng một cách sáng rõ trong giai
đoạn hiện nay.
Để xây dựng mối quan hệ tót đẹp giữa giáo viên và học viên trong môi
trường quân sự cần thựchiện một số giải pháp:
- Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc giáo

dục văn hóa ứng xử nói chung, văn hóa ứng xử với thầy cô giáo nói riêng cho
học sinh, sinh viên, phải thực sự xem đây là một trong những vấn đề cơ bản
trong thực hiện mục tiêu giáo dục cao đẳng, đại học.
- Các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường quân sự phải đưa vấn đề
giáo dục văn hoá ứng xử cho học viên vào một trong những nội dung giáo
dục chính trị tư tưởng và đạo đức lối sống; phải tăng cường quản lý chặt
chẽ hơn, sâu sát hơn đối với học viên; phải có sự tổng kết, đánh giá văn hoá
ứng xử của học viên, đồng thời có biện pháp xử lý, uốn nắn những lệch lạc
về chuẩn mực ứng xử với cán bộ, giảng viên ở học viên.
- Phát huy vai trò của các tổ chức trong giáo dục; đa dạng hóa cac
hình thức giáo dục, như tổ chức các buổi nói chuyện, diễn đàn, câu lạc bộ,
các cuộc thi, các hội diễn văn hoá văn nghệ hay sinh hoạt truyền thống.
- Chú trọng bồi dưỡng năng lực, phẩm chất đạo đức, nhân cách của
người giảng viên. Người giảng viên không chỉ dạy kiến thức mà còn dạy
sinh viên cách làm người. Vì vậy, phải dùng nhân cách của mình để giáo
dục nhân cách người học.
- Bản thân mỗi học viên phải nâng cao ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức và lối sống, xây dựng văn hoá ứng xử theo những chuẩn mực tốt đẹp
cho mình. Trước hết, trong quan hệ giao tiếp, làm việc (học tập, nghiên
cứu) với viên giáo phải thể hiện được thái độ, lời nói, hành động lễ phép,
tôn trọng, trân trọng thầy cô, đồng thời cũng phải biết góp ý, phê bình và
chỉ ra những thái độ, lời nói, hành vi chưa đẹp, chưa “tôn sư trọng đạo” ở
một số học viên.
25


3.2. Giải pháp xây dựng nhóm xã hội học viên
Một là, làm tốt công tác tuyển chọn đầu vào
Các nhà trường phải làm tốt công tác tuyển chọn đầu vào; thực hiện
đúng tinh thần quy định của Nghị quyết số 86/ NQ- ĐUQSTW của Đảng

uỷ Quân sự Trung ương, đó là nâng cao chất lượng nguồn đào tạo trung
đội trưởng và đào tạo chính trị cấp phân đội. Tuyển chọn đúng đối tượng,
đủ tiêu chuẩn về trình độ học vấn, chính trị và sức khoẻ...
Cần có chế độ, chính sách ưu tiên tuyển chọn con cán bộ, đảng viên;
con công nhân, nông dân, gia đình có công với cách mạng. Yêu cầu các
nhà trường phải làm tốt công tác xây dựng kế hoạch tuyển chọn; bảo đảm
số lượng và chất lượng nguồn tuyển chọn đào tạo; tổ chức thi tuyển chặt
chẽ đúng quy chế Nhà nước và quy định của Bộ Quốc phòng.
Hai là, bảo đảm cơ cấu nhóm học viên với các vị trí, chức danh và
quy ước, quy định hướng dẫn hoạt động, tổ chức chặt chẽ
Các nhà trường cần bảo đảm cơ cấu nhóm học viên với các vị trí,
chức danh và quy ước, quy định hướng dẫn hoạt động, tổ chức chặt chẽ.
Xác định người phụ trách lớp và phụ trách các tổ chức đoàn thể phải bảo
đảm sự tín nhiệm của tập thể trên cơ sở tiêu chuẩn của vị trí xã hội ấy đã
được quy định. Tránh trường hợp một số người phụ trách quá yếu, không
đáp ứng mong đợi của tập thể của tập thể lớp, chi đoàn…đảm bảo sự nêu
gương và trung tâm đoàn kết của tập thể học viên.
Ba là, xây dựng tập thể lớp, đại đội học viên vững mạnh
Trước hết phải làm cho mọi thành viên coi việc hoàn thành nhiệm vụ
chính trị trung tâm của đơn vị là mục tiêu hàng đầu, là sợi dây gắn kết
quan trọng nhất trong nhóm học viên chính thức, kiên quyết đấu tranh loại
trừ các biểu hiện phản giá trị, lệch chuẩn và tệ nạn xã hội trong nhóm; yêu
cầu cao, tôn trọng nhân cách và thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Định hướng
và phát huy tích cực các hiện tượng tâm lý tập thể, nhất là dư luận, uy tín,
truyền thống của lớp, của đơn vị.

26


Cần xây dựng môi trường văn hoá quân sự lành mạnh, phong phú là

điều kiện rất quan trọng để củng cố, phát triển và nuôi d ưỡng những phẩm
chất cơ bản của “Bộ đội Cụ Hồ”, trước hết và quan trọng nhất là phẩm
chất, bản lĩnh, trình độ và sự nhạy cảm về chính trị. Môi trường đó tạo ra
tập thể của những người sống có lý tưởng, cùng chung lý tưởng, có hiệu
suất công tác, chiến đấu, học tập, rèn luyện cao, có tình ng ười, tình đồng
chí, tình quân dân, giàu ý nghĩa giáo dục, nhằm xây dựng đơn vị vững
mạnh về chính trị và bồi dưỡng tình cảm, đạo đức, lối sống lý tưởng cách
mạng cho mỗi quân nhân trong thời kỳ mới.
Quan tâm đúng mức việc xây dựng môi trường văn hoá quân sự lành
mạnh trong các đơn vị Quân đội sẽ bảo đảm cho mỗi quân nhân đủ sức ngăn
chặn và đẩy lùi sự tác động của các quan điểm tư tưởng và các loại hình văn
hoá xấu độc. Trong tình hình hiện nay, để xây dựng một môi trường văn hoá
lành mạnh, phong phú ở đơn vị, làm cho cuộc sống quân sự ở mỗi đơn vị
ngày càng tốt đẹp hơn, hoạt động quân sự đạt hiệu quả cao hơn
Bốn là, phát huy vai trò của nhà giáo dục
Nhà giáo dục (lãnh đạo, chỉ huy) cần chú ý định hướng hoạt động
của các nhóm nhỏ, không chính thức trong tập thể học viên theo mục đích
giáo dục và phục vụ nhiệm vụ của đơn vị. Hạn chế mức thấp nhất các tác
động xấu của những nhóm tự phát, sở thích đối với quá trình học tập, rèn
luyện của học viên. Mặt khác, tích cực phát hiện, nhân rộng ảnh hưởng
của các nhóm tích cực, của cá nhân, tập thể điển hình góp phần lấn át tiêu
cực trong tập thể học viên.
Năm là, tăng cường tổ chức các hoạt động giao lưu
Tăng cường tổ chức các hoạt động giao lưu nhằm xây dựng và phát
triển các mối quan hệ xã hội lành mạnh, tích cực tạo điều kiện thuận lợi
cho học viên tiếp cận, lựa chọn khẳng định giá trị đúng đắn, hình thành
định hướng giá trị tích cực, phù hợp với các chuẩn mực quân đội, xã hội.
Đặc biệt trong tình hình hiện nay, xu hướng đảo lộn các giá trị diễn ra phổ
biến: các giá trị vật chất đặt lên trên giá trị tinh thần; giá trị trí tuệ, năng
27



×