Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật việt nam về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 76 trang )

LÊ THỊ THU TRANG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA TRONG
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LÊ THỊ THU TRANG
HÀ NỘI - 2017

2015 - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA TRONG TIẾN
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LÊ THỊ THU TRANG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN LUẬT

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Thu Trang


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn
thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ
của các thầy cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Luật
đã hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã
đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong thời gian học
vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo
sau đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã

luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Học viên thực hiện

Lê Thị Thu Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: .............................................................................. 4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XUẤT
KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ ................................................................... 4
1.1. Khái niệm pháp lý về xuất khẩu, nhập khẩu......................................... 4
1.2. Khái niệm pháp lý về hàng hóa thương mại ........................................ 6
1.3. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật Việt Nam về xuất khẩu,
nhập khẩu ................................................................................................... 7
1.4. Các tiêu chí xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ..................................... 15
CHƯƠNG 2: ............................................................................ 19
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ XUẤT
KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ .............................................. 19
2.1. Khái quát sơ lược sự phát triển chính sách, pháp luật Việt Nam về xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.......... 19
2.2. Quy định về quyền hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá ........................................................................................................... 23
2.3. Quy định về danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; diện hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu; xuất xứ hàng hoá và giấy chứng nhận lưu hành tự do
................................................................................................................. 25
2.4. Quy định về thuế quan ....................................................................... 27

2.5. Một số nội dung pháp luật về phi thuế quan ...................................... 30
2.6. Qui định pháp luật về kiểm soát khẩn cấp trong mua bán hàng hoá
quốc tế ...................................................................................................... 36
2.7. Pháp luật về hải quan trong hoạt động xuất, nhập khẩu ..................... 41
2.8. Quy định về phòng vệ thương mại ..................................................... 42
2.9. Quy định về xúc tiến thương mại ....................................................... 45
2.10. Một số nhận xét ............................................................................... 47


CHƯƠNG 3: ............................................................................ 54
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XUẤT KHẨU, NHẬP
KHẨU HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................. 54
3.1. Nhiệm vụ của Chính phủ cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật Quản
lý ngoại thương năm 2017 về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá .................. 54
3.2. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả giữa các bộ,
ngành, địa phương trong công tác quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá ................................................................................................... 58
3.3. Hạn chế tới mức ban hành ít nhất có thể các cấp độ văn bản qui phạm
pháp luật dưới luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá .............................. 61
3.4. Hệ thống hoá pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá ................ 62
3.5. Hoàn thiện quy định về quản lý ngoại thương liên quan đến hội nhập
kinh tế quốc tế .......................................................................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 68


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá của nước ta chủ yếu hình thành,
phát triển, từng bước hoàn thiện trong tiến trình hội nhập kinh tế từ đổi mới đến

nay. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc thực hiện pháp luật về xuất
khẩu, nhập khẩu đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng và thúc đẩy quan hệ
thương mại của nước ta với các nước; bảo hộ và thúc đẩy sản xuất, thương mại
trong nước; đóng góp vào nguồn thu ngân sách quốc gia, góp phần quan trọng đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn mới thực hiện đầy đủ cam kết của nước ta trong WTO, tham gia Cộng đồng Kinh tế
ASEAN, thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới...- pháp luật về
xuất khẩu, nhập khẩu của nước ta cần phải tiếp tục được hoàn thiện theo hướng
ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của tình hình mới.
Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Quản lý ngoại thương, trong đó có
những nội dung quan trọng trực tiếp liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
Do đó, việc nghiên cứu “Pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” rất thiết thực, có ý nghĩa thời sự về cả lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật liên quan đến xuất, nhập khẩu của Việt Nam đã có nhiều công trình
nghiên cứu, trong đó nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật và cơ chế quản lý
thuế xuất, nhập khẩu; pháp luật hải quan. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu
sau:
- “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan trong điều kiện hiện nay ở
nước ta”, Luận án tiến sĩ Luật học của Vũ Ngọc Anh, năm 1999.
- "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động hải quan ở
Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Văn Dũng, năm 2001.

1


- "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực hải quan ở
Việt Nam hiện nay", Luật văn thạc sĩ Luật học của Bùi Văn Thịnh, năm 2003.
- Đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu

ngành Hải quan”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế của Dương Phú Đông, Đại học Kinh tế
quốc dân năm 2008;
- Đề tài: “Các giải pháp tăng cường quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
trong tiến trình gia nhập AFTA của Việt nam”, Luận án tiến sỹ Kinh tế của Nguyễn
Danh Hưng, Học viện Tài chính năm 2003.
- Đề tài: “Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành
Hải quan hiện nay”, Luận án thạc sỹ Kinh tế của Trần Thành Tô, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006.
Các đề tài nêu trên đã đề cập đến những vấn đề chung liên quan đến pháp
luật, cơ chế quản lý hải quan, cơ chế quản lý thuế xuất, nhập khẩu mà chưa có công
trình nào nghiên cứu về Pháp luật liên quan đến quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu của Việt Nam hiện nay nói chung. Do đó, việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có mục đích nghiên cứu: Nhằm nhận thức sâu sắc hơn một số vấn đề
lý luận cũng như những qui định pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hóa; để có thể góp phần vào việc tổ chức thực hiện hiệu quả pháp luật về xuất khẩu,
nhập khẩu. Đánh giá được thực trạng pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa, để từ đó tìm giải pháp góp phần vào việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Trình bày khái niệm, đặc điểm, vai trò và các tiêu chí xây dựng, hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế và các khái niệm pháp lý liên quan.

2


- Nghiên cứu những thay đổi cơ bản về chất của pháp luật về xuất khẩu,
nhập khẩu của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Bàn về thực trạng pháp luật xuất khẩu, nhập khẩu hiện nay của Việt Nam;
nhận xét pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Tác giả tiếp cận và nghiên cứu pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở phân tích các quy định
của pháp luật thực định về lĩnh vực xuất - nhập khẩu, trong phạm vi, góc độ quản lý
nhà nước về ngoại thương.
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về quan
hệ kinh tế quốc tế và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, lập luận,
so sánh, đối chiếu, thống kê, nghiên cứu lịch sử…
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.

3


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm pháp lý về xuất khẩu, nhập khẩu
Theo Luật Quản lý ngoại thương vừa được Quốc hội Khoá 14, kỳ họp thứ 3
(Quốc hội khoá đương nhiệm) nước ta thông qua, sẽ có hiệu lực từ 01/01/2018 thì
“Hoạt động ngoại thương là hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện
dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu...” (Khoản 1, Điều 3 Luật Quản lý ngoại
thương).
Điều đó có nghĩa là hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là một hình
thức mua bán hàng hoá quốc tế, một hình thức hoạt động ngoại thương.
Xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là hình thức hoạt động ngoại thương đưa hàng hoá của
nước ta ra nước ngoài để buôn bán kinh doanh kiếm lời.
Nhập khẩu hàng hoá
Nhập khẩu hàng hoá là hình thức hoạt động ngoại thương đưa hàng hoá từ
nước ngoài vào nước ta để buôn bán, kinh doanh kiếm lời.
Vẫn theo Khoản 1, Điều 3 Luật Quản lý ngoại thương, hoạt động ngoại
thương còn bao gồm các hình thức khác trong mua bán hàng hoá quốc tế mà thực
chất, đó cũng là những hình thức của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá,
bao gồm các hình thức tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, chuyển khẩu, quá
cảnh và các hoạt động khác.
Tạm nhập, tái xuất hàng hoá
Tạm nhập, tái xuất hàng hoá là hoạt động ngoại thương được thực hiện dưới
hình thức thương nhân mua hàng hoá từ một nước đưa vào lãnh thổ Việt Nam hoặc

4


mua từ khu vực hải quan riêng đưa vào nội địa và bán chính hàng hoá đó sang nước
khác, khu vực hải quan riêng khác.
Tạm xuất, tái nhập hàng hoá
Tạm xuất, tái nhập hàng hoá là hoạt động ngoại thương theo đó thương nhân

được tạm xuất, tái nhập lại hàng hoá đó để phục vụ mục đích bảo hành, bảo dưỡng,
sửa chữa, sản xuất, thi công, thuê, mượn, trưng bày, triển lãm hoặc để sử dụng vì
mục đích khác theo hợp đồng với nước ngoài.
Chuyển khẩu hàng hoá
Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, một vùng lãnh thổ để
bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục
nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam. Thí dụ:
Hàng hoá được chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu không qua cửa
khẩu Việt Nam; Hàng hoá được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu,
có qua cửa khẩu Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và
không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam; Hàng hoá được vận chuyển từ nước
xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam và đưa vào kho ngoại
quan, khu vực trung chuyển hàng hoá tại các cảng Việt Nam, không làm thủ tục
nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
Quá cảnh hàng hoá
Quá cảnh hàng hoá là việc vận chuyển hàng hoá thuộc sở hữu của tổ chức, cá
nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả việc lưu kho, chia tách lô hàng
thay đổi phương thức vận tải hoặc các công việc khác được thực hiện trong thời
gian quá cảnh. Quá cảnh hàng hoá phải thực hiện các thủ tục hải quan của pháp luật
[13].
Tóm lại, xuất khẩu, nhập khẩu được hiểu là việc mua bán hàng hoá diễn ra
dưới những hình thức nhất định như đã nêu, trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện
thanh toán, tiền tệ ở đây phải là ngoại tệ đối với một bên hoặc đối với cả hai bên.

5


Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện
của nền kinh tế, với nhiều đối tác khác nhau, hàng hoá khác nhau, từ hàng tiêu dùng
cho đến hàng sản xuất công nghiệp, từ máy móc thiết bị cho tới các công nghệ kỹ

thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các
quốc gia.
1.2. Khái niệm pháp lý về hàng hóa thương mại
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hàng hoá bao gồm: tất cả
các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với
đất đai.
Theo Điều 107 Bộ Luật Dân sự thì bất động sản bảo gồm: đất đai; nhà ở,
công trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công
trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật. Động sản được xác định là
những tài sản không phải là bất động sản.
Cũng theo Bộ Luật Dân sự, tài sản là “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền
tài sản”. Từ các quy định này cho thấy “giấy tờ có giá, quyền tài sản” cũng được
xem là hàng hoá, và các giao dịch mua bán, chuyển nhượng các tài sản này qua biên
giới quốc gia (hoặc qua ranh giới của khu vực hải quan riêng) cũng được xem là
hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá.
Trong phạm vi ngành luật hải quan, hàng hoá được giải thích bao gồm “hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam của người
xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh; kim khí quí, đá quí, cổ vật, văn hoá phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất
khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan”.
Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh bao gồm “động sản có tên gọi và
mã số theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam được xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh hoặc được lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan” (Khoản 6
Điều 4 Luật Hải Quan).

6


Tuy nhiên, không phải mọi giao dịch xuất, nhập khẩu đều là xuất, nhập khẩu
hàng hoá thương mại. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại: “Hoạt động thương

mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi…”. Như vậy, xuất, nhập khẩu hàng hoá
chỉ là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại khi và chỉ khi nó mang mục
đích sinh lợi. Mọi hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá không nhằm mục đích sinh
lợi đều không thuộc phạm vi nghiên cứu của bài viết này.
1.3. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập
khẩu
Pháp luật được hiểu là “toàn bộ những quy định do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đặt ra để hướng dẫn cách xử sự, có hiệu lực áp dụng bắt buộc đối với
mọi tổ chức, cá nhân và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đảm bảo việc thi
hành”. Một cách diễn đạt khác, pháp luật được hiểu là “hệ thống các quy tắc xử sự
do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội”. Ví dụ, Điều 12 Hiến pháp
năm 2013 của Việt Nam quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật… Các
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Dù được diễn giải
dưới hình thức nào, nhìn chung pháp luật có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất: Pháp luật bao gồm một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước
ban hành để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong xã hội.
- Thứ hai: Pháp luật do Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh quyền
lực nhà nước.
- Thứ ba: Pháp luật là một hiện tượng xã hội vừa mang tính xã hội, vừa
mang tính giai cấp. Bản chất xã hội của pháp luật xuất phát từ mục tiêu ban hành
pháp luật là để quản lý xã hội và vì lợi ích chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, vì Nhà
nước là đại diện cho một hoặc một số giai tầng cụ thể, nên dù ít hay nhiều, pháp luật
do Nhà nước ban hành cũng mang bản chất giai cấp, là công cụ phục vụ lợi ích
riêng của giai cấp thống trị. Văn bản quy phạm pháp luật: theo quy định tại Điều 2

7



Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2014 thì “Văn bản quy phạm pháp
luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền,
hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”. Cũng theo luật này (Điều 4),
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam bao gồm:
- Hiến pháp.
- Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.
- Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch
giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn
Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh).
- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt.

8


- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
huyện).
- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung
là cấp xã).
- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Như vậy, về bản chất, văn bản quy phạm pháp luật chính là nơi chứa đựng
các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, là hình thức thể hiện nội dung của từng
ngành luật, từng vấn đề pháp lý cụ thể. Một vấn đề đáng lưu ý là ở Việt Nam hiện
nay các Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế được tập hợp, hệ thống bởi các tổ chức
phi chính phủ không được thừa nhận là một hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
Tương tự, các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật do các cơ quan hành chính ban
hành, mà phổ biến nhất là hình thức “công văn” cũng không được thừa nhận như
một loại hình văn bản quy phạm pháp luật, có nghĩa là các văn bản này chỉ mang
tính chất định hướng, tham khảo chứ không có hiệu lực bắt buộc thi hành, dù đây là
một hình thức văn bản rất phổ biến ở Việt Nam.
Như vậy, qua phân tích có thể đưa ra khái niệm pháp luật về xuất, nhập khẩu
hàng hóa như sau: Pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hóa là tập hợp các quy tắc
xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nhằm thực hiện mục tiêu
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện xuất khẩu,
nhập khẩu nhằm mục tiêu sinh lợi.
Từ khái niệm được trình bày như trên có thể rút ra những đặc điểm của pháp
luật về xuất nhập khẩu hàng hóa như sau:
Một là: Pháp luật về xuất nhập khẩu hàng hóa là một bộ phận của pháp luật
về kinh tế, cụ thể là kinh tế đối ngoại. Hệ thống pháp luật này đóng góp một vị trí
rất quan trọng trong các quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia, trong đó có Việt

9



Nam. Theo đó, các quy định pháp luật về xuất, nhập khẩu là một bộ phận cấu thành
hệ thống pháp luật kinh tế. Theo đó, pháp luật về kinh tế có thể được hiểu là pháp
luật về hoạt động thương mại diễn ra giữa các chủ thể nhằm mục đích kinh doanh,
sinh lợi. Như vậy, pháp luật kinh tế có thể được chia thành pháp luật về hoạt động
thương mại trong nước (nội thương) và pháp luật về hoạt động thương mại với nước
ngoài (ngoại thương). Trong bộ phận pháp luật về ngoại thương thì pháp luật về
xuất, nhập khẩu chiếm vị trí rất quan trọng và chủ yếu nhất.
Trong bối cảnh trên các quốc gia đã đặt ra một loại thuế đặc biệt đánh vào
quá trình trao đổi hàng hóa của các thương nhân, tiền thân của thuế hải quan. Lúc
đầu thuế hải quan phát sinh từ các khoản thu mà các lãnh chúa phong kiến thu của
các thương nhân đi qua lãnh địa của họ, để bằng cách đó thoát khỏi việc bị cướp
bóc. Các khoản thu này về sau cũng được các thành phố áp dụng, khi xuất hiện các
nhà nước hiện đại thì thuế hải quan trở thành phương tiện thuận tiện nhất để tăng
thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước, phát triển và hội nhập
thương mại quốc tế, góp phần quan trọng vào việc củng cố địa vị của giai cấp thống
trị nhà nước.
Hai là: Như trên đã phân tích (phần khái niệm) các quy phạm của pháp luật
về xuất, nhập khẩu hàng hóa có nguồn từ văn bản quy phạm pháp luật khác nhau do
nhiều cơ quan khác nhau ban hành, tập trung ở Luật Thương mại, Luật Quản lý
ngoại thương, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Hải quan, Luật An toàn
thực phẩm…và thuộc phạm vi quản lý của nhiều ngành ở Trung ương và ở địa
phương. Như vậy, có thể nói, phạm vi các văn bản có quy phạm điều chỉnh hoạt
động xuất, nhập khẩu vô cùng rộng lớn, với nhiều văn bản khác nhau cùng tham gia
điều chỉnh. Những văn bản này thể hiện những vai trò khác nhau mà giữa chúng có
mối quan hệ hữu cơ, qua lại. Sự tương tác giữa các văn bản này góp phần tạo ra
khung pháp luật tương đối toàn diện điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu.
Vị trí, vai trò của mỗi văn bản là khác nhau, tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam
chưa thực sự có văn bản đồng bộ nhất, cụ thể nhất điều chỉnh chung về xuất, nhập

10



khẩu. Mặc dù Luật Quản lý ngoại thương vừa được Nhà nước cho ra đời nhưng
thực sự đây chỉ là văn bản thể hiện hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực này mà
chưa xuất phát từ khái niệm hoạt động xuất, nhập khẩu là quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể xuất, nhập khẩu. Do đó, hoạt động này còn cần sự điều chỉnh trực tiếp của
rất nhiều văn bản khác nữa.
Ba là: Do các quan hệ trong hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu có yếu tố
nước ngoài nên nguồn quan trọng của pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hóa còn là
các điều ước quốc tế song phương, đa phương của tư pháp quốc tế, các tập quán,
nhất là các tập quán thương mại quốc tế. Đây thực sự là một nét riêng biệt trong đặc
điểm về pháp luật xuất khẩu, nhập khẩu. Các điều ước quốc tế song phương và đa
phương như các hiệp định thương mại trong WTO, AFTA, AEFTA, Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, có tác động trực tiếp và cụ thể đến từng lĩnh vực
của hoạt động xuất, nhập khẩu. Chính vì vậy, nếu chỉ đề cập đến hệ thống các quy
phạm pháp luật trong nước thì thật là thiếu sót khi nghiên cứu lĩnh vực này.
Bốn là: Pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hóa thể chế hóa và bảo đảm thực
hiện các chính sách ngoại thương của nhà nước.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa có vai trò tích cực đối với nền kinh tế của mọi
quốc gia, song cũng tiềm ẩn nhiều mặt bất lợi cho nền kinh tế, như: Xuất, nhập khẩu
nếu không có sự quản lý điều tiết tốt thì có thể ảnh hưởng đến các ngành sản xuất
trong nước, nhất là các ngành công nghiệp non trẻ, có thể làm mất cân đối về cung
cầu gây ra những biến đổi lớn về kinh tế...
Để khắc phục những hạn chế đó của xuất, nhập khẩu đối với sự phát triển
kinh tế của đất nước và đời sống của nhân dân, Nhà nước phải tiến hành quản lý các
hoạt động xuất, nhập khẩu thông qua chính sách ngoại thương. Đây là chính sách
của Nhà nước có ảnh hưởng đến thương mại quốc tế thông qua việc đánh thuế trợ
cấp hoặc thông qua những hạn chế về xuất, nhập khẩu.
Mỗi một quốc gia hoạt động ngoại thương có các đặc trưng khác nhau nên
chính sách ngoại thương cũng khác nhau. Chính sách ngoại thương của Nhà nước


11


Việt Nam có nhiệm vụ là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh
xuất, nhập khẩu tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế, mở rộng hoạt
động xuất khẩu, bảo vệ thị trường trong nước nhằm đạt được những mục tiêu và yêu
cầu về kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Cũng như pháp luật nói chung, tất cả các ngành luật hoặc các chế định pháp
luật đều có những vai trò nhất định trong xã hội và được thể hiện chủ yếu thông qua
ba khía cạnh: vai trò chính trị, vai trò kinh tế và vai trò xã hội. Tuỳ thuộc vào chức
năng của mỗi ngành luật mà biểu hiện về tầm quan trọng của các vai trò này có thể
có sự khác nhau. Trong phần này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích những vai trò nổi
bật nhất của Pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thương mại, qua đó có thể
giúp người đọc hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của lĩnh vực pháp luật này trong tiến
trình xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ nhất, vai trò chính trị của pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
thương mại:
- Thể chế hoá chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng về định hướng
phát triển lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Vai trò này thể hiện rõ nét
thông qua sự thay đổi về chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng thời kỳ
trước đổi mới và trong giai đoạn đổi mới. Từ sự chuyển hướng về chính sách, hàng
loạt văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá đã
ra đời. Và sau hơn hai mươi lăm năm đổi mới, Nhà nước ta đã xây dựng và không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu
hàng hoá thương mại. Nhờ vậy, đường lối, chính sách của Đảng đã được cụ thể hoá
thành các quy phạm pháp luật và triển khai sâu rộng trong đời sống xã hội, góp
phần thúc đẩy phát triển đất nước đạt được kết quả bước đầu đáng khích lệ như hôm
nay.
- Quy định khung pháp lý về tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh

vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Vai trò này được thể hiện rõ nét thông
qua hai mục tiêu quan trọng:

12


+ Xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước trong hoạt động quản lý xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại một cách tinh gọn, hiệu quả.
+ Xây dựng một cơ chế đồng bộ để đảm bảo các chính sách, pháp luật được
thực thi đúng đắn, hiệu quả theo định hướng của Đảng, Nhà nước. Để thực hiện
được vai trò chính trị này, đòi hỏi hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hoá thương mại phải giải quyết có hiệu quả các vấn đề sau đây:
Xây dựng khung pháp lý về hệ thống, cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Quy định về trách
nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động quản lý Nhà
nước về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Quy định trách nhiệm phối hợp giữa
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Quy định biện pháp chế tài nhằm đảm
bảo hoạt động quản lý xuất, nhập khẩu hàng hoá được thực hiện phù hợp với chủ
trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, cả hai biểu hiện của vai trò chính trị đều nhằm một mục tiêu chung
là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển hoạt động xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại thành pháp luật của Nhà nước. Vai trò thứ nhất thực hiện
chuyển hoá từ định hướng chung thành các quy phạm pháp luật cụ thể, mang giá trị
bắt buộc thi hành bởi quyền lực Nhà nước. Vai trò thứ hai nhằm xây dựng cơ chế điều
hành, quản lý, kiểm soát và đảm bảo các quy phạm pháp luật được thực thi đúng đắn,
phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng đã đề ra. Tóm lại, một cách ngắn gọn, có
thể hiểu rằng vai trò chính trị của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại là thể chế các chủ trương, đường lối của Đảng thành
pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, vai trò kinh tế của pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá

thương mại. Bên cạnh vai trò chính trị, pháp luật xuất, nhập khẩu hàng hoá thương
mại còn thể hiện rõ nét vai trò kinh tế ở các khía cạnh sau đây:
+ Xây dựng khung pháp lý để các cơ quan Nhà nước tiến hành hoạt động
quản lý trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Là công cụ để Nhà

13


nước khắc phục các nhược điểm của nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự phát triển
ổn định của quốc gia thông qua việc điều chỉnh linh hoạt các chính sách xuất, nhập
khẩu từng thời kỳ; đảm bảo lợi ích hài hoà của các thành phần trong xã hội; và góp
phần hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước từng bước tăng cường hiệu quả hoạt động
và khả năng cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Xây dựng hành lang pháp lý để các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có thể
thực hiện quyền xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại; là công cụ pháp lý để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá
thương mại.
+ Cũng thông qua pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thương mại,
Nhà nước có thể chủ động thực thi một cách đúng đắn các chính sách bảo hộ mậu
dịch thương mại nhằm hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và góp
phần bảo vệ nền sản xuất trong nước.
Thứ ba, vai trò xã hội của pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
thương mại. Như đã phân tích ở phần trên, bên cạnh bản chất giai cấp, pháp luật còn
mang bản chất xã hội. Bản chất xã hội này thể hiện ở việc pháp luật chính là công
cụ quản lý xã hội của Nhà nước, nhưng cũng là để phục vụ lợi ích của xã hội. Tùy
thuộc vào từng thể chế chính trị, hình thức Nhà nước mà bản chất xã hội của pháp
luật được thể hiện ít hay nhiều. Đặc biệt, là một Nhà nước của dân, do dân và vì dân
thì bản chất xã hội của pháp luật Việt Nam được đặc biệt xem trọng. Do vậy, mặc
dù là một ngành luật trực tiếp điều chỉnh các quan hệ kinh tế, nhưng pháp luật điều
chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại vẫn thể hiện rõ nét vai trò xã

hội của mình thông qua các dấu hiệu:
+ Pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại phải
đảm bảo hài hoà lợi ích của mọi thành phần trong xã hội, mà mục tiêu cao nhất là
giúp người tiêu dùng trong nước tiếp cận hàng hoá giá rẻ và giúp nhà sản xuất trong
nước tiêu thụ được sản phẩm với giá cao.

14


+ Nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động xuất, nhập khẩu đối với
một số loại hàng hoá quan trọng, thiết yếu nhằm đảm bảo ổn định xã hội.
+ Thông qua pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá
thương mại, Nhà nước có thể chủ động khuyến khích hay hạn chế việc xuất nhập
khẩu đối với một số loại hàng hoá nhất định, đặc biệt là hạn chế hoặc cấm nhập
khẩu các sản phẩm không phù hợp với môi trường văn hoá, giáo dục và đạo đức
Việt Nam, góp phần định hướng tiêu dùng cho người dân và giữ gìn truyền thống,
bản sắc văn hoá quốc gia.
+ Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay thì vai trò xã hội của pháp luật về xuất
nhập khẩu còn thể hiện thông qua việc hạn chế xuất, nhập khẩu các sản phẩm gây ô
nhiễm môi trường; hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô nhằm đảm bảo một sự phát
triển bền vững cho các thế hệ tương lai chứ không thể đánh đổi sự phát triển bằng
mọi giá.
1.4. Các tiêu chí xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Có nhiều tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật trong quản lý nhà
nước về xuất, nhập khẩu, song có bốn tiêu chí quan trọng sau:
Thứ nhất: Pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu phải bảo
đảm tính nhất quán, toàn diện
Như trên đã phân tích pháp luật trong quản lý xuất, nhập khẩu là một bộ
phận của pháp luật trong quản lý nhà nước về ngoại thương, vì vậy tiêu chí hoàn

thiện trên của nó là đặc biệt quan trọng, thể hiện:
- Các quy định của pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu phải
nhất quán về mục tiêu, phù hợp với các nội dung quản lý nhà nước về ngoại thương,
kinh tế đối với các lĩnh vực khác thuộc chức năng quản lý nhà nước của cơ quan
quản lý xuất, nhập khẩu.

15


- Các quy định trong quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu phải toàn diện về
tất cả các nội dung liên quan đến quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tạo ra
được khuôn khổ pháp lý thuận lợi và môi trường kinh doanh xuất, nhập khẩu lành
mạnh cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Thứ hai: Pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu phải có
quan hệ thống nhất với các bộ phận pháp luật trong các lĩnh vực khác có liên
quan
Hiện nay cơ quan quản lý xuất, nhập khẩu thông qua việc làm thủ tục hải
quan và thực hiện kiểm tra, giám sát hải quan, cũng có nghĩa vụ đảm bảo cho hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập cảnh, quá cảnh được thực hiện theo đúng
các quy định của nhà nước, các chế độ về giấy phép và hạn ngạch xuất, nhập khẩu
đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp, các chế độ về thuế và nghĩa
vụ tài chính khác, chế độ xuất, nhập khẩu tiền Việt Nam, các quy định về tiêu chuẩn
kỹ thuật đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, môi
trường, an toàn thực phẩm, sức khỏe người tiêu dùng... các quy định về xuất xứ
hàng hóa, về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Vì lẽ đó mức độ hoàn thiện pháp luật về
xuất, nhập khẩu phải được thể hiện thống nhất với các bộ phận pháp luật quy định
về những vấn đề trên, có nghĩa là:
+ Thống nhất với các quy định của Luật Doanh nghiệp về các nội dung quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
+ Thống nhất với những quy định quản lý nhà nước đối với hàng hóa xuất,

nhập khẩu mà cơ quan hải quan chịu trách nhiệm thực hiện việc kiểm tra, giám sát
nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật hiện nay. Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu có
điều kiện, Danh mục hàng hóa xuất, nhập khẩu theo diện quản lý chuyên ngành và các
nguyên tắc áp dụng Danh mục này trong lĩnh vực quản lý chuyên ngành. Theo Quyết
định này hàng hóa nếu thuộc diện quản lý của Bộ Thương mại thì phải theo quy
định của Bộ Thương mại; nếu thuộc diện quản lý chuyên ngành thì phải chịu sự

16


điều chỉnh, quản lý theo các văn bản của các Bộ chuyên ngành mới được xuất, nhập
khẩu.
+ Thống nhất với những quy định về quản lý điều hành xuất, nhập khẩu hàng
hóa. Đây là bộ phận pháp luật quan trọng góp phần đẩy mạnh kinh tế Việt Nam hội
nhập với nền kinh tế quốc tế, tham gia vào nền thương mại toàn cầu. Do đó tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện pháp luật trong quản lý về hải quan đối với doanh nghiệp kinh
doanh xuất, nhập khẩu phải tiến hành song song với đổi mới, hoàn thiện về pháp
luật quản lý hàng hóa xuất, nhập khẩu, trong đó cần phải theo quan điểm yêu cầu: 1tinh giảm các biện pháp quản lý bằng giấy phép, hạn ngạch xuất, nhập khẩu, giảm
nhanh bảo hộ phi thuế quan những mặt hàng sản xuất đòi hỏi công nghệ cao, doanh
nghiệp đầu tư trong nước không có khả năng cạnh tranh, sản xuất; 2- giảm các đầu
mối cơ quan quản lý chuyên ngành xuất, nhập khẩu để tránh trùng lắp; 3- khẩn
trương khắc phục những quy định bất cập, không phù hợp với thực tế, hoặc chồng
chéo, thiếu chặt chẽ dễ lợi dụng để buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, hoặc
nhập khẩu hàng hóa gây thiệt hại cho môi trường và người tiêu dùng về sức khỏe,
tính mạng; 4- sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật để tạo nhiều
thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng tiêu dùng nhằm đẩy
lùi sự cạnh tranh, lấn át của hàng ngoại trên thị trường nội địa; thống nhất hóa chính
sách, biện pháp quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa biên mậu, cho phù hợp
với thực tế từng vùng biên, đối ứng hiệu quả với chính sách biên mậu của nước láng
giềng, bãi bỏ phân biệt về quản lý xuất, nhập khẩu hàng hóa "tiểu ngạch và chính

ngạch".
+ Thống nhất với bộ phận pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất, nhập
khẩu. Pháp luật về thuế mặt khác cũng phải được đổi mới, sao cho vừa phải đảm
bảo đáp ứng tiêu chuẩn khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, nhưng phải tuân
thủ chỉ đạo của Đảng "tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất
nước và các cam kết quốc tế, đơn giản hóa sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống
thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài". Xây
dựng hệ thống pháp luật về thuế phải đảm bảo "chính sách thuế xuất nhập khẩu có

17


định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán có
hiệu quả kinh doanh". Tiếp tục giảm số lượng mức thuế suất, xóa bỏ ưu đãi theo tỷ
lệ nội địa hóa, thu hẹp diện miễn giảm thuế, đẩy mạnh việc áp dụng hạn ngạch và
bảng giá tối thiểu một công cụ không phù hợp với thông lệ quốc tế...
Thứ ba: Về phương diện chính trị, pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất,
nhập khẩu phải thể chế hóa đường lối xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách đổi
mới trong lĩnh vực đối ngoại, trực tiếp là chính sách xuất, nhập khẩu
Bám sát chủ trương chính sách của Nhà nước về quan hệ thương mại quốc
tế, đặc biệt chuẩn bị đầy đủ các điều kiện sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới, đòi hỏi pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng được
hoàn thiện, phù hợp với pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà nước ta là
thành viên.
Thứ tư: Về phương diện kỹ thuật, các quy định của pháp luật về xuất,
nhập khẩu phải rõ ràng, cụ thể, minh bạch, phải được công khai hóa, các doanh
nghiệp đều được tiếp cận một cách dễ dàng, thuận tiện, cập nhật thường xuyên,
liên tục
Các văn bản liên quan đến pháp luật xuất, nhập khẩu khi xây dựng, ban hành

hướng dẫn thực hiện cần đảm bảo để doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu dễ thực
hiện, có tính khoa học, minh bạch và có tính khả thi cao.

18


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ
XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
2.1. Khái quát sơ lược sự phát triển chính sách, pháp luật Việt Nam về xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể nói sự phát triển chính sách, pháp luật Việt Nam về xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trải qua 4 giai đoạn: giai
đoạn những năm 1986 - 1990, giai đoạn những năm 1991 - 1995, giai đoạn 2001 2010 và giai đoạn 2011 - 2020.
Giai đoạn những năm 1986 - 1990
Ngay từ khi bắt đầu đổi mới (năm 1986), về chính sách ngoại thương, Nhà
nước ta đã có những quyết sách vô cùng quan trọng về hội nhập quốc tế:
Thứ nhất, mở cửa nền kinh tế, chủ trương hướng mạnh nền kinh tế ra bên
ngoài để hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, xoá bỏ chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương (chế độ chỉ có duy
nhất Nhà nước được hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá), mở rộng quyền
hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá cho các thành phần kinh tế
khác (ý nói thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) tham gia.
Thứ ba, khẳng định tầm quan trọng to lớn của quan hệ thương mại quốc tế
đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Coi “xuất khẩu là mũi nhọn có ý nghĩa
quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5 năm (1986 - 1990) đồng thời cũng
là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại” [3]
Cũng trong giai đoạn đó Việt Nam bắt đầu bình thường hoá quan hệ với Hoa
Kỳ, gia nhập ASEAN, tham gia APEC, ASEM và chuẩn bị đàm phán thương mại
với Mỹ, mà trọng tâm của chính sách thương mại là xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.


19


×