Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

115 tăng cường thu hút vốn FDI vào ngành dệt may tại tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.95 KB, 80 trang )

Học viện Tài Chính

1

Luận văn tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình
hình thực tế của đơn vị thực tập.

Sinh viên thực hiện

Tăng Thị Hồng Vân

Sinh viên: Tăng Thị Hồng Vân

Lớp CQ52/08.04


MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
APEC
ASEM
CCN
DN
DNLD
ĐTNN
ĐTTTNN


FDI
IMF
KCN
NĐTNN
NSNN
OCED
ODA
WTO
XTĐT

Tiếng Anh
Asia-Pacific Economic
Cooperation

Tiếng Việt
Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình
Dương
Asia-Europe Meeting
Hội nghị thượng đỉnh Á
- Âu
Cụm công nghiệp
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp liên
doanh
Đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Foreign Direct Investment
Đầu tư quốc tế trực

tiếp
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ Quốc tế
Khu công nghiệp
Nhà đầu tư nước ngoài
Ngân sách nhà nước
Organization for Economic
Tổ chức Hợp tác và
Co-operation and
phát triển kinh tế
Development
Official Development
Hỗ trợ phát triển chính
Assistance
thức
World Trade Organization
Tổ chức thương mại
thế giới
Xúc tiến đầu tư
DANH MỤC CÁC BẢNG



DANH MỤC CÁC HÌNH


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong các nguồn lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, vốn là
quan trọng, đôi khi nó chính là vấn đề quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng

nguồn vốn có hiệu quả chính là chìa khóa thành công cho mọi quốc gia, đặc
biệt là đối với nền kinh tế đang còn phát triển. Trong khi đó nền kinh tế thế
giới đang vận động phát triển không ngừng. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế diễn ra một cách mạnh mẽ. Do đó, hoạt động đầu tư giữa các nước
cũng được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) trở thành một hoạt động chiếm vị trí ngày càng quan trọng đối với các
nước.
Cùng với các tỉnh thành khác trong cả nước, những năm qua tỉnh Hải
Dương đã có nhiều cố gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều
cơ chế, tạo thuận lợi… nhằm thu hút vốn đầu tư. Từ đó mà vốn đầu tư từ nước
ngoài không ngừng tăng lên, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Kết quả hoạt động các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần vào tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách có hiệu quả, đúng hướng.
Bên cạnh các lĩnh vực, ngành thế mạnh mang lại lợi ích cũng như hiệu
quả cao cho nền kinh tế thì ngành Dệt may cũng là một ngành có ý nghĩa
không hề nhỏ cho nền kinh tế. Ngành Dệt may được coi là ngành hàng mũi
nhọn tại Việt Nam, nhiều năm qua dệt may là ngành “ tiên phong” trong
chiến lược xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra th ị tr ường th ế gi ới thu v ề
cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn. Khi xã h ội ngày càng phát
triển, văn minh hơn và mức sống mỗi ngày một cao hơn thì nhu cầu của
mỗi con người về hàng may mặc ngày càng phong phú, đa d ạng và ch ất
lượng cao hơn. Đối với nước đang phát triển như Việt Nam nói chung và
tỉnh Hải Dương nói riêng thì ngành may mặc mang l ại r ất nhi ều l ợi ích


kinh tế. Với những lợi thế mà tỉnh Hải Dương có, cùng v ới việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Trung
Quốc … chưa tương ứng với tiềm năng phát triển ngành Dệt may mà tỉnh
có, nên em chọn đề tài: “Tăng cường thu hút vốn FDI vào ngành Dệt
may tại tỉnh Hải Dương” làm nội dung nghiên cứu và tìm hiểu của

mình.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vốn FDI vào ngành dệt may tại tỉnh Hải
Dương.
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu các lý luận chung về FDI, thu hút
FDI vào ngành dệt may.
Phân tích vai trò, sự cần thiết, đánh giá thực trạng thu hút v ốn FDI
vào ngành dệt may tại tỉnh Hải Dương.
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận và th ực tiễn về hoạt đ ộng thu hút, s ử
dụng FDI tại tỉnh Hải Dương, khóa luận đưa ra những ph ướng h ướng và
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn FDI vào ngành d ệt may
để tận dụng lợi ích mà ngành đem lại góp phần thúc đẩy tỉnh Hải D ương
nói riêng và Việt Nam nói chung trên con đường trở thành n ước Công
nghiệp hiện đại.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu:
-Về không gian: Tỉnh Hải Dương
-Về thời gian: giai đoạn 2011-2017
-Về nội dung: thu hút vốn FDI vào ngành dệt may tại tỉnh Hải
Dương.
4. Phương pháp nghiên cứu


Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghia duy v ật biện
chứng kết hợp các phương pháp như phương pháp thống kê, t ổng h ợp,
đối chiếu, phân tích, so sánh, logic từ các các tài liệu, số liệu thống kê được
thu thập thông qua các công trình đã được công bố, tài liệu thống kê, báo cáo
đã được công bố, các bảng biểu, báo cáo thường niên của Sở kế hoạch và
đầu tư tỉnh Hải Dương gắn lý luận với th ực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Bố cục của luận văn

Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, phần nội dung chính gồm 3 ch ương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về thu hút đầu tư trực tiếp n ước
ngoài vào ngành dệt may.
Chương 2: Thực trạng thu hút FDI vào ngành dệt may tại tỉnh Hải
Dương.
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào ngành dệt may t ại
tỉnh Hải Dương.



CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH DỆT MAY
1.1 Những lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Foreign Direct Investment”
và được dịch sang tiếng Việt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều khái
niệm về FDI như sau:
Theo khái niệm của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF(1997):
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động đầu tư thực hiện nhằm
đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh
thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ
đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.”
- Lợi ích lâu dài: Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu
tư thường đặt ra các mục tiêu lợi ích dài hạn. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi
phải có một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận
đầu tư trực tiếp đồng thời có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc
quản lý doanh nghiệp này.
- Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp: nói đến ở đây chính là quyền
kiểm soát doanh nghiệp. Quyền kiểm soát doanh nghiệp là quyền tham gia

vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty, thông qua, phê
chuẩn kế hoạch hành động do người quản lý hàng ngày của doanh nghiệp lập
ra, quyết định việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết định phần vốn
góp giữa các bên, tức là những quyền ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, sống
còn của doanh nghiệp.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OCED): Đầu tư trực tiếp
là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập mối quan hệ kinh tế lâu


dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng
tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:
Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc
toàn quyền quản lý của chủ đầu tư.
Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
Cấp tín dụng dài hạn (>5 năm)
Quyền kiểm soát: nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết
trở lên.
Theo Luật đầu tư năm 2005 mà quốc hội khóa XI Việt Nam đã thông
qua có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”,
“đầu tư ra nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước
ngoài”. Tuy nhiên, có thể “gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu FDI là
hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý
hoạt động ở nước ngoài theo quy định của luật này và cá quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức
chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn vào các dự án
nhằm giành quyền điều hành và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ bỏ

vốn”. Mà bản chất của nó là sự di chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh
doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Đó chính là
hình thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao.
1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Một là, FDI mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhưng nó ít bị
lệ thuộc hơn vào quan hệ chính trị giữa các bên nếu so sánh với các hình thức
vốn nước ngoài khác như ODA, tín dụng quan hệ thương mại.


Hai là, chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành hoặc tham gia điều
hành dự án đầu tư tùy theo tỷ lệ góp vốn.
Ba là, FDI kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lý các nguồn vốn đã
được đầu tư. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không
có những rang buộc về kinh tế, chính trị, không để lại gánh nợ nần cho nền
kinh tế.
Bốn là, Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước tiếp nhận đầu tư có
thể tiếp nhận công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại,…
Năm là, FDI liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa
quốc gia và sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế, thương mại quốc tế.
Tóm lại, mục đích cuối cùng của FDI là lợi nhuận, là khả năng sinh lời
cao hơn khi sử dụng đồng vốn ở nước bản địa. Bản chất của FDI là mục đích
kinh tế được đặt lên hàng đầu. Thông qua FDI, các chủ đầu tư tránh được thuế
và những bất lợi các nước áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu. Với ưu thế về kỹ
năng quản lý đặc biệt, khả năng tài chính cũng như lợi thế về quy mô, các nhà
đầu tư hoàn toàn có khả năng thu lợi nhuận, duy trì kiểm soát, cũng như dành
các lợi ích phục vụ cho mục đích của họ. Việc thâm nhập vào các thị trường
đa dạng cũng giúp họ phát triển lợi nhuận hoặc san sẻ rủi ro giữa các thị
trường.
1.1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1 Doanh nghiệp liên doanh

Khái niệm:
Doanh nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh doanh quốc tế do hai bên
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp
định ký giữa Chính phủ nước chủ nhà và Chính phủ nước ngoài, hoặc doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp nước chủ nhà, do
doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp
đồng liên doanh.


Đặc điểm:
Về pháp lý: DNLD là một pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động
theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức của DNLD là do các bên tự
thỏa thuận phù hợp với các quy định của luật pháp nước nhận đầu tư, như
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp
vốn... Quyền lợi, nghĩa vụ của các bên và quyền quản lý DNLD phụ thuộc
vào tỷ lệ góp vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và Điều lệ của
DNLD.
Về tổ chức: Hội đồng quản trị của doanh nghiệp là mô hình chung cho
mọi DNLD không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực nghành nghề. Đây là cơ
quan lãnh đạo cao nhất của DNLD.
Về kinh tế: Luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các bên trong
liên doanh và cả các bên đứng ở phía sau các liên doanh. Đây là vấn đề hết
sức phức tạp.
Về điều hành sản xuất kinh doanh: Quyết định sản xuất kinh doanh dựa
vào các quy định pháp lý của nước nhận đầu tư về việc vận dụng nguyên tắc
nhất trí hay quá bán.
- Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên
doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
- Đây là hình thức đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Đối với nhà đầu tư trong nước: có điều kiện tiếp cận công nghệ

hiện đại, trình độ quản lý tốt. Đối với nhà đầu tư nước ngoài: không bỡ ngỡ
với môi trường pháp lý, đầu tư.
1.1.3.2 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Khái niệm:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình doanh nghiệp thuộc sở
hữu của nhà ĐTNN, có thể là tư nhân hoặc tổ chức nước ngoài, do nhà ĐTNN
thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự chụ trách nhiệm về kết quả hoạt động


kinh doanh của mình. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường được
thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Tài sản của
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuộc về cá nhân, tổ chức nước ngoài nên
họ có quyền quyết định bộ máy quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Đặc điểm:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là pháp nhân của nước nhận đầu tư
nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. Hoạt
động sản xuất kinh doanh theo hệ thống pháp luật của nước nhận đầu tư và
Điều lệ doanh nghiệp. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật. Quyền
quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Mô hình tổ chức của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là do nhà đầu
tư nước ngoài tự lựa chọn. Nhà đầu tư nước ngoài tự chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài.
Nhà đầu tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp và
các vấn đề liên quan để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ
luật pháp cho phép.
1.1.3.3 Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
Khái niệm:

Đây là hình thức mà một bên là chủ đầu tư nước ngoài và một bên là chủ
đầu tư trong nước kí kết văn bản để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản
xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân
phối kết quả hoạt động kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp
hay không hình thành pháp nhân mới nào.
Đặc điểm:


Cùng góp vốn: các bên hợp doanh có thể góp vốn bằng tiền mặt, nhà
xưởng, quyền sử dụng đất, tư liệu sản xuất, quyền sở hữu công nghiệp, công
nghệ độc quyền, chi phí lao động, nguồn tài nguyên. Tỷ lệ góp vốn do các bên
thỏa thuận
Việc quản lý thực hiện hợp đồng kinh doanh được giao cho một bên đối
tác. Trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể hình thành ban điều
phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban
điều phối không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh.
Về phân chia kết quả kinh doanh, khác với doanh nghiệp liên doanh,
hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân
chia kết quả kinh doanh chung. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với nước sở tại một cách riêng rẽ.
Về mặt pháp lý, hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản pháp lý duy
nhất quy định đặc trưng về pháp lý của dự án hợp doanh. Tuy nhiên nó chưa
đủ để đảm bảo cho hình thức này tính chỉnh thể về mặt pháp lý.
1.1.3.4 Các hình thức BTO, BOT, BT
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là hình thức
đầu tư nước ngoài dựa trên cơ sở văn bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không
bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước sở tại.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là hình thức

đầu tư nước ngoài dựa trên cơ sở văn bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước sở tại;
Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một
thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là hình thức đầu tư nước
ngoài dựa trên cơ sở văn bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm


quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước sở tại; Chính phủ
tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
1.1.4 Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.4.1 Đối với nước đầu tư
a Tác động tích cực
Một là, tận dụng lợi thế so sánh để thu lợi nhuận cao: Sự không đồng đều
về trình độ phát triển giữa các nước trên thế giới đã tạo nên sự chênh lệch về
điều kiện và giá cả yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó đầu tư nước ngoài cho
phép sử dụng lợi thế nơi tiếp nhận vốn để giảm chi phí sản xuất, nước đi đầu
tư có thể hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản
xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu
quả của vốn đầu tư, tăng tỷ suất lợi nhuận.
Hai là, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành trướng
sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Việc xây dựng các nhà
máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm của công ty mẹ ở nước ngoài, đồng thời còn là biện pháp thâm
nhập thị trường hữu hiệu, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
Ba là, tìm kiếm được nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu ổn định: Mục
tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài tìm kiếm nguồn nguyên liệu, nhiên

liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của các chủ đầu tư,
chẳng hạn thăm dò khai thác dầu khí, khoáng sản, tài nguyên biển, rừng, sản
phẩm công nghiệp,... Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển nhưng
không có điều kiện khai thác, chế biến do thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư
vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ
có lợi nhuận cao.
Bốn là, chuyển giao công nghệ hợp lý, thay đổi cơ cấu sản phẩm, nâng


cao năng lực cạnh tranh: Nhịp độ phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi
phương thức sản xuất, cơ cấu sản phẩm phải không ngừng đổi mới, đời sống
của máy móc ở các nước phát triển ngày càng ngắn lại, nhiều khi không kịp
thu hồi vốn.Giải pháp hữu hiệu nhất là chuyển những máy móc, công nghệ
này sang các nước kém phát triển hơn bởi vì đối với họ công nghệ này vẫn
còn rất mới.Điều này giúp nhà đầu tư vừa thu hồi vốn, vừa kéo dài đời sống
sản phẩm tại thị trường khác và còn thu được nhiều đặc lợi do chuyển giao
công nghệ.
b Tác động tiêu cực
Thứ nhất, nếu chính phủ các nước đi đầu tư đưa ra các chính sách không
phù hợp sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong
nước. Khi đó các doanh nghiệp sẽ lao mạnh ra nước ngoài đầu tư để thu lợi,
do đó nền kinh tế các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu.
Thứ hai, đầu tư ra nước ngoài có nguy cơ gặp nhiều rủi ro hơn trong
nước, do đó các doanh nghiệp này thường phải áp dụng nhiều biện pháp khác
nhau để hạn chế rủi ro.
Thứ ba, ảnh hưởng tới cán cân thanh toán quốc tế.
1.1.4.2 Đối với nước nhận đầu tư
a Tác động tích cực
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn bổ sung
vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo ra động lực

cho sự tăng trưởng và phát triển.
Thực tế cho thấy FDI có những ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy
động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với mức lãi suất
nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng kinh tế hoặc như các khoản viện trợ
đi kèm với điều kiện về chính trị, can thiệp vào nội bộ nền kinh tế. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài tạo ra tác động tích cực đối với việc huy động nguồn vốn
khác của nước chủ nhà.Ngoài ra, thông thường các nước nhận đầu tư ngoài


việc nhận được vốn FDI còn có cơ hội thuận lợi trong việc huy động các
nguồn vốn khác như ODA, nguồn vốn trong nhân dân nhờ chiếm được lòng
tin của họ.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
- Song song với việc bổ sung nguồn vốn, sự ra đời của các công ty có vốn
đầu tư nước ngoài được coi như là đối trọng với các doanh nghiệp trong nước,
làm gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường.Sự cạnh tranh này là điều kiện cơ
bản để thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư có
thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.Với sự tham gia của các
doanh nghiệp nước ngoài vào nền kinh tế, các mối quan hệ quốc tế được mở
ra, vốn, công nghệ,… được đưa vào, khả năng xuất khẩu tăng lên, quan hệ
ngoại thương được mở rộng, sự giao lưu giữa doanh nghiệp trong và ngoài
nước được tăng cường.Vị thế của nước nhận đầu tư trên trường quốc tế vì thế
cũng được nâng lên.
Thứ ba, tạo việc làm và phát triển nhân lực.
Không những thu hút một lượng lao động lớn, doanh nghiệp FDI còn gián
tiếp ảnh hưởng đến cơ hội việc làm ở những nganh có liên quan. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng quản
lý kinh doanh cho nước nhận đầu tư.

Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm tăng cường khả năng khoa học
công nghệ của quốc gia nhờ tiến hành chuyển giao công nghệ, tạo ra năng lực
sản xuất mới, ngành mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức hiệu quả nhất để phát triển
công nghệ của các nước đang phát triển, cả về công nghệ “phần cứng” (máy
móc, thiết bị…) lẫn công nghệ “phần mềm” (bí quyết công nghệ và kỹ năng
quản lý) . Đầu tư sẽ góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa


các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo
đói. Các ngành mới, lĩnh vực mới phát triển cũng góp phần vào chuyển dịch
cơ cấu ngành của nền kinh tế nước nhận đầu tư.
Thứ năm, đóng góp vào ngoại thương và cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế.
Các quốc gia đang phát triển thường xuất khẩu các sản phẩm thô, sản
phẩm nông nghiệp có giá trị thấp và phải nhập khẩu các sản phẩm công nghệ
cao với giá trị cao. Điều này dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thường mại
trầm trọng. Nhưng nhờ có FDI, tình hình đã được cải thiện.Các nước nhận
đầu tư đã có khả năng sản xuất, chế biến các sản phẩm, nguyên liệu mà trước
đây không tự sản xuất được phải nhập khẩu, giúp tăng tỷ lệ sản phẩm trong
danh mục hàng hóa xuất khẩu. Ngoài ra, vốn FDI còn có thể bổ sung đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ của nước nhận đầu tư khi xảy ra thiếu hụt.
Thứ sáu, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngoài ý nghĩa tăng cường vốn đầu tư
nội địa còn làm tăng nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Thông qua các loại
thuế, phí, lệ phí do các doanh nghiệp nộp. Đối với Chính phủ các nước đang
phát triển thì nguồn thu này có thể chiếm 10 - 15% tổng thu từ thuế. Từ đây
có thể thấy FDI có vai trò như thế nào trong nền kinh tế các nước đang phát
triển.
b Tác động tiêu cực
Thứ nhất, môi trường chính trị và kinh tế của nước sở tại tác động trực

tiếp đến dòng vốn FDI.
Thứ hai, ô nhiễm môi trường và tài nguyên bị khai thác cạn kiệt.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đưa những dự án hoặc một công đoạn sản
xuất có gây ô nhiễm cao vào các nước đang phát triển, nơi mà luật pháp và
khả năng kiểm soát bảo vệ môi trường còn thiếu chặt chẽ. Do đó, tình trạng
phát triển nóng khi có dòng FDI ồ ạt vào sẽ đánh đổi với khả năng gây ô
nhiễm môi trường cao. Hiện tượng FDI làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên


là một thực tế đang xảy ra, nhất là đối với các loại FDI nhắm vào tài nguyên
thiên nhiên và lao động rẻ tiền
Thứ ba, sự phụ thuộc của nền kinh tế vào đầu tư nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài làm tăng sự lệ thuộc của nền kinh tế vào vốn, kỹ thuật
và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của công ty đa quốc gia, nước nào càng dựa
vào đầu tư nước ngoài thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào nước ngoài càng
lớn. Tuy nhiên mức độ phụ thuộc còn tùy vào chính sách và khả năng hấp thụ
đầu tư nước ngoài của từng quốc gia. Một khi tranh thủ được những hiệu ứng
tích cực của FDI đồng thời với thúc đẩy phát triển công nghiệp, tạo nguồn
tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới
thì sẽ giảm được sự phụ thuộc. Mặt khác cần nhận thức rằng xu thế hội nhập
ngày càng phổ biến, các liên minh kinh tế càng ngày càng rộng mở thì sự phụ
thuộc lẫn nhau, phụ thuộc vào bên ngoài là một vấn đề mang tính tất yếu.
Thứ tư, sử dụng công nghệ lạc hậu.
Môi trường cạnh tranh tại các nước phát triển ngày càng gay gắt, đòi hỏi
phải luôn nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Từ đó các máy móc
thiết bị công nghệ hạng 2 sẽ được di chuyển vào các nước đang phát triển có
nhiều lao động, có nhiều ưu đãi, ít cạnh tranh và còn nới lỏng về môi trường
thông qua con đường đầu tư.Do đó, nếu không thẩm định kĩ về công nghệ sẽ
có thể nhận chuyển giao từ các nước đi đầu tư các công nghệ lạc hậu hoặc
không phù hợp với nền kinh tế trong nước, dễ bị thua thiệt do giá chuyển

nhượng nội bộ từ các công ty quốc tế gây ra.
Thứ năm, các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của
các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều khi không theo ý muốn của nước tiếp nhận.
Điều đó gây khó khăn cho nước tiếp nhận khó chủ động trong bố trí cơ cấu
đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
1.1.5 Thu hút FDI
1.1.5.1 Khái niệm và đặc điểm


a Khái niệm thu hút FDI
Thu hút FDI là hoạt động nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào
một quốc gia. Như vậy, bản chất của hoạt động thu hút FDI là hoạt động thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn và trực tiếp quản lý điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh tại quốc gia nước tiếp nhận đầu tư.
b Đặc điểm của việc thu hút FDI
• Đây là một hoạt động có định hướng dựa trên chiến lược phát triển và
mục tiêu thu hút FDI.
• Hoạt động này được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng phong
phú và được thực hiện bởi nhiều cấp, ngành của nước sở tại.
• “Cùng có lợi” được coi là nguyên tắc cơ bản để giải quyết các quan hệ
giữa các bên trong quá trình thu hút FDI.
• Có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá trình
thực hiện hoạt động.
1.1.5.2 Quy trình thu hút
Dựa trên những khía cạnh và nội dung mà các nhà đầu tư nước ngoài quan
tâm khi ra quyết định đầu tư, quy trình thu hút FDI bao gồm các nội dung:
• Xác định mục tiêu thu hút FDI: dựa trên quy hoạch, kế hoạch phát triển
quốc gia, mục tiêu, chiến lược Chính phủ đề ra cho từng giai đoạn, từng năm
để đề ra mục tiêu thu hút FDI. việc xác định sản phẩm, dịch vụ sẽ được bán
cho các nhà đầu tư tiềm năng.

• Xác định các nhà đầu tư mục tiêu cho các lĩnh vực/sản phẩm: Dựa vào
tình hình của các nhà đầu tư, tìm hiểu các nhà đầu tư tiềm năng. Nó có thể
liên quan đến những vấn đề sau: (1) quốc tịch của nhà đầu tư, (2) nguồn tài
chính của hoạt động đầu tư, (3) phân loại nhà đầu tư: họ là người nước ngoài,
địa phương, các công ty xuyên quốc gia hay các DN vừa và nhỏ…(4) nếu có
thể, xác định lý do tại sao những nhà đầu tư tiềm năng đang tìm kiếm địa
điểm đầu tư, (5) những thông tin sơ lược điển hình về những nhà đầu tư mục


tiêu, sắp xếp từ những thông tin cơ bản về các công ty này đến những vấn đề
riêng biệt có thể hỗ trự cho chiến dịch thu hút. Sau khi xem xét các vấn đề
trên, cũng cần xác định sản phẩm, dịch vụ sẽ được bán cho các nhà đầu tư
tiềm năng.
• Xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư:
- Xây dựng hệ thống biện pháp ưu đãi về kinh tế: ưu đãi về thuế, ưu đãi
tín dụng,…
- Xây dựng chính sách pháp luật: tự do hóa đầu tư, khuyến khích đầu tư nước
ngoài đầu tư theo hướng thay thế nhập khẩu, hay hướng vào xuất khẩu,…

• Xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu
tư: chuẩn bị và tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư, các hội
thảo, hội nghị tăng cường giao lưu hợp tác các nước trên
lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,… lựa chọn cách thức
tiếp cận thu hút đầu tư và những phương pháp mời gọi
chính yếu như: quảng cáo/PR, quan hệ truyền thống/các
chuyến đi quảng bá, những tài liệu thu hút đầu tư, chương
trình gửi thư mời trực tiếp, tiếp thị truyền thông,… Các
hoạt động đa dạng nhằm tạo nên một phần của chiến dịch
XTĐT sắp xếp theo thứ tự từ việc tiếp thị truyền thông
đến chuyến viếng thăm nhà máy. Kinh nghiệm của các cơ

quan XTĐT toàn cầu là việc tiếp cận càng có mục tiêu,
chiến dịch càng có hiệu quả.

• Xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu
tư: thẩm định các dự án xin cấp phép đầu tư, tiến hành
nghiên cứu, thẩm định các dự án cam kết đầu tư từ đó tiến
hành cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư.
Khâu thẩm định, xét duyệt là là khâu vô cùng quan trọng,


quyết định dự án có được thực hiện hay không. Nếu công
tác thẩm định, xét duyệt bị lơ là sẽ có thể gây ra những
ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội, môi trường,

1.2 Tổng quan về ngành Dệt may
1.2.1. Khái niệm về ngành Dệt may
Ngành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, liên quan đến việc sản xuất sợi, dệt nhuộm, vải, thiết kế
sản phẩm, hoàn tất hàng may mặc và cuối cùng là phân phối hàng may mặc
đến tay người tiêu dùng. Ngành dệt may góp phần đảm bảo nhu cầu tiêu dùng,
cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt; là một ngành đem lại thặng
dư xuất khẩu cho nền kinh tế; góp phần giải quyết việc làm; tăng phúc lợi xã
hội.
1.2.2. Đặc điểm của ngành Dệt may
Thứ nhất, sản phẩm có tính thiết yếu và thường xuyên thay đổi:
- Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm có yêu cầu rất phong phú, đa dạng
tùy thuộc vào đối tượng tiêu dùng. Người tiêu dùng khác nhau về văn hóa,
phong tục tập quán, tôn giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, giới tính,
tuổi tác,... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Đòi hỏi sản , phẩm của
ngành dệt may phải đa dạng, phong phú.

- Trước đây, người ta chỉ dám nghĩ tới mặc bền thì bây giờ, mặc đẹp
mới là điều được quan tâm trước nhất. Sản phẩm dệt may mang tính thời vụ,
chất liệu luôn thay đổi liên tục, ngà càng trở nên phong phú, đa dạng. Nhu cầu
về sản phẩm cũng phải đáp ứng phù hợp với các yêu cầu khác nhau như: du
lịch, lễ hội, lao động, nghỉ ngơi,... đời sống của con người càng ngày càng
nâng cao thì nhu cầu đó lại càng thay đổi và sản phẩm thay đổi theo. Nên sản
phẩm của dệt may thường xuyên thay đổi.


Thứ hai, tiến bộ khoa học công nghệ tác động lên cả quá trình sản xuất
lẫn tiêu dùng hàng dệt may:
- Tiến bộ khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ tới không chỉ sản xuất
mà cả tiêu dùng các sản phẩm của ngành. Ngày nay, trong xu thế hội nhập,
toàn cầu hóa, thì nhhu cầu đổi mới công nghệ ở bất kỳ một ngành nào cũng là
cấp thiết. Công nghệ mới tác động một cách sâu sắc và toàn diện đến hoạt
động sản xuất của các ngành. Đối với dệt may, trong điều kiện phải cạnh tranh
gay gắt như hiện nay, khi mà công nghệ của ngành, đặc biệt là ngành Dệt còn
lạc hậu, manh mún thì ảnh hưởng của khoa học công nghệ, kỹ thuật càng trở
nên rõ nét.
- Đối với hàng hóa mang tính chất mốt đặc thù như hàng dệt may thì sự
thay đổi nhanh chóng trong hành vi tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến việc tiêu
thụ sản phẩm. Cùng với sự phát triển nhanh như vũ bão của công nghệ thông
tin, sở thích và sự lựa chọn khách hàng luôn thay đổi do thông tin được cập
nhật từng ngày, từng giờ, ảnh hưởng lan truyền trên quy mô toàn cầu khi có
một loại sản phẩm mới ra đời diễn ra hết sức nhanh chóng.
Thứ ba,là ngành sử dụng nhiều công nhân với trình độ kỹ thuật đòi hỏi
không quá cao:
Ngành dệt may sử dụng nhiều lao động giản đơn phát huy được lợi thế
của những nước có nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Đặc biệt
ngành đòi hỏi vốn đầu tư ít nhưng tỉ lệ lãi cao.

Thứ tư, các khâu trong mối liên kết dọc của ngành có quy mô không
giống nhau và không nhất thiết phải phát triển khép kín:
- Ngành có mối liên kết dọc chặt chẽ từ thượng nguồn đến hạ nguồn,
bắt đầu từ khâu nguyên liệu, sau đó là kéo sợi, dệt vải, in nhuộm và cuối cùng
là may.


- Những khâu đầu như khâu sản xuất nguyên kiệu, khâu kéo sợi thường
đòi hỏi quy mô nhất định và vốn đầu tư lớn. Những khâu sau có thể sản xuất
theo quy mô vừa và nhỏ.
- Mối liên kết dọc từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm là hàng may
cũng không nhất thiết phải phát triển theo hướng hoàn toàn khép kín như làm
“tự cấp”.
Thứ năm,có tác động đến việc phát triển các ngành nghề sản xuất phục
vụ cho ngành dệt may: Do là một ngành có thể tổ chức sản xuất ở nhiều quy
mô, mạng lưới sản xuất rộng lớn nên nhu cầu về những sản phẩm đi kèm,
phục vụ cho sản xuất chính là rất lớn. Vì vậy có thể nói dệt may có tác động
phát triển các ngành sản xuất phụ trợ cho sản xuất chính như sản xuất phụ
tùng, vật liệu, phụ liệu may. Từ đó góp phần giải quyết công ăn việc làm, phát
huy lợi thế riêng của từng vùng.
1.3 Thu hút FDI vào ngành Dệt may
1.3.1 Các yếu tố ảnh hưởng tác động đến thu hút FDI vào ngành Dệt
may
a Các yếu tố liên quan đến môi trường quốc tế
Những nhân tố quốc tế tác động lên hoạt động ĐTTTNN được xem xét
dưới góc độ tại nước sở tại bao gồm những đặc điểm sau:
Một là, khả năng của nhà đầu tư: Trong giai đoạn suy thoái của nền
kinh tế thế giới, dòng vốn ĐTTTNN đều giảm xuống, do hầu hết các nước
chủ nhà đầu tư thay nhau rút vốn về nước vì lý do yếu kém về mặt tài chính.
Ngược lại khi có nền tài chính vững mạnh thì các chủ đầu tư lại chuyển vốn

ra nước ngoài đầu tư nhằm thu lợi nhuận.
Hai là, sự biến động của tình hình kinh tế khu vực và thế giới. Chẳng
hạn như những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới luôn có ảnh hưởng sâu sắc
đến hoạt động ĐTTTNN, điều này là rất rõ ràng vì khi xảy ra khủng hoảng
thì tiềm lực của nhà đầu tư cũng như nước sở tại đều suy yếu. Sức mua của thị


trường giảm sút, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng suy giảm. Khi đó hiệu quả tất
yếu này là sự suy giảm của hoạt động ĐTTTNN trên phạm vi khu vực và thế
giới.
Ba là, sự cạnh tranh từ các quốc gia khác nhau trong việc thu hút vốn
ĐTTTNN. Xác định được vai trò của ĐTTTNN đối với nền kinh tế nên hầu
hết các quốc gia đều chú tâm đến việc thu hút nguồn vốn này. Điều đó dẫn
đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia thu hút vốn. Sự cạnh tranh này sẽ
dẫn đến sự giảm sút trong ĐTTTNN ở những nước có môi trường đầu tư kém
hấp dẫn.
b Các yếu tố liên quan đến nước nhận đầu tư
Thứ nhất, dung lượng thị trường lớn là một điều thiết yếu để phát triển
ngành dệt may. Để giảm thiểu chi phí trên một đơn vị sản phẩm, các DN phải
tính đến lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Đó là lý do tại sao các nhà đầu tư muốn
đảm bảo một thị trường có dung lượng lớn trước khi ra quyết định đầu tư.
Một nhà sản xuất hàng may mặc đã nhận định rằng chỉ cần dung lượng thị
trường lớn thì dù không có chính sách hỗ trợ nào, ngành dệt may sẽ vẫn phát
triển một cách tự nhiên. Dung lượng thị trường lớn là nhân tố cần thiết để
giảm chi phí đồng thời thu hút các nhà ĐTTTNN vì hai yếu tố này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu dung lượng thị trường khiêm tốn thì các nhà
sản xuất ngành dệt may sẽ không thể giảm chi phí sản xuất được và vì thế họ
không thể cạnh tranh được. Do vậy, họ sẽ không đầu tư vào Việt Nam cũng
như tỉnh Hải Dương nếu như không khắc phục được yếu tố dung lượng thị
trường.

Thứ hai, nguồn nhân lực. Khi vấn đề dung lượng thị trường được giải
quyết thì nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển lâu dài cho ngành dệt may
ở Việt Nam là nguồn lao động. Ở Việt Nam, người ta thường cho rằng những
hạn chế của ngành Dệt may chủ yếu là do thiếu nguồn tài chính để mua sắm
các thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, theo quan điểm của hầu hết các DN Nhật Bản


thì nguồn nhân lực còn quan trọng hơn nhiều máy móc thiết bị hiện đại. Dù
tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực thường xuyên được đề cập
đến, nhưng nguyên nhân sâu xa của tầm quan trọng này lại không được nhận
biết hoặ chia sẻ một cách đầy đủ. Nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng là
nhân tố cần thiết cho việc đưa trình độ sản xuất vượt lên mức mà các nước
khác đã đạt được như Thái Lan hay Malaysia,... Hiện nay đa phần cho rằng
nguồn nhân lực có trình độ có năng lực còn quan trọng hơn máy móc thiết bị
hiện đại. Bởi đơn thuần nếu chỉ dựa vào máy móc dây chuyền thì sẽ không
tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì các quốc gia trên thế giới đều sở hữu
chúng. Do vậy, để làm nên sự khác biệt chính là đội ngũ công nhân có tay
nghề vì chính họ là những người trực tiếp vận hành máy móc, phát minh ra
những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc.
Thứ ba, khoảng cách về thông tin. Để nâng cao năng lực của mình, các
nhà cung cấp Việt Nam cần hợp tác với các nhà đầu tư có vốn ĐTNN. Tuy
nhiên, có vấn đề cơ bản ảnh hưởng tới việc hợp tác này đó chính là tình trạng
thiếu thông tin của các DN nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Tình trạng
thiếu thông tin sẽ cản trở giao dịch giữa nhà sản xuất trong nước và nhà lắp
ráp nước ngoài. Thực tế các nhà đầu tư FDI muốn tìm kiếm các nhà cung cấp
nội địa nhưng họ lại gặp phải vấn đề là không biết tìm các nhà cung cấp này ở
đâu. Điều này làm tiêu tốn thời gian và tiền bạc của các DN FDI, các nhà
cung cấp Việt Nam đã không thực sự năng động và nhạy bén trong việc tiếp
cận khách hàng. Hơn thế nữa, các nhà cung cấp nội địa cho đến nay vẫn chưa
quan tâm tới việc xây dựng mối quan hệ với các DN FDI và còn thiếu tự tin

khi hợp tác kinh doanh cùng họ.
Thứ tư, chính sách của Chính Phủ
- Chính sách thuế: việc giảm thuế quan và những ưu đãi về thuế là công
cụ chính sách khuyến khích các nhà đầu tư FDI đầu tư tại Việt Nam.


×