Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC CHẤT QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.82 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Quan điểm về con người trong Triết học Mác - Lênin
1.
Những quan điểm triết học trước Mác về con người
1.1.
Quan điểm triết học Mác xít về con người
1.2.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người.
1.3.
Phát huy nhân tố con người trong sự
2.

Trang
4
5
5
7
12
17

nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
2.1.

Những thành tựu của việc phát huy nhân tố con

17

người ở nước ta
2.2.


Hạn chế của việc phát huy nhân tố con người ở nước

20

ta hiện nay
2.3.

Giải pháp cơ bản phát huy nhân tố con người ở nước
ta hiện nay
Phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự

2.4.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21
28
37
38

MỞ ĐẦU
Con người là một trong những vấn đề trung tâm của các trào lưu triết học.
Từ thời cổ đại cho tới nay đã có nhiều nhà khoa học, ngành khoa học đi sâu nghiên
cứu các mặt khác nhau của con người.
3


Các trường phái triết học trong lịch sử triết học trước Mác khi tìm câu trả lời
cho các vấn đề: Con người là gì? Bản chất con người thế nào? Vị trí của con người
ra sao trong thế giới tự nhiên?... nhưng đều rơi vào chủ nghĩa duy tâm hoặc duy vật

siêu hình. Ngược lại với quan điểm đó, Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác
nói riêng xem xét vấn đề con người là trung tâm của mọi khoa học xã hội và nhân
văn. Nhất là, với sự ra đời của quan điểm duy vật lịch sử, lần đầu tiên vấn đề con
người có được vị trí mà nó cần phải có, chủ nghĩa Mác ra đời xuất phát từ con
người và mục đích cuối cùng là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng cho mỗi con
người và cho cả loài người.
Lịch sử của thế giới ngày nay đã khẳng định vai trò động lực của con người
trong quá trình phát triển. Thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam đã chứng minh
rằng nhân tố con người có ý nghĩa quyết định cho xu hướng vận động của thế
giới đương đại. Mục tiêu cao nhất, bao trùm của chủ nghĩa xã hội là độc lập, tự do,
hạnh phúc của con người. Cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng vì mục
đích giải phóng con người.
Xuất phát từ thực tế của đất nước trước và sau đổi mới cũng như nắm bắt được
xu hướng phát triển của các nước trên thế giới, từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn vai trò của con người;
coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.

NỘI DUNG
1. Quan điểm về con người trong Triết học Mác - Lênin
1.1. Những quan điểm triết học trước Mác về con người
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo về con người
4


Họ cho rằng con người do lực lượng siêu nhiên sinh ra và được thể hiện đậm
nét trong giáo lý các tôn giáo. Nội chung các giáo lý tôn giáo đều quan niệm con
người do thần thánh, Thượng đế sinh ra, cuộc sống con người do đấng tối cao an
bài sắp đặt. Giáo lý Ki-tô cho rằng con người phải phục tùng khởi nguyên đấng tối
cao là chúa trời (vì chúa trời sinh ra tất cả).
Ở những nước chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, triết

học cũng giải thích nguồn gốc con người hoặc từ một đấng thần linh tối cao, hoặc
từ một lực lượng thần bí có sức mạnh vạn năng. Theo Phật giáo: con người sinh ra
trong vòng luân hồi và nó gắn với mọi đau thương, mọi khổ hạnh nơi trần thế “Đời
là bể khổ, tình là dây oan”. Theo Mạnh Tử, con người sinh ra vốn là tốt (thiện), do
không biết tu dưỡng, chịu ảnh hưởng của tập quán xấu mà xa dần cái tốt, thông qua
tu dưỡng mà con người có thể hiểu được lẽ phải và giữ được cái tốt của mình.
Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử lại cho rằng, con người sinh ra vốn ác, nhưng có thể
cải biến được; phải chống lại cái ác thì con người mới tốt được.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình về con người
Trong lịch sử triết học ở cả phương Tây và phương Đông, thời nào cũng có
tư tưởng duy vật, gắn liền với thực tiễn xã hội. Tuy nhiên bàn về nguồn gốc, bản
chất con người, tư tưởng thống trị trong thời cổ đại và trung đại, vẫn là quan điểm
duy tâm. Thời cận đại, nhận thức về nguồn gốc và bản chất con người có một bước
tiến đáng kể. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và Phoibắc, nhà duy vật lớn trong
triết học cổ điển Đức, đều phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm, thần bí và tìm
cách giải thích nguồn gốc bản chất con người theo quan điểm duy vật.
Với sự ra đời thuyết tiến hoá các loài của Đácuyn, các nhà triết học duy vật
nói trên đã có căn cứ khoa học để chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người.
“Không phải chúa đã sáng tạo ra con người theo hình ảnh của chúa mà chính con
người đã tạo ra chúa theo hình ảnh của con người”. Lời nói sắc sảo này của
Phoiơbắc đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao khi hai ông nói về vai trò của
các nhà duy vật trong việc phê phán những quan điểm duy tâm thần bí về nguồn gốc
và bản chất của con người.

5


Tuy nhiên các nhà duy vật siêu hình họ đã quá tuyệt đối hóa mặt sinh vật,
mặt vật chất và mặt bản năng trong con người - đó là con người “sinh vật hoá”.
Với quan niệm coi bản chất con người là sinh vật, chủ nghĩa duy vật siêu hình

giải quyết vấn đề con người chỉ là sự thỏa mãn về nhu cầu vật chất, nhu cầu sinh vật,
kích thích con người lao vào cuộc sống vật chất tầm thường, đẩy một bộ phận người
chạy theo lối "sống gấp" - lối sống theo nhịp điệu hối hả, sống tranh thủ, gấp gáp,
sống nhanh, sống vượt lên thời gian, vượt ra không gian, sống ích kỷ, sống chỉ biết
mình, không biết đến đồng loại... Cả hai cách tiếp cận trên về con người đều dẫn đến
chủ nghĩa cực đoan về con người: Họ đã từ tuyệt đối hóa đến thần bí hóa mặt tinh
thần của con người, hạ thấp mặt sinh vật (phần xác) và ngược lại, không thấy được
con người là một thể thống nhất giữa mặt vật chất và mặt tinh thần.
Tóm lại, vấn đề con người triết học đã được đặt ra và giải đáp từ thời cổ đại
và được coi như vấn đề trung tâm. Dù ở phương Đông hay phương Tây, dù đó là
quan điểm duy vật hay duy tâm thì vấn đề con người đều được giải thích dựa trên
lập trường giai cấp của các nhà tư tưởng. Mỗi bước tiến của lịch sử, vấn đề đó lại
được nâng lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, tư tưởng triết học trước Mác vẫn còn
nhiều hạn chế ở chỗ nghiên cứu, xem xét con người một cách trực quan, thơ ngây
chỉ dừng ở mức độ mô tả chứ chưa khoan sâu vào bản chất; cách lý giải còn mang
tính tôn giáo, duy tâm và siêu hình như: xem xét con người một cách tĩnh tại, cô lập,
phân định rạch ròi giữa linh hồn với thể xác, giữa cái tự nhiên và cái xã hội mà
không thấy giữa chúng có sự thống nhất tác động lẫn nhau, chuyển hoá cho nhau.
Như vậy, tất cả các quan điểm trước Mác về con người chưa thoát khỏi tính
chất duy vật siêu hình hoặc duy tâm thần bí. Song, nó đã để lại những tư tưởng quý
giá về nguồn gốc, bản chất con người, làm cơ sở, tiền đề, điều kiện cho triết học
Mác kế thừa, phát triển đưa ra quan điểm khoa học về con người.
1.2. Quan điểm triết học Mác xít về con người
Khắc phục những hạn chế đồng thời kế thừa có chọn lọc các quan điểm
trong cách tiếp cận con người của các trường phái triết học trước đó, con người
trong triết học Mác tiếp cận là con người thực tiễn, con người hiện thực gắn với
6


nền sản xuất vật chất của xã hội. Đây là con người trong môi trường tự nhiên và xã

hội, từ đó chỉ ra nguồn gốc tự nhiên, xã hội của con người trong lịch sử, mối quan
hệ con người với xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng về lịch sử xã hội
và về con người, Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con
người, cũng như về bản chất con người: “Con người là sinh vật có tính xã hội, là
sản phẩm cao nhất trong quá trình tiến hoá của tự nhiên và lịch sử xã hội, là chủ
thể sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần của xã hội”.
Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu tố cơ bản cấu thành con người là mặt sinh
học và mặt xã hội. Con người có mặt tự nhiên, vật chất, nhục thể, sinh vật, tộc loại.
Đồng thời, con người có mặt xã hội, tinh thần, ngôn ngữ, ý thức, tư duy, lao động,
giao tiếp, đạo đức. Hai mặt đó hợp thành một hệ thống năng động, phức tạp, luôn luôn
biến đổi, phát triển. Về vai trò của con người, triết học Mác - Lênin khẳng định, con
người là chủ thể hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo ra
mọi của cải vật chất, tinh thần, đồng thời sáng tạo ra cả bộ óc và tư duy của mình.
Triết học Mác - Lênin xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử đã
tiếp cận sự hình thành, phát triển con người trong lịch sử sản xuất vật chất. Từ đó,
khẳng định lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành, phát triển của con
người. Chính trong lao động, thông qua lao động mà con người biến đổi điều kiện tự
nhiên bên ngoài; làm biến đổi bản chất tự nhiên, cải tạo bản năng sinh học của con
người; đồng thời hình thành và phát triển những phẩm chất xã hội của mình.
Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn toàn vào tặng phẩm của
tự nhiên, còn con người phải bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra
của cải vật chất, thoả mãn nhu cầu ngày càng phát triển của mình. Lịch sử sản xuất
vật chất cũng là lịch sử con người cải tạo tự nhiên phù hợp với nhu cầu tồn tại và
phát triển của mình. Mác khẳng định: “Nhờ sản xuất mà giới tự nhiên biểu hiện ra là
tác phẩm của con người”, làm cho tự nhiên “có tính người”, tự nhiên được “nhân
loại hoá”. Lịch sử phát triển của tự nhiên gắn bó hữu cơ với lịch sử phát triển của xã
hội loài người. Vì vậy, Mác nói: “Con người đứng trước một tự nhiên có tính lịch sử
và một lịch sử có tính tự nhiên”.
7



Triết học Mác - Lênin khẳng định, thông qua lịch sử sản xuất vật chất, nhờ
lao động mà một loài sinh vật mới ra đời - con người có lý tính, mang tính chất xã
hội. Lao động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên loài người. Khoa học đã
chứng minh rằng con người là một tổ chức sinh vật có trình độ phát triển cao nhất
trên hành tinh, từ một loài sinh vật có xương sống phát triển lên, là một nấc thang
cao nhất trong lịch sử tiến hoá của các giống loài qua hàng trăm triệu năm. Lao
động đã cải tạo bản năng sinh học của con người, bắt bản năng phục tùng lý trí,
phát triển bản năng con người thành một trạng thái mới về chất. Mác cho rằng,
“trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng con người là bản năng
đã được ý thức”. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành phát triển
phẩm chất xã hội của con người. Trong lao động tất yếu hình thành quan hệ xã hội,
thông qua hoạt động giao tiếp hình thành lên ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, ý chí
và cả phương pháp tư duy của con người. Vì vậy, Ăngghen khẳng định: “Trên ý
nghĩa cao cả nhất thì lao động sáng tạo ra chính bản thân con người”.
Nhờ lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập với tự nhiên
trở thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu tiên mang ý nghĩa sáng tạo
chân chính của con người là chế tạo ra công cụ lao động. Con người bắt đầu lịch sử
của mình từ đó. Nhờ công cụ lao động - tư liệu của mọi tư liệu - sức mạnh vật chất
đầu tiên mà con người tách khỏi tự nhiên, tách khỏi loài vật với tư cách là một chủ thể
hoạt động thực tiễn xã hội. Đồng thời bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người hoà
nhập với tự nhiên, biến “tự nhiên thứ nhất” thành “tự nhiên thứ hai”, “tự nhiên thứ
ba”, sáng tạo ra của cải, tri thức, tinh thần. Như vậy sáng tạo là thuộc tính tối cao của
con người. Bản chất con người là sáng tạo ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Triết học Mác - Lênin tiếp cận con người trong tính toàn vẹn, khẳng định con
người là một chỉnh thể tồn tại và phát triển trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và
mặt xã hội. Đây là một chỉnh thể phức tạp, năng động, luôn luôn vận động, phát triển.
Về mặt sinh học, con người tồn tại ở cấp độ cơ thể, biểu hiện trong các hiện
tượng sinh lý, di truyền, thần kinh, điện - hoá và các quá trình khác của cơ thể. Về

mặt này, con người phục tùng các quy luật của tự nhiên, sinh học. Về mặt xã hội,
con người tồn tại ở cấp độ nhân cách, biểu hiện trong những quá trình ý thức, tính
8


cách, tính khí, là chủ thể quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp, tinh thần. Về mặt này.
con người phục tùng các quy luật xã hội.
Con người tồn tại và phát triển trong tính toàn vẹn thống nhất của hai quá
trình sinh học và xã hội. Sự hình thành phát triển con người thông qua một quá
trình thống nhất giữa cơ chế di truyền và hoạt động xã hội. Cơ chế di truyền quyết
định quá trình tiến hoá sinh học của con người, tạo nên cơ sở sinh học cho sự tiến
hoá xã hội. Quá trình gia nhập hoạt động xã hội, gia nhập vào bối cảnh văn hoá
lịch sử của quần thể xã hội đã quyết định sự hình thành phát triển những phẩm chất
xã hội của con người. Đây là một quá trình thống nhất và phức tạp. Trong đó, cơ
chế di truyền không chỉ quyết định về mặt sinh học là chủ yếu mà còn gắn liền với
sự hình thành phát triển bản năng xã hội của con người. Ngược lại, quá trình tập
nhiễm trong cuộc sống xã hội không chỉ quyết định mặt xã hội của con người mà
còn cải biến mặt sinh học, làm cho cái sinh học thích nghi với hoạt động xã hội.
Triết học Mác - Lênin tiếp cận con người trong hệ thống con người - môi
trường cư trú, từ trái đất đến vũ trụ. Môi trường là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại
và phát triển của con người. Đó là toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên và xã hội được thu
hút vào quá trình đời sống con người. Theo nghĩa rộng nhất môi trường bao gồm
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Con người hình thành, phát triển trong
môi trường tự nhiên - xã hội.
Trước hết, con người tồn tại trong hệ thống tương tác của tất cả các lực lượng
tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên, giao tiếp với tự nhiên và phụ thuộc
vào tự nhiên. Con người thuộc về giới tự nhiên, nằm trong giới tự nhiên, sống trên
hành tinh và phụ thuộc vào các quá trình cơ, lý, hoá, sinh học của hành tinh.
Con người tồn tại trong môi trường xã hội, thông qua xã hội mà thích nghi
với tự nhiên. Bởi vì, xã hội là một bộ phận của giới tự nhiên, một kết cấu vật

chất đặc thù của giới tự nhiên. Toàn bộ quần thể xã hội hoạt động trong giới tự
nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ hài hoà với tự nhiên.
Mác khẳng định : “Chừng nào loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử
tự nhiên quy định lẫn nhau”. Như vậy, bản chất con người là tổng hoà các thuộc
tính tự nhiên - sinh học - xã hội.
9


Con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang những phẩm chất của
hệ thống các quan hệ xã hội. Đó là một hệ thống năng động, phát triển thống nhất
giữa cái chung, cái đặc thù và cái riêng. Thuộc tính chung nhất và cao nhất của
con người là sáng tạo. Con người mang những phẩm chất đặc thù đại biểu cho
một xã hội lịch sử - cụ thể, đại biểu cho một dân tộc, giai cấp, tập đoàn xã hội, tập
thể, nhóm xã hội, gia đình… Những phẩm chất xã hội của con người mang dấu ấn
của một thời đại lịch sử và những quan hệ xã hội cụ thể. Cái riêng của con người do
đặc điểm di truyền, do điều kiện sống riêng của mỗi người quy định. Nhờ những
phẩm chất riêng mà phân biệt được giữa cá nhân này và cá nhân khác về trí tuệ, tình
cảm, ý chí, động cơ hành động, tính cách. Mác nói: “Con người là một thực thể xã
hội mang tính cá nhân”.
Con người mang tính nhân loại. Đây là thuộc tính vốn có hình thành trong
suốt chiều sâu lịch sử của cuộc sống cộng đồng phổ biến rộng lớn nhất. Tính nhân
loại thể hiện trong thuộc tính chung nhất cao nhất của con người là sáng tạo và
trong những giá trị văn hoá chung mà nhân loại đạt được. Tính nhân loại còn được
thể hiện trong những quy tắc chuẩn mực của cuộc sống chung được hình thành như
những đạo lý. Tính nhân loại thể hiện trong những giá trị chung mà con người
quan tâm như nhân đạo, dân chủ, công bằng xã hội, hoà bình, bảo vệ môi trường
sinh thái. Cơ sở của tính nhân loại là từ bản chất xã hội của con người, do yêu cầu
khách quan của cuộc sống cộng đồng là con người phải dựa vào người khác,
nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển.
Trong xã hội có giai cấp, con người mang tính giai cấp. Mỗi người là một

thành viên của giai cấp mang địa vị kinh tế xã hội của giai cấp đó. Địa vị kinh tế xã
hội mang tính khách quan, do toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất quy định, mặc dù
mỗi thành viên giai cấp có thể ý thức được hoặc không ý thức được địa vị của mình.
Tính giai cấp và tính nhân loại trong con người vừa đồng nhất vừa khác biệt. Con
người tồn tại thông qua những cá nhân hiện thực với tư cách là các chủ thể hành
động xã hội. Tính nhân loại vĩnh hằng. Bởi vì, trật tự kinh tế, chính trị xã hội có thể
bị thay đổi, nhưng con người luôn luôn phải biết dựa vào người khác, khai thác sự
phong phú của người khác để tồn tại, làm phong phú cho mình là không bao giờ
10


mất đi. Mặt khác, trong xã hội còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ
đối kháng giai cấp thì con người còn mang tính giai cấp. Các giai cấp và các hệ
thống xã hội tương ứng vẫn là chủ thể chủ yếu của xã hội hiện thực. Không bao
giờ có một “lợi ích nhân loại thuần khiết”. Nó được phản ánh trong nhận thức,
trong hoạt động thực tiễn không tách rời lợi ích các giai cấp.
Hoạt động của con người bị chi phối bởi tính tất yếu. Tính tất yếu tồn tại
dưới hình thức các quy luật khách quan. Mặc dù con người nhận thức được quy
luật khách quan hay không thì lịch sử xã hội vẫn vận động phát triển theo quy luật.
Hoạt động của con người là sự thống nhất giữa tất yếu và tự do. Hoạt động con
người có ý thức là hoạt động tiếp cận dần, nắm bắt quy luật khách quan làm tiền đề
cho sự sáng tạo. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử con người vươn lên giành lấy
tự do ngày càng cao hơn. Hoạt động của con người là sự thống nhất giữa tất yếu và
tự do. Con người muốn tự do, trước hết phải được giải phóng về mặt xã hội, phải
có chế độ kinh tế xã hội tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động con người vươn tới tự
do. Một xã hội bao gồm trong đó những con người phát triển tự do, toàn diện chính
là mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản.
Triết học Mác - Lênin nghiên cứu sự hình thành, phát triển con người trong
quá trình lịch sử, khẳng định bên cạnh mặt chủ đạo của con người là sáng tạo, còn
có hiện tượng con người bị tha hoá. Tha hoá là quá trình xã hội trong đó hoạt động

của con người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập thù địch và
thống trị lại con người. Nguồn gốc của tha hoá là do sự phát triển của phân công
lao động xã hội và sự xuất hiện chế độ tư hữu. Khắc phục sự tha hoá là một quá
trình lâu dài, gắn liền với xoá bỏ chế độ tư hữu. Triết học Mác - Lênin chính là lý
luận triết học về khắc phục sự tha hoá của con người, trước hết là lý luận giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Như vậy, triết học Mác - Lênin trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch
sử, tiếp cận con người trong tính chỉnh thể của nó, đem lại một hình ảnh toàn vẹn,
đúng đắn về con người, khôi phục lại địa vị vốn có của con người trong lịch sử. Con
người hình thành, phát triển thông qua một quá trình tiến hoá sinh học - xã hội. Tập
trung nhấn mạnh bản chất xã hội của con người: “Trong tính hiện thực của nó, bản
11


chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Con người là chủ thể sáng tạo lịch sử.
Triết học Mác - Lênin là học thuyết về sự giải phóng con người, vì hạnh phúc con
người. Đây là cơ sở để bác bỏ những luận điểm tư sản, xét lại cho rằng triết học Mác
bỏ quên vấn đề con người, không xây dựng học thuyết về con người.
1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người
Xuất phát từ hiện thực khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ
khi đổi mới đến nay, Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi sự phát
triển và coi việc phát huy nhân tố con người là một trong những nhiệm vụ chiến lược.
Do đó, Đảng ta đã có nhiều quan điểm, chủ trương đúng đắn về phát huy nhân tố con
người. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy nhân tố con người có sự phát
triển theo hướng ngày càng rõ nét và hoàn thiện hơn qua mỗi thời kỳ Đại hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), trong “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta khẳng định: “phát
huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích

lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Như vậy, tại Đại hội này, phát
huy nhân tố con người được hiểu là sự đảm bảo giữa quyền và lợi ích của công dân;
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; đáp ứng cả nhu cầu trước mắt
và lợi ích lâu dài… Đây là một quan điểm khá toàn diện mở đường cho những quan
điểm tiến bộ về phát huy nhân tố con người ở các kỳ Đại hội sau này.
Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta là một quá trình phát triển mang tính cách mạng sâu sắc trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên
nào mang lại mà là sự nghiệp của quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn lực
quyết định. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ,
phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa to lớn này: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”. Nhân tố con người chính là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực
12


chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền
vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì
vậy, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững
không thể không chăm lo phát triển con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển.
Từ sau Đại hội VIII, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên
quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo
dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000
đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu rõ:
“Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững”. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người
thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời xác định:

Giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn
Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa họ - công nghệ và củng cố quốc phòng,
an ninh; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; giữ vai trò nòng cốt
của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào tạo, trên cơ
sở Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện
về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ,…; phát triển nguồn nhân lực phải là sự quan
tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều biện pháp, trong
đó giáo dục và đào tạo là then chốt; mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội
phải được đặt trong mối quan hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự
phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi
gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều
về số lượng, mạnh về chất lượng.
Đại hội X, Đảng ta đã xác định cần phải tập trung đổi mới toàn diện giáo dục
và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng
cao. Các giải pháp thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển
dân số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới
13


phương thức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo
việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các sản
phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu... Đảng còn tiếp tục khẳng định: chiến lược con
người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát
huy nhân tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế,
văn hóa, xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân.
Đại hội X đã thể hiện tư duy đổi mới, khoa học của Đảng trong xây dựng con
người Việt Nam là xây dựng nhân cách của con người Việt Nam với nội dung toàn

diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ với phương pháp tư duy khoa
học sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, nhận thức tư tưởng,
thế giới quan, đạo đức cách mạng, kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân tộc,
đáp ứng được những yêu cầu của con người mới trong xã hội công nghiệp, văn minh,
hiện đại,... Xây dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất
lượng cá thể con người, mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam,
trước hết là chất lượng phát triển của giai cấp công nhân với vai trò, sứ mệnh dẫn dắt
xã hội của khối liên minh công - nông - trí thức - lực lượng cơ bản nhất của xã hội.
Xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm phát triển nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới tương lai, cần tập trung đầu tư của
toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam, chuẩn bị đầy đủ cho
họ lập thân, lập nghiệp; có đủ sức khoẻ, tài năng, đạo đức, ý thức và bản lĩnh chính trị.
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006),
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư
cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước;
gắn vấn đề nhân tố con người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con
người phát triển toàn diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái với những
quan hệ xã hội lành mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí
trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con
người phát triển”.
14


Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, Đảng ta xác định: tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển; tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
nhân tố con người. Đại hội XI của Đảng nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục
tiêu đó, Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được coi là khâu đột phá thứ
hai. Đồng thời, Đại hội XI đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người trên cơ sở
“Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn
lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) của Đảng về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển,
được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của
xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có
bước chuyển biến quan trọng: gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm
vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng
con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về
trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn
lên”. Từ nhận định này, có thể nhận thấy thành tựu to lớn của nước ta trong thời gian

15


qua trong phát triển con người là đã xây dựng được một hệ giá trị mới của con người
Việt Nam hiện nay.
Kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội trước, nhất là từ Hội nghị Trung ương 9
khóa XI (tháng 5/2014); xuất phát từ thực tiễn phát triển con người Việt Nam trong

thời gian qua; ở Đại hội XII, Đảng ta đã đưa ra mục tiêu tổng quát về xây dựng, phát
triển con người như sau: “Xây dựng và phát triển con người Việt Nam phát triển toàn
diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa”. Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đã gắn nhân tố con người gắn với
xây dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đôi
biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các giá trị,
sản phẩm văn hoá. Ngoài ra, yếu tố con người đề cập lần này là những con người rất
cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng, trách nhiệm
xã hội,… việc xây dựng con người phải thông qua hoạt động thực tiễn, cụ thể của
từng người, chứ không nói chung chung. Trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ
Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể của việc phát huy nhân tố con
người như: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm
việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Đại hội XII khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị
văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân
cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa
vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đảng ta cũng khẳng định cần đẩy mạnh phát
triển giáo dục và đào tạo để phát triển toàn diện con người: “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”. Đây là quan điểm mà Đảng ta luôn nhất quán, mang tính định hướng
chiến lược trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam. Để phát huy được vai trò
của giáo dục và đào tạo trong phát triển toàn diện con người, mọi hoạt động của hệ
thống giáo dục và đào tạo cần phải hướng vào việc xây dựng, phát triển con người
16


Việt Nam có thế giới quan khoa học, trí tuệ và đạo đức; gắn với thực hiện quyền con

người, quyền và nghĩa vụ công dân, nâng cao trí lực và kỹ năng sống, đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học
tập, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Đảng ta cũng
khẳng định muốn phát huy nhân tố con người cần phải biết đấu tranh chống lại sự suy
thoái, xuống cấp về đạo đức về con người có thể phát triển một cách toàn diện: “Đấu
tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành
vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người.
Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những
mặt hạn chế của con người Việt Nam”.
Những quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong suốt chặng
đường phát triển có tác động rất lớn đến việc phát huy nhân tố con người trong giai
đoạn hiện nay. Nhờ có những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trình độ
dân trí ngày càng cao, đời sống của người dân được cải biến rõ nét, con người được
tạo điều kiện phát triển toàn diện, cả về thể chất lẫn tinh thần; cả về thể lực, trí lực và
tâm lực. Đảng ta luôn luôn thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất, chăm
lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Thực
hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người” đã luôn trở thành tư tưởng xuyên suốt trong toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay
2.1. Những thành tựu của việc phát huy nhân tố con
người ở nước ta
Đảng và Nhà nước ta sớm nhận thức rõ vai trò quyết định của nhân tố con
người và luôn đặc biệt quan tâm xây dựng con người Việt Nam mới và phát huy nhân
tố con người trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Tiếp theo tinh thần các
Đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Phát huy nhân tố con người
17



trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức,
nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh”. Vấn đề đặt ra là phải có các giải pháp đột phá để phát huy có hiệu quả vai trò
nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong các chặng đường đấu tranh cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã phát
huy được sức mạnh của mỗi con người Việt Nam cũng như của cả dân tộc cho sự
nghiệp giải phóng đất nước. Trong thời kỳ 1975 -1985, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, vai trò của nhân tố con người chưa được nhận thức đầy đủ và cũng chưa có
một hệ giải pháp phát huy có hiệu quả vai trò nhân tố con người trong xây dựng,
phát triển đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta nhận thức
rõ con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển đất nước và đề ra những
giải pháp nhằm phát huy tối đa nhân tố con người Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước. Kết quả đạt được đó là:
Một là, Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn lực con
người Việt Nam. Từ khi đổi mới (1986) đến nay, các Đại hội Đảng đều đặc biệt quan
tâm tới giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển con
người Việt Nam. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
579/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020.
Trong đó nêu rõ: mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển
nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Chiến
lược được triển khai thực hiện bằng các biện pháp, hành động cụ thể, tiếp tục hoàn
thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách ưu đãi trong công tác đào tạo
và thu hút nhân tài (chế độ tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, điều kiện và các phương
tiện làm việc)... nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám. Đặc biệt là xây dựng và
phát triểnđội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý giỏi;đội ngũ chuyên gia quản trị doanh
nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộkhoa học - công nghệđầu đàn. Đại hội XII
của Đảng xác định,phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong ba
khâu đột phá quyết định sự phát triển bền vững đất nước.
Hai là, Đảng, Nhà nước đã có cơ chế, chính sách cán bộ tương đối toàn diện,

đồng bộ từ quy hoạch nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đánh giá, sử dụng, đãi
18


ngộ,v.v.. Công tác cán bộ được thực hiện theo nguyên tắc: “Đánh giá và sử dụng đúng
cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu
quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ
nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi
chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ
yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút...”.
Ba là, Đảng, Nhà nước đã có chính sách thu hút nguồn nhân lực là người Việt
Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng, phát triển đất nước. Đảng đã ban hành Nghị
quyết 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài,
nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tiềm lực và phát huy nhân tố
con người của Việt kiều, nhất là những người có tài, các nhà doanh nghiệp đóng góp
về vật chất, tinh thần, tài năng cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Bốn là, Đảng, Nhà nước đã xây dựng hệ thống các chính sách đối với từng giai
tầng xã hội để phát huy tối đa tiềm năng, sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp đổi
mới và hội nhập. Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo; bồi
dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; Xây dựng, phát
huy vai trò giai cấp nông dân - chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới; Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, phát triển đội ngũ
doanh nhân cả về số lượng và chất lượng; có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, động
viên cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng, phát triển đất nước...
Năm là, Đảng, Nhà nước khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược lâu
dài trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, đã thường xuyên hoàn thiện các cơ chế, chính
sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ
giữa các dân tộc. Chăm lo giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ là người
dân tộc thiểu số... Nhờ vậy, đã phát huy cao độ sức người, sức của của đồng bào các
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, Đảng, Nhà nước thường xuyên quan tâm hoàn thiện chính sách về
tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo. Quan tâm, tạo điều kiện các tôn giáo hoạt động theo hiến chương, điều lệ
của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật.
19


Do vậy, nhìn chung đã phát huy được sự đóng góp tích cực của các tín đồ tôn
giáo vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2. Hạn chế của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay
Cùng với những kết quả đạt được thì việc phát huy nhân tố con người Việt
Nam trong xây dựng, phát triển đất nước thời gian qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn
còn không ít những hạn chế, yếu kém cần phải tập trung khắc phục, cụ thể:
Một là, việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là
khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học
để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,... chưa được
ngặn chặn, đẩy lùi. Do đánh giá cán bộ không đúng, dẫn đến không xác định đúng yêu
cầu, tiêu chí đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ. Do vậy, chưatuyển chọn, sử
dụng được nhiều người thực tài, có đức, có tâm. Những hạn chế, khiếm khuyết trong
công tác cán bộ là một điểm yếu cản trở việc phát huy nhân tố con người Việt Nam.
Hai là, công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Giáo
dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển.
Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại
học, giáo dục nghề nghiệp. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách,
cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Chưa chú trọng đúng mức
giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng làm việc... Vì vậy, mà nguồn nhân lực của nước ta
còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Ba là, chưa tạo ra được môi trường thuận lợi cho việc phát huy tối đa nhân tố
con người Việt Nam. Các chính sách nhằm phát huy nhân tố con người dường như
đều đã có, nhưng những chính sách này khó đi vào cuộc sống. Không ít người đi học

tập ở nước ngoài đã không về nước do không tìm được việc làm phù hợp; không có
môi trường làm việc thuận lợi; chế độ tiền lương còn nhiều bất cập; v.v.. Với đội ngũ
trí thức còn thiếu môi trường dân chủ trong nghiên cứu khoa học; giai cấp công nhân
còn nhiều khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần do mức lương thấp, thường xuyên
thiếu việc làm; nông dân là người được hưởng lợi ít nhất từ những thành quả của sự
nghiệp đổi mới. Với doanh nhân thì còn vướng nhiều cơ chế, chính sách “xin - cho,
20


bao cấp” trá hình cản trở; một bộ phận lớn thanh niên không tìm được việc làm...
Những bất cập này đã cản trở việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây
dựng, phát triển đất nước.
Bốn là, một bộ phận không nhỏ những cán bộ trong các cơ quan hành chính
nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã
chỉ rõ: “...nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông, nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa,
vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn
chế. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề
ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành
trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế,
yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm
việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả
năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu
bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút
ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản
lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực,
phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng
vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh
nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ

chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà
nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật”.
2.3. Giải pháp cơ bản phát huy nhân tố con người ở
nước ta hiện nay
2.3.1. Thống nhất nhận thức về phát huy nhân tố con người
Phát huy nhân tố con người là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
mỗi người, tạo điều kiện cho mỗi người phát triển toàn diện, phát huy tối đa tài
năng, năng lực của cá nhân cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt
là phát huy năng lực nhận thức (năng lực trí tuệ, tư duy, xử lý thông tin,v.v..) và
21


hoạt động thực tiễn (năng lực sống, làm việc, ứng xử, thích nghi,v.v..) của con
người Việt Nam. Do vậy, khi phát huy được các năng lực của nhân tố con người là
phát huy được động lực phát triển của xã hội. Muốn vậy, phải đánh giá đúng năng
lực của từng người. Muốn đánh giá đúng năng lực của từng người cần căn cứ vào
hiệu quả, kết quả công việc mà người đó đảm nhiệm. Trên cơ sở đánh giá đúng
năng lực của từng người mới có giải pháp phát huy đúng sở trường của họ.
2.3.2. Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức bộ máy nhà nước
Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu
quả, thiết thực, tạo cơ hội cho mỗi người dân phát huy tối đa năng lực, sở trường
đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực tế cho thấy bộ máy nhà nước cồng
kềnh, quan liêu, chồng chéo, kém hiệu quả sẽ là lực cản lớn đối với việc phát huy
nhân tố con người. Bộ máy cồng kềnh, quan liêu, tham nhũng thì không thể tuyển
chọn được người thực tài, thực giỏi, tâm huyết phục vụ, cống hiến cho đất nước.
Phải có cơ chế minh bạch để tuyển chọn, sàng lọc, hình thành được đội ngũ công
chức nhà nước tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Hiện thực hóa
và cụ thể hóa chủ trương của Đại hội XII: “Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách
với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh

chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề
bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng
nhân tài”. Thực hiện đổi mới cơ chế, chính sách, xóa bỏ những rào cản, chính sách
kìm hãm, trói buộc nhân tố con người. Chẳng hạn như chính sách tiền lương,nếu
tiền lương bình quân chủ nghĩa, không phản ánh được hiệu quả công việc, tài năng,
trình độ chuyên môn và thời gian cống hiến thì sẽ không thể động viên, phát huy
được nhân tố con người. Rà soát để loại bỏ những cơ chế, chính sách tạo ra bất
bình đẳng giữa các vùng, miền, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu... Đồng
thời, Nhà nước cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho mỗi người được phát
huy năng lực, sở trường, tài năng, trí tuệ... của mình cho phát triển đất nước. Như
tạo không khí làm việc cởi mở, dân chủ, công khai; điều kiện làm việc thuận lợi,
phương tiện thông tin nhanh, kịp thời; bảo đảm cho mỗi người có quyền tự chủ, tự
22


chịu trách nhiệm; quyền tự do sáng tạo, phát triển ý tưởng khoa học, tạo điều kiện
cho mỗi người phát huy hết tài năng sáng tạo.
2.3.3. Quan tâm và giải quyết tốt vấn đề lợi ích của con người
Cần quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương châm bảo
đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển. Lợi ích chính là
điểm mấu chốt, là một trong những động lực hàng đầu nhằm phát huy nhân tố con
người. Trong thực tiễn cách mạng trước đây, do nhu cầu giải phóng dân tộc nổi lên
hàng đầu nên lợi ích toàn dân tộc phải được đặt lên trên hết trong giải quyết mọi
mối quan hệ lợi ích. Tuy nhiên, khi đất nước hoà bình, các nhu cầu và lợi ích chính
đáng của người dân cần được tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn. Theo đó, để
phát huy vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, không
thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng
đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích trực tiếp trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa
lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần... Bên cạnh đó, cần coi trọng và thực hiện tốt
hệ thống chính sách xã hội theo hướng lấy con người là trung tâm. Đặc biệt, Đảng

và Nhà nước cần có chính sách bảo đảm công bằng xã hội, tạo điều kiện cho tất cả
mọi người đều được hưởng lợi từ sự tăng trưởng của nền kinh tế, có cơ hội bình
đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến phát triển con người. Đó chính
là quá trình tích luỹ về lượng để có những biến đổi về chất và trong trường hợp mà
chúng ta đang xem xét, là sự cống hiến ở mức cao nhất năng lực cá nhân của mỗi
con người cho cộng đồng, xã hội.
2.3.4. Gắn tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa với phát triển toàn
diện con người
Trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người để bảo
đảm sự tăng trưởng bền vững. Phát triển văn hóa là làm cho các giá trị văn hóa
thấm sâu vào từng lĩnh vực của đời sống con người: văn hóa trong lao động, trong
quản lý xã hội, trong kinh doanh, trong giao tiếp, trong gia đình… Việc xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đã được khẳng trong các Nghị
23


quyết của Đảng: “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã
hội và trong sinh hoạt của nhân dân” nhằm phát huy giá trị văn hóa dân tộc, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu
vào lĩnh vực của đời sống xã hội; tạo chất lượng mới của cuộc sống; xây dựng và
hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khi nói đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta nhấn mạnh đến
chiến lược con người. Bởi lẽ, nếu không thành công trong chiến lược phát triển con
người thì sẽ thất bại trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Điều này càng
đúng hơn khi mà chúng ta bước vào nền kinh tế tri thức, khi khoa học - công nghệ
phát triển như vũ bão. Vai trò quyết định của nhân tố con người đã được chủ nghĩa
Mác đặc biệt chú ý và luận giải một cách khoa học rằng: Con người không chỉ là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực để cải biến tự nhiên và xã

hội; con người là điểm khởi đầu và là điểm kết thúc của mọi quá trình biến đổi lịch
sử; cách mạng - sự biến đổi xã hội là sự nghiệp của quần chúng lao động. Chính vì
vậy, phải đúc kết, từng bước xây dựng trong thực tế các chuẩn mực giá trị văn hóa
và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm cho mọi
người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc;
khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị
cao đẹp, nhân văn; Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu;
chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn
hoá, làm tha hóa con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội,
khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam
2.3.5. Xây dựng và thực hiện cơ chế dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã
hội
Tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con
người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhân tố con người chỉ được khai
thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và
làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người
24


trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ,
trong đó ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp nhằm hiện thực hoá những giá
trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội. Việc phát huy dân chủ không chỉ
tạo cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi người có thể cống hiến năng lực của mình cho xã
hội, mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản biện xã hội với
tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy trách nhiệm công dân. Nói cách khác,
thông qua quá trình dân chủ hoá, trí tuệ của toàn dân được huy động và đóng góp
vào sự phát triển chung của xã hội. Đó cũng là lý do tại sao Hồ Chí Minh coi dân
chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi vấn đề mà thực tiễn cách mạng đặt ra.

Tuy nhiên, thực hiện dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương pháp luật,
pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực đoan hoặc lợi
dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng thuận xã hội. Lấy
dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước làm nòng cốt để thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ nhằm giải phóng mọi năng lực sáng tạo của
quần chúng nhân dân, góp phần ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện cho sự
nghiệp đổi mới thắng lợi.
2.3.6. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở hội nhập, xây dựng xã hội học tập,
phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn
trọng pháp luật và trách nhiệm công dân...”. Đặc biệt, coi trọng phát triển giáo
dục, đào tạo, thực sự coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển
toàn diện con người Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, đào tạo
nhân tài, trên nền tảng phát triển nhân cách con người Việt Nam vừa “hồng”, vừa
“chuyên”. Tiếp tục đổi mới toàn diện công tác giáo dục, đào tạo phù hợp với yêu
cầu của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động lực thúc đẩy
kinh tế phát triển. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo có tính xã hội hoá cao, toàn cầu hoá
cao. Nền Giáo dục, đào tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đầy đủ sức
25


mạnh, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do đó, sự nghiệp giáo dục, đào tạo
phải là sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng
hộ của các nước trên thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục.
Việc hội nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn
quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó đòi hỏi phải có
trình độ công nghệ cao và khả năng sử dụng tương ứng các công nghệ đó . Ngoài

giáo dục đào tạo văn hoá chuyên môn , nghiệp vụ về mặt lí thuyết, cần chú ý điều
kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục kĩ luật, tác phong lao động công nghiệp, rèn
luyện kỉ năng và những khả năng thích ứng của người lao động với những đặc
điểm của nền kinh tế thị trường. Song song với vấn đề giáo dục, đào tạo con người,
chúng ta phải quan tâm đến vấn đề dân số, sức khoẻ, để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, giảm sức ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học,
bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục,
đào tạo. Tập trung đầu tư xây dựng một số trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn,
chất lượng cao. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học
ở tất cả các cấp, bậc học. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội học tập,
huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao chất
lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bằng nhiều hình thức đa dạng đảm bảo cho mọi người được học nhất là
người nghèo và con em các gia đình thuộc diện chính sách. Động viên phong trào
toàn dân thi đua xóa mù chữ, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, trung học phổ
thông. Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng
cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí
vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước.
2.3.7. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết tốt vấn đề
tôn giáo, dân tộc.
Phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thì mới phát huy được
nhân tố con người Việt Nam. Khi toàn dân tộc đoàn kết nhất trí thành một khối
thống nhất thì sẽ tạo ra sức mạnh vĩ đại của dân tộc. Phải coi thực hiện đại đoàn kết
26


toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn
lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng để thực hiện đại đoàn kết toàn

dân tộc, phát huy sức mạnh nhân tố con người. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải trên
cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều
được hưởng thụ thành quả của đổi mới. Có chính sách cụ thể để phát huy sức mạnh,
lợi thế của từng giai tầng, từ công nhân, nông dân, trí thức đến người Việt Nam ở
nước ngoài. Đồng thời, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân tộc. Không để những khác
biệt tôn giáo, dân tộc thành những trở ngại trong phát huy nhân tố con người Việt
Nam. Đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết trong giải quyết vấn đề tôn giáo, dân tộc.
Thực hiện các chính sách bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải
quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Kiên quyết đấu
tranh chống kỳ thị dân tộc, kỳ thị tôn giáo, chống lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân
tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ
phát huy có hiệu quả nhân tố con người Việt Nam cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.3.8. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong đời sống xã hội
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng: (1) Xây dựng môi trường
văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa
phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
và mỗi gia đình; (2) Phát huy vai trò văn hóa trong gia đình, nhà trường, cộng
đồng; (3) Thường xuyên quan tâm xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh,
nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc
vận động văn hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"; (4)
Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội; (5) Phát huy các giá trị, nhân tố tích
cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng.
27



×