Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM THEO CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG (1960-1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

ĐỖ THỊ HIÊN

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN
TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM THEO
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG (1960-1975)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

ĐỖ THỊ HIÊN

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN
TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM THEO
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG (1960-1975)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trƣơng của Đảng (1960-1975)” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trong luận văn được sử dụng và chú
thích nguồn trung thực.
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2015
Tác giả

Đỗ Thị Hiên


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Vũ Quang Hiển đã tận tâm định hướng
cho tôi ngay từ những ngày đầu thực hiện luận văn. Những góp ý, chia sẻ, nhận xét
của thầy là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này. Đó
cũng là những bài học “làm người” cho tôi trong cuộc sống tương lai.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện
cho tôi cả về vật chất và tinh thần. Trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong và ngoài
khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp tôi hoàn thành
khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên tôi trong suốt
thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Tác giả

Đỗ Thị Hiên


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 5
6. Những đóng góp của luận văn ...................................................................... 5
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 6
Chƣơng 1. HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC
GIẢIPHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ THÁNG 12-1960 ĐẾN
THÁNG 5-1969 ................................................................................................ 7
1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng ............................................... 7
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................................ 7
1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách đối ngoại của Mặt trận ................................... 11
Chủ trương của Đảng .......................................................................................................... 11

1.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận ............................................................ 20
1.2.1. Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng miền Nam Việt Nam . 20
1.2.2. Đấu tranh ngoại giao trực diện với Mỹ trên bàn đàm phán Pari.............................. 39

Chƣơng 2. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT
NAMDUY TRÌ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TỪ THÁNG 6-1969 ĐẾN
THÁNG 4-1975............................................................................................... 44
2.1 Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng .............................................. 44
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ...................................................................................................... 44
Tình hình trong nước ........................................................................................................... 46
2.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách của Mặt trận ................................................... 47
Chủ trương của Đảng .......................................................................................................... 47


2.2. Hoạt động đối ngoại của Mặt trận ............................................................ 54


2.2.1 Tuyên truyền, vận động nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng Việt Nam và tăng cường
tình đoàn kết hữu nghị ......................................................................................................... 54
Nhân dân thế giới tiếp tục ủng hộ Mặt trận chống đế quốc Mỹ xâm lược .......................... 59
2.2.2 Hoạt động đối ngoại của Mặt trận hỗ trợ ngoại giao Nhà nước trên bàn đàm phán
Pari và đấu tranh thi hành Hiệp định Pari. ......................................................................... 68

Chƣơng 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ .......... 75
3.1 Nhận xét chung ......................................................................................... 75
3.1.1. Ưu điểm ...................................................................................................................... 76
3.1.2. Hạn chế ...................................................................................................................... 83

3.2. Kinh nghiệm lịch sử ................................................................................. 89
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 104
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 115


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. CTQG:

Chính trị quốc gia

2. HN:

Hà Nội


3. KHXH:

Khoa học Xã hội

4. Nxb:

Nhà xuất bản

5. Sđd:

Sách đã dẫn

6. Tp:

Thành phố

7. Tr:

Trang


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, liên tiếp chống giặc
ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập, tự do là đặc trưng nổi bật của dân tộc Việt
Nam. Đoàn kết chống xâm lăng đó là truyền thống vẻ vang của những người dân
đất Việt. Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khối đại đoàn kết dân tộc
càng được xây dựng và củng cố vững chắc hơn trong việc thành lập các mặt trận
đoàn kết toàn dân chống kẻ thù. Sức mạnh dân tộc tập hợp trong Mặt trận Việt
Minh đã đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong hai cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã huy động mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo dưới ngọn cờ cách mạng, tập
hợp trong Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; tạo nên khối đại đoàn kết dân
tộc to lớn, vững chắc, cô lập cao độ kẻ thù, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến
toàn thắng.
Mặt trận là một vấn đề chiến lược, một trong những nhân tố đảm bảo thắng
lợi của cách mạng. Nhưng ở mỗi thời kỳ lịch sử, với hoàn cảnh khác nhau, yêu cầu,
nhiệm vụ khác nhau, Đảng có những hình thức mặt trận phù hợp.
Ngày 21-1-1954, Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết,
nhưng bị đế quốc Mỹ và tay sai phá hoại. Cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân
tộc Việt Nam đứng trước những thử thách vô cùng khắc nghiệt. Trong lúc nhân dân
Việt Nam cần phải tiến hành một cuộc đấu tranh cách mạng để hoàn thành độc lập
và thống nhất đất nước, thì tình hình thế giới có những diễn biến rất phức tạp, nhất
là tác động của xu thế hòa hoãn đến các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa.
Để thúc đẩy Cách mạng miền Nam tiến lên, đồng thời làm yên lòng bạn bè
quốc tế, cần phải có một giải pháp phù hợp để giải quyết mối quan hệ giữa chiến
tranh và hòa bình, giữa dân tộc và quốc tế, giữa đất nước và thời đại. Dưới ánh sáng
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) và
căn cứ vào hiện thực lịch sử miền Nam lúc đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam được thành lập ngày 20-12-1960 tại vùng căn cứ Tây Ninh. Đó là
một thắng lợi to lớn của cách mạng miền Nam khi mới từ thế giữ gìn lực lượng sang
thế tiến công.
1


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh cứu
nước, đồng thời phải đảm đương cả chức năng chính quyền, thi hành những chính
sách đối nội và đối ngoại. Hoạt động đối ngoại là một nhiệm vụ được tiến hành

song song với cuộc đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở miền Nam Việt Nam.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố chính sách đối
ngoại “hòa bình và trung lập”. Chính sách này xuyên suốt quá trình quan hệ đối
ngoại giữa Mặt trận với nhân dân thế giới. Từ đó, Mặt trận không chỉ tranh thủ nhận
được sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cách mạng miền Nam; mà còn góp
phần làm trọn nghĩa vụ quốc tế. Chính bởi vậy, uy tín của Mặt trận ngày càng được
nâng cao và khẳng định trên trường quốc tế.
Sự ra đời và hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam là một đặc điểm của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Vì thế tôi chọn đề tài: “Hoạt động đối
ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam theo chủ trương của
Đảng (1960-1975)” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đã có một số công trình viết về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam với nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Cuốn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong sự nghiệp
cách mạng Việt Nam, TS. Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên), (NXB Chính trị Quốc gia,
HN, 2010). Nội dung cuốn sách là sự tập hợp, chọn lọc các bài nghiên cứu, các văn
kiện tiêu biểu về vị trí, vai trò và những đóng góp quan trọng của Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại
của dân tộc.
Cuốn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1977), Hà
Minh Hồng, Trần Nam Tiến, (NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, HCM,
2010). Cuốn sách phân tích và khẳng định tính tất yếu sự ra đời của Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, nhằm đoàn kết tập hợp các lực lượng, tầng lớp
yêu nước ở miền Nam, tiếp tục thực hiện chuyển thế chiến lược cho cách mạng
miền Nam. Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã phất cao trên các chiến trường
2



miền Nam, hướng dẫn nhân dân đấu tranh trong cuộc chiến đấu một mất một còn
với chiến tranh thực dân mới của Mỹ và chế độ tay sai. Cuốn sách đã trình bày ngắn
gọn và đầy đủ về mặt trận giải phóng với những nội dung cơ bản về quá trình ra đời,
hoạt động và vai trò của mặt trận giải phóng.
Một số sách viết về lịch sử Đảng, lịch sử Việt Nam, lịch sử ngoại giao Việt
Nam và lịch sử cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đề cập tới sự ra đời và hoạt
động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam:
Cuốn “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000”, Nguyễn Đình Bin (chủ biên),
(NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2002). Đây là một công trình nghiên cứu khảo học
công phu của tập thể tác giả các nhà ngoại giao, các chuyên gia hàng đầu về quan hệ
quốc tế ở nước ta. Cuốn sách phác họa những nét chính hoạt động ngoại giao Việt
Nam trong năm mươi lăm năm từ 1945 đến 2000. Trên nền của đời sống chính trị,
kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế trong thời kỳ này, đồng thời gắn liền với quá
trình vận động của cách mạng nước ta, cuốn sách trình bày một cách hệ thống và
tổng hợp các sự kiện ngoại giao của Việt Nam. Cuốn sách đề cập các đặc điểm, tính
chất của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, những thành tựu chủ yếu trong hoạt
động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân, đồng thời rút ra những
bài học kinh nghiệm trong hoạt động ngoại giao, những thành công và có cả một số
mặt tồn tại.
Cuốn “Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử”, Nguyễn Phúc
Luân, (NXB Bộ Công an Nhân dân, HN, 2005). Kết hợp hài hòa cùng với đấu tranh
trên mặt trận chính trị, quân sự, tác giả đã thể hiện lại một cách khá đầy đủ những
đường lối, chính sách cũng như những cống hiến của Ngoại giao Việt Nam dưới sự
chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc
Mỹ…
Viết về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam còn có một số bài
báo đăng trên các tạp chí khoa học như: Nguyễn Bình Minh, Mặt trận dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, ngọn cờ đại đoàn kết, ngọn cờ tất thắng, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, số 57 (tháng 12-1963). Trần Huy Liệu, Vai trò của Mặt trận dân

tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tranh yêu nước chống đế quốc
Mỹ và tay sai ở miền Nam nước ta hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 69
(tháng 12-1964); Nguyễn Hoài, Từ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
3


Nam đến Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, số 153 (tháng 12-1973)…
Nhìn chung, những cuốn sách, bài viết trên với góc độ khác nhau đã đề cập
tới những vấn đề cơ bản là quá trình ra đời, hoạt động và vai trò của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng đối với cách mạng miền Nam. Nhưng những tác phẩm đó chưa đề
cập một cách cụ thể và hệ thống về vấn đề hoạt động đối ngoại của Mặt trận theo
chủ trương của Đảng. Bởi vậy, từ góc độ lịch sử, kế thừa những công trình đã
nghiên cứu, được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của PGS.TS Vũ Quang Hiển tôi
đã đi sâu nghiên cứu vấn đề hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam theo chủ trương của Đảng (1960-1975).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ hơn hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam theo chủ trương của Đảng, từ đó bước đầu rút ra một số nhận xét và bài
học kinh nghiệm lịch sử.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày một cách có hệ thống hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam dưới chủ trương chỉ đạo của Đảng qua hai giai
đoạn: 1960 - 1969; 1969 - 1975 gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và những kết quả
cụ thể.
- Khôi phục một cách khách quan các hoạt động đối ngoại chủ yếu của Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của quá trình Đảng
lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

từ năm 1960 đến năm 1975.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam trong quá trình lãnh đạo
và chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam từ năm 1960 đến năm 1975.
- Qúa trình hiện thực hóa những chủ trương của Đảng thông qua thực tiễn
hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Hoạt động đối ngoại của Mặt trận theo chủ trương của Đảng.
- Thời gian nghiên cứu vấn đề từ năm 1960 đến năm 1975. Bởi năm 1960 là
thời điểm thành lập Mặt trận và năm 1975 Mặt trận đã hoàn thành nhiệm vụ tập hợp
lực lượng, đấu tranh giải phóng miền Nam.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Luận văn dựa trên Văn kiện của Đảng, những cương lĩnh và văn kiện của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
- Những cuốn sách liên quan và chuyên khảo tới hoạt động đối ngoại của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
- Những bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đề cập tới vấn đề; cùng
những bài viết đăng trên Báo Nhân dân - cơ quan ngôn luận của Đảng có nội dung
đề cập tới Đảng với hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn trọng sự thật
khách quan, nói rõ sự thật theo tinh thần của Đại hội VI của Đảng.

- Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic chủ yếu nhằm trình bày
một cách có hệ thống, toàn diện các sự kiện lịch sử và thực tiễn lịch sử về vấn đề
Đảng với hoạt động đối ngoại của Mặt trận từ năm 1960 đến năm 1975.
- Ngoài ra còn có sử dụng một số phương pháp khác như tổng hợp, so sánh,
phân tích để đánh giá sự kiện và làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp của luận văn
- Trình bày một cách có hệ thống và khách quan sự chỉ đạo của Đảng đối với
hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng
như các hoạt động đối ngoại của Mặt trận những năm 1960-1975.
- Đánh giá và rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử từ quá trình
Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1975.

5


- Cung cấp thêm một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về lịch sử Đảng
và lịch sử đối ngoại Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam từ tháng 12- 1960 đến tháng 5-1969.
Chương 2: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam duy trì hoạt
động đối ngoại từ tháng 6-1969 đến tháng 4 - 1975.
Chương 3: Nhận xét chung và kinh nghiệm lịch sử.

6



Chương 1
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ THÁNG 12-1960 ĐẾN THÁNG 5-1969
1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Xu hướng hòa bình – trung lập trên thế giới sau năm Chiến tranh thế giới thứ II.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, nguyện vọng l ớn của nhân dân thế giới là
hòa bình. Xu hướng chung là giữ nguyên trạng châu Âu và nguyên trạng thế giới,
không làm thay đổi bàn cờ chính trị quốc tế.
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, trên thế giới có nhiều quốc gia bị chia cắt
(Đức, Trung Quốc, Triều Tiên), nhưng do quan niệm cân bằng quyền lực, không ở
đâu có chủ trương đấu tranh cách mạng để thống nhất đất nước.
Trên thế giới lúc đó cũng xuất hiện xu hướng hoà bình, trung lập. “Các nước
theo chính sách trung lập, chính quyền thuộc về tay giai cấp tư sản, tuy cũng chống
đế quốc nhưng cũng không thích - thậm chí chống lại - phe xã hội chủ nghĩa”. Thái
độ cơ bản và lâu dài của họ là “dựa vào cả hai phe và lợi dụng cả hai phe”. “Tình
hình giằng co ấy trên thế giới không thể không ảnh hưởng đến tương quan lực
lượng ở miền Nam Việt Nam” [8, tr.1070].
Từ khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), thực chất là một cuộc đọ
sức giữa hai phe kết thúc mà không phân thắng bại, các nước lớn đều cho rằng
tương quan lực lượng quốc tế đang ở thế cân bằng. Xu thế hòa hoãn xuất hiện. Tiếp
sau Chiến tranh ở Triều Tiên, cuộc chiến tranh ở Đông Dương (1945-1954) chấm
dứt, làm cho những điểm nóng ở châu Á có liên quan tới các nước lớn và hai phe
tạm thời được giải quyết, nhưng trên thế giới chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang
vẫn diễn ra gay gắt. Ở châu Âu, hình thành hai liên minh quân sự và kinh tế đối lập
nhau. Hai nhà nước Đức ra đời.
Hệ thống Xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phe xã hội chủ nghĩa hình thành và được
củng cố, những năm 50 của thế kỷ XX, các nước đều tập trung thực hiện những kế

hoạch kinh tế - xã hội dài hạn, thiết lập liên minh chính trị - kinh tế (Hội đồng tương
trợ kinh tế - SEV) và liên minh quân sự (Khối Hiệp ước phòng thủ Varsava). Phong
7


trào giải phóng dân tộc ngày càng dâng cao ở các nước Á, Phi và Mỹ latinh. Cuộc
đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ diễn ra liên tiếp ngay tại các nước tư bản
chủ nghĩa.
Trung Quốc tập trung thực hiện kế hoạch 5 năm và giải quyết những công
việc nội bộ, e ngại việc Mỹ có thể tiếp tục can thiệp vào khu vực, làm cho tình hình
căng thẳng và đe dọa an ninh của Trung Quốc. Trung Quốc tích cực giúp đỡ Việt
Nam trong công cuộc xây dựng miền Bắc, nhưng chưa thể ủng hộ đấu tranh vũ
trang ở miền Nam. Theo Trung Quốc, Hiệp định Giơnevơ đã tạo ra tiền đề chính trị
tốt hơn cho Việt Nam so với tình hình Đức và Triều Tiên, và Việt Nam đã giành
được thế chủ động. Miền Bắc có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội và thông qua đấu
tranh lâu dài để ảnh hưởng và tranh thủ miền Nam.
Cũng như Trung Quốc, Liên Xô giúp Việt Nam thực hiện các kế hoạch ba
năm 1955-1957 và 1958-1960 ở miền Bắc, nhưng không ủng hộ đấu tranh vũ trang
ở miền Nam. Khơrútsốp chủ trương “thi đua hòa bình”, hòa hoãn với Mỹ, trong lúc
Mỹ đang nhảy vào thay chân Pháp ở miền Nam Việt Nam, cùng thời điểm xảy ra
những vụ bạo động ở Ba Lan và Hunggari (1956). Đại hội XX của Đảng Cộng sản
Liên Xô (1956) nhận định: 1- Tất cả các cuộc xung đột trên thế giới đều có thể giải
quyết bằng cách thương lượng hòa bình, 2- Phong trào cách mạng trong nhiều nước
có thể tiến triển hòa bình được. Đại hội đề ra đường lối “tam hòa” (“cùng tồn tại
hòa bình”, “quá độ hòa bình”, “thi đua hòa bình”).
Trọng tâm chiến lược của Liên Xô lúc đó là châu Âu, tập trung củng cố
Đông Âu. Vì lợi ích của mình, Liên Xô coi nhiệm vụ chiến lược hàng đầu là thực
hiện hòa hoãn Đông - Tây, tránh đối đầu với Mỹ, giữ nguyên trạng châu Âu và
nguyên trạng thế giới, tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ và các nước phương Tây,
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên Xô lo ngại sự

phát triển của phong trào giải phóng dân tộc cản trở hòa hoãn, ảnh hưởng đến mục
tiêu chiến lược của Liên Xô.
Điều đáng chú ý là vào những năm 1954-1959, Liên Xô quan hệ với Việt
Nam có phần dè dặt, thận trọng hơn so với các nước khác. Trong một thời gian dài
các phương tiện thông tin đại chúng của Liên Xô không trực tiếp lên án những hành
động của chính quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Chủ
trương của Liên Xô là giữ nguyên trạng Việt Nam; tập trung xây dựng miền Bắc
8


vững mạnh để động viên đấu tranh chính trị, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua
con đường thương lượng hòa bình.
Mặc dù trong phe xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, nhưng vẫn còn giữ
được sự thống nhất, đặc biệt là vấn đề bảo vệ hòa bình, vì càng tranh thủ giữ vững
hòa bình được lâu dài thì càng có điều kiện thuận lợi để tăng cường mau chóng lực
lượng. Tháng 11-1957, Hội nghị 64 Đảng Cộng sản họp tại Matxcơva, tổng kết các
quy luật của chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố kêu gọi nhân dân thế giới đấu tranh
chống nguy cơ chiến tranh. Tuyên bố của Hội nghị nêu rõ: “Ngày nay, đấu tranh
cho hoà bình và cho sự chung sống hoà bình đã trở thành yêu cầu của những tầng
lớp quần chúng đông đảo nhất ở tất cả các nước trên thế giới. Các đảng cộng sản coi
cuộc đấu tranh cho hoà bình là nhiệm vụ hàng đầu của mình. Cùng tất cả các lực
lượng yêu chuộng hoà bình, các đảng cộng sản sẽ làm tất cả mọi việc theo khả năng
của mình để ngăn ngừa chiến tranh” [37, tr.622].
Trong lúc Mỹ công khai tuyên bố ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan xuống
Đông Nam Á; xu thế hoà bình, trung lập phát triển ở nhiều nơi, cả Liên Xô và
Trung Quốc đều lo sợ “đốm lửa cháy rừng”, chiến tranh nổ ra ở miền Nam Việt
Nam có thể lan rộng thành chiến tranh thế giới. Điều đó sẽ rất nguy hiểm. Vì thế hai
nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa đều thuyết phục Việt Nam chấp nhận sự chia
cắt đất nước lâu dài.
Sự bất đồng trong phe Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là quan hệ Xô – Trung.

Tình hình thế giới cũng có những diễn biến rất phức tạp. Bất đồng giữa một số
Đảng cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng sâu sắc và bộc lộ công khai, nhất là
bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Sự mất đoàn kết trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, nhất là mâu thuẫn Trung
- Xô được Mỹ lợi dụng triệt để nhằm phá hoại phong trào cách mạng thế giới, chia
rẽ, gây mất ổn định chính trị và làm suy yếu lực lượng chủ nghĩa xã hội, đồng thời
hạn chế sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc đối
với Việt Nam, nơi đang diễn ra cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của Mỹ. Trong
tình hình đó, Việt Nam không thể trông chờ vào sự đồng thuận trong phe xã hội chủ
nghĩa như một sự hợp sức, thống nhất hành động giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Vấn
đề lúc đó chỉ có thể là tranh thủ sự giúp đỡ của từng nước.
9


Tình hình trong nước
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi với
chiến dịch Điện Biên Phủ và sự ký kết Hiệp đinh Giơnevơ về Đông Dương (21-71954). Ranh giới quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17, thời hạn tổng tuyển cử là hai năm.
Nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác
nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng kinh tế,
phát triển văn hóa theo hướng chủ nghĩa xã hội, củng cố và tăng cường an ninh quốc phòng, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Lẽ ra sau hai năm,
khi quân Pháp rút hết khỏi miền Nam, nhân dân Việt Nam sẽ Tổng tuyển cử thống
nhất đất nước. Nhưng Mỹ đã vào thay chân Pháp, chia cắt lâu dài nước Việt Nam,
biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt thân Mỹ, nằm trong “thế giới tự do”,
đối lập với “phe cộng sản”.
Đế quốc Mỹ trở thành đối tượng trực tiếp của cách mạng Việt Nam. Mục
tiêu trực tiếp của Mỹ trong việc can thiệp vào Việt Nam và tiến hành cuộc chiến
tranh dài ngày nhất trong lịch sử nước Mỹ là xóa bỏ một chế độ chính trị trong hệ
thống thế giới mới đang hình thành. “Chính quyền Aixenhao kiên quyết tạo dựng
miền Nam Việt Nam thành một quốc gia mà sau này sẽ là thành trì chống chủ nghĩa
cộng sản và làm cơ sở để chứng minh cho “nền dân chủ” ở châu Á” [53, tr.52-56].

Thực hiện ý đồ của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm khước từ hiệp thương tổng
tuyển cử với miền Bắc để thống nhất đất nước, tổ chức “trưng cầu dân ý”, phế truất
Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên vị trí tổng thống, tổ chức bầu cử riêng rẽ ở miền
Nam, thành lập cái gọi là “Việt Nam cộng hoà”.
Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung mọi lực lượng, vừa dụ dỗ, lừa
bịp, vừa đàn áp, khủng bố quần chúng bằng nhiều thủ đoạn thâm độc; thi hành
chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, lập “khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm đánh
vào cơ sở của Đảng Cộng sản, trả thù những người yêu nước, nhất là những người
tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây và những gia đình có người
thân đi tập kết ở miền Bắc.
Đất nước bị chia cắt, ước mơ của nhân dân Việt về gia đình được đoàn tụ sau 2
năm với cuộc tổng tuyển cử tự do, bị chế độ thực dân mới chôn vùi. Lòng uất hận căm
thù của nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân miền Nam nói riêng đối với đế quốc
Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng “dâng cao như núi”, “tràn đầy như biển cả”.
10


Đế quốc Mỹ và tay sai chẳng những xâm chiếm miền Nam, mà còn ráo riết
chuẩn bị “Bắc tiến”, phá hoại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Vì vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn chẳng những là kẻ thù của nhân dân miền Nam
đang bị chúng thống trị, mà còn là kẻ thù chung của nhân dân miền Bắc đã được
giải phóng, của cả dân tộc Việt Nam.
Việc thi hành những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về ranh giới quân sự
tạm thời, thực hiện tập kết, chuyển quân làm so sánh lực lượng ở miền Nam thay
đổi không có lợi cho cách mạng. Do những chính sách khủng bố tàn bạo của đế
quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam nói chung,
nhân dân miền Nam nói riêng với đế quốc Mỹ và tay sai ngày càng phát triển gay
gắt, đòi hỏi phải có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Tình thế cách mạng cho cuộc khởi nghĩa từng phần ở miền Nam đã chín
nguồi, dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, cuối năm 1959 và đầu năm 1960 phong

trào Đồng khởi bùng nổ. Phong trào đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở
nhiều vùng nông thôn. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã làm lung lay tận gốc
rễ bộ máy chính quyền của chủ nghĩa thực dân mới, chuyển cách mạng miền Nam
từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đánh dấu bước nhảy vọt về chất của
phong trào cách mạng miền Nam.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách đối ngoại của Mặt trận
Chủ trương của Đảng
Trước tình hình đất nước tạm thời chia làm hai miền, cách mạng Việt Nam
bước vào thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh để hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Lúc này Đảng khẳng định: Mũi nhọn đấu tranh chĩa vào đế quốc Mỹ, kẻ thù
chính của nhân dân thế giới, kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam. Cuộc
đấu tranh cách mạng của nhân dân hai miền Nam, Bắc trong giai đoạn mới là bộ
phận của xu hướng đấu tranh cho mục tiêu thời đại, vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình mới trên thế giới và những biến động ở trong nước, tháng 11959, Ban Chấp Hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15, ra Nghị quyết có
ý nghĩa lịch sử đối với cách mạng miền Nam.

11


Trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (khóa II) họp từ ngày
12 đến 22-1-1959 (đợt 1), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Ban Chấp hành Trung
ương phải có đối sách đặc biệt tế nhị, khéo léo và mềm mỏng trước mọi sức ép rất
nặng nề từ nhiều phía trên thế giới đối với Đảng ta lúc đó [37, tr.22].
Ngay sau Hội nghị 15, Ban Bí thư Trung ương Đảng gửi cho Xứ ủy Nam Bộ
bản Chỉ thị và nêu rõ: “Nam Bộ có thể và phải lập căn cứ địa cách mạng để xây
dựng và xúc tiến phong trào cách mạng… tiến tới làm nơi trung tâm hoạt động của
Mặt trận dân tộc thống nhất để nêu cao ngọn cờ giải phóng cứu nước, đánh đổ Mỹ Diệm” [37, tr.516].
Nghị quyết 15 chỉ rõ phương hướng và yêu cầu ở miền Nam: “Đảng phải đẩy

mạnh công tác dân vận, tiến tới thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất chống
Mỹ - Diệm thật rộng rãi lấy liên minh công nông làm cơ sở, bao gồm tất cả những
lực lượng yêu nước ở miền Nam, tranh thủ mọi người có thể tranh thủ được, ngay
cả những phần tử có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm trong chính quyền của đối
phương” [37, tr.85-86].
Trung ương Đảng chủ trương: “Củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất,
hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và
toàn dân ta. Nhưng vì nhiệm vụ cơ bản của mỗi miền khác nhau, cho nên nhiệm vụ,
tính chất, thành phần Mặt trận ở mỗi miền có chỗ khác nhau. Vì vậy, cần có Mặt
trận riêng cho miền Nam” [37, tr.87]. “Mặt trận ở miền Nam phải có một bản
Cương lĩnh cụ thể, và phải đề ra những khẩu hiệu thiết thực, phù hợp với tình hình
từng nơi, từng lúc để động viên và tập hợp quảng đại quần chúng, thống nhất hành
động chống Mỹ - Diệm trong mọi trường hợp cụ thể từ thấp đến cao”. “Mặt trận
miền Nam tuy là riêng cho miền Nam, không nằm trong Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, nhưng phải cùng thực hiện mục tiêu chung với Mặt trận Tổ quốc là nhằm xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và
thực tế do Đảng ta lãnh đạo” [37, tr.89].
Tiếp thu Nghị quyết 15, Xứ ủy Nam Bộ đã họp Hội nghị vào tháng 111959, bày tỏ hoàn toàn tin tưởng đường lối cách mạng do Trung ương vạch ra, tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Đối với vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất, Nghị quyết Hội nghị nhất
trí với chủ trương của Trung ương và nhấn mạnh thêm: “Không ngừng củng cố và
12


mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm. Muốn củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm phải ra sức củng cố khối công
nông liên minh. Vì phong trào công nông mạnh mẽ bao nhiêu thì tạo điều kiện
thuận lợi cơ bản cho việc củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhứt chống Mỹ
- Diệm bấy nhiêu” [37, tr.997].
Tháng 9-1960, Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động

Việt Nam được triệu tập. Nghị quyết nêu rõ nội dung cơ bản của chính sách đối
ngoại là: ra sức góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa, tăng
cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa
nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, phát triển quan hệ hợp tác tương trợ
với các nước anh em theo những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản; kiên
quyết đấu tranh để góp phần bảo vệ và củng cố hòa bình, chống chính sách xâm
lược và gây chiến của đế quốc Mỹ; ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân
các nước Á, Phi và Mỹ la tinh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc; kiên
quyết đấu tranh làm cho Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương được thi hành đầy đủ
nhằm duy trì hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á; tăng cường quan hệ hữu
nghị giữa Chính phủ và nhân dân Việt Nam với Chính phủ và nhân dân các nước
yêu chuộng hòa bình.
Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: Để đảm bảo cuộc đấu tranh cách mạng ở
miền Nam giành được toàn thắng, “nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam
là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ,
thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập
dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo
vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới... Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách
mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây
dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải
đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số,
các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có khuynh hướng
chống Mỹ - Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc,
13


tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận

phải nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực
lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút đông
đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung chống Mỹ - Diệm nhằm
giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc” [38, tr.916].
Như vậy, chủ trương về thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất ở miền
Nam đã sớm được thống nhất trong chỉ đạo của Trung ương và Đảng bộ miền
Nam. Chủ trương này xuất phát từ thực tiễn cách mạng miền Nam sau Hiệp định
Giơnevơ, được Hội nghị Trung ương và Đại hội toàn quốc của Đảng bàn bạc,
đưa vào nghị quyết, hình thành đường lối chỉ đạo thực tiễn. Đó là nhận thức và
định hướng quan trọng đưa đến sự ra đời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam.
Trước tình hình diễn biến nhanh ở miền Nam, ngày 10-11-1960, Bộ Chính trị
gửi Điện chỉ đạo Xứ ủy Nam Bộ và Liên khu V “phải ra cương lĩnh mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam, có thể lấy tên là phong trào dân tộc giải phóng miền
Nam, nếu thấy thích hợp” [38, tr.1014].
Ngày 12-11-1960, Bộ Chính trị gửi tiếp bức điện số 20-NB chỉ đạo: “Cần
phải đưa Mặt trận giải phóng ra ngay không cần chờ nhân sự. Trong tình hình hiện
nay chưa cần công bố toàn bộ cương lĩnh Mặt trận mà chỉ nêu ra những điểm chính
trong cương lĩnh để có tiếng nói chính đáng của ta trong cơ hội này. Để kịp thời
lãnh đạo quần chúng và tập hợp dư luận dưới ngọn cờ của Mặt trận, cần ra hiệu
triệu vắn tắt về chế độ thối nát của Mỹ - Diệm và tình hình nghiêm trọng hiện nay,
nhiệm vụ lịch sử của Mặt trận và một số khẩu hiệu lớn” [38, tr.1019].
Ngày 16-11-1960, Ban Bí thư gửi tiếp Điện cho Xứ ủy Nam Bộ chỉ rõ: “nên
đưa Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam ra bằng cách như sau: Cho ra bản
Tuyên ngôn với các khẩu hiệu lớn…; Tuyên ngôn ký tên là Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam hay một tên nào khác thích hợp hơn… không ký tên Ban vận
động hay đại diện Ban vận động…; Khi có Tuyên ngôn ra rồi và kèm theo cương
lĩnh Mặt trận… cử người của Ban Mặt trận ở mỗi nơi; Sau này ta sẽ triệu tập đại
biểu mặt trận các nơi và một số người các giới bên trên… và thành lập Ban Mặt trận
Trung ương…” [38, tr.1023-1024].


14


Khi Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chuyển sang chiến lược chiến
tranh cục bộ, tình hình đất nước có những thay đổi mới. Ban chấp hành Trung ương
Đảng họp hội nghị lần thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965) ra nghị quyết với
nhiệm vụ ngoại giao hai miền thời kỳ này là: “tranh thủ đến cao độ sự đồng tình và
ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc Á, Phi, Mỹ La tinh và của
nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ” [43, tr.640].
Mở màn cho cục diện “đánh và đàm” cũng như cho mặt trận đấu tranh ngoại
giao là Nghị quyết Trung ương lần thứ 13 (23-26 tháng giêng năm 1967). Đây là
nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Nghị quyết khẳng định:
“Chúng ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là đúng lúc vì ta đã và đang thắng
địch, thế của ta là thế mạnh… Trước mắt, chúng ta cần tập trung vào khẩu hiệu đòi
Mỹ phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động
chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [43,tr. 174-176].
Những thắng lợi mới của nhân dân ta ở trên cả hai miền đất nước đã tạo ra
những khả năng mới để đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao. Tình thế đã đến lúc cho
phép ta mở mặt trận đấu tranh ngoại giao để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của
nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ. Từ ngày 23
đến ngày 26-1-1967, BCH TƯ Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 13, chủ trương đẩy
mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta.
Hội nghị chủ trương: “Để thực hiện quyết tâm chiến lược của ta, trên cơ sở
tiếp tục phát huy những thắng lợi đã giành được, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh đấu
tranh quân sự và chính trị ở miền Nam. Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở
miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt trận đấu
tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa”. Hội nghị đã vạch rõ vị trí của đấu tranh

ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn trước
mắt: đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết
định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao.
Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành
được trên chiến trường. Tuy nhiên đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản
ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tình
15


chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan
trọng, tích cực và chủ động” [43, tr.174].
Hội nghị vạch ra ba phương châm của đấu tranh ngoại giao là phát huy thế
thắng, thế mạnh của ta; chủ động tiến công địch; giữ vững tính độc lập, đồng thời
phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa an em.
Tháng Giêng năm 1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương
thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam tháng 12-1967 phát
động Tổng tấn công và nổi dậy tế Mậu thân: Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động quốc tế
và công tác ngoại giao là phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự với
đấu tranh chính trị trong nước, tích cực phục vụ cho cuộc tổng công kích, tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi. Công tác ngoại giao của ta nhằm tiến công địch trong lúc
chúng đang lúng túng, bị động cả về quân sự và chính trị, đồng thời mở đường cho
địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta. Phải chuẩn bị những phương
án cần thiết để khi tình hình bắt buộc địch phải thương lượng với ta thì ta có thể luôn
luôn giữ vững thế chủ động trong quá trình đàm phán [8, tr.514].
Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia tại bàn đàm
phán Pari, Bác chủ trương “phải vạch trần luận điệu bịp bợm của Johnson, đẩy
mạnh tuyên bố của Nguyễn Cao Kỳ và Phạm Đăng Lâm, phải tuyên truyền nhiều
cho đoàn của Mặt trận” [8, tr.80].
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4/1969 chỉ rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt
trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”. Ngày 10-5-1969, Nghị quyết Hội nghị lần thứ

16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III nhấn mạnh: “Trên thế mạnh, thế thắng
về quân sự, chính trị, ta đang chủ động tiến công địch trên mặt trận ngoại giao, buộc
địch phải chịu vừa đánh vừa đàm, bị động ngồi lại nói chuyện với miền Bắc, rồi phải
nói chuyện với cả Mặt trận dân tộc giải phóng trong Hội nghị Bốn bên ở Pari. Trong
đấu tranh ngoại giao, cần phối hợp tiến công quân sự và chính trị” [8, tr.522]
Chính sách đối ngoại của Mặt trận
Trước hoàn cảnh lịch sử mới trên thế giới và tình hình trong nước, đặc biệt là
thắng lợi của phong trào Đồng Khởi, theo chủ trương của Đảng, ngày 20-12-1960,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra đời.
Trước tình hình trong và ngoài nước, cuối năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ họp
bàn việc xúc tiến việc thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất [77, tr.39]. Trên cơ sở
16


chủ trương và chỉ đạo của Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Bí thứ Xứ ủy
Nam Bộ nhất trí đề nghị lấy tên Mặt trận là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam”. Về mục tiêu của Mặt trận, Xứ ủy nhất trí nêu mục tiêu hòa bình, thống
nhất, độc lập dân chủ, cơm no, áo ấm cho nhân dân, nhưng sáng tạo thêm vấn đề
hòa bình, trung lập cho phù hợp với xu hướng hòa bình trung lập trên thế giới lúc
ấy, đáp ứng yêu cầu của một số người trong các tầng lớp trung gian, trí thức, tư sản,
nhân sĩ yêu nước, cũng như có thể làm cho một số nước ở Đông Nam Á không quá
bức xúc.
Tối ngày 19-12-1960, tại Suối Chò, xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây
Ninh, đại biểu các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo, các dân tộc toàn miền Nam
họp Hội nghị để giải quyết nhiều công việc về thành lập Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam. Hội nghị kéo dài từ 20 giờ đến 1 giờ sáng ngày 20-121960 thì kết thúc với lời tuyên bố long trọng: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam đã được thành lập.
Ngay sau khi ra đời, Mặt trận đã nhanh chóng trở thành một thực thể chính
trị, đại diện cho nguyện vọng của nhân dân cả nước, đặc biệt là nhân dân miền Nam
Việt Nam. Cùng với thắng lợi trong cuộc đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận và

hoạt động ngoại giao, Mặt trận đã thực sự trở thành ngọn cờ lãnh đạo trực tiếp cuộc
chiến tranh cách mạng miền Nam, nhất là trong thời kỳ chống “chiến tranh đặc biệt”
và trong giai đoạn đầu của chiến tranh xâm lược cục bộ của đế quốc Mỹ.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với mục đích:
“thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình trung lập ở miền Nam,
tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà” [102, tr.1]. Sự ra đời của Mặt trận là một
bước ngoặt hết sức quan trọng đối với cách mạng miền Nam nói riêng và sự nghiệp
thống nhất đất nước nói chung. Đó là người đại diện chân chính duy nhất của 14
triệu nhân dân miền Nam Việt Nam.
Chỉ khi có một chính sách đối ngoại sáng tạo thì Mặt trận mới tranh thủ được
sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Sự ủng hộ của nhân dân thế giới đóng một vai trò
quan trọng trong sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một nhân tố để lá cờ của
Mặt trận bay cao trên bầu trời quốc tế. Để làm tốt nhiệm vụ đó, Mặt trận đã linh
hoạt bổ sung chính sách đối ngoại mỗi khi hoàn cảnh lịch sử có sự thay đổi. Sự thay
đổi đó thể hiện qua: bản Tuyên ngôn, Chương trình hành động 10 điểm (năm 1960);
17


tuyên bố năm điểm của Mặt trận (năm 1965); Cương lĩnh chính trị (năm 1967)...
nhưng vẫn theo đường lối chiến lược của mặt trận là: „thực hiện chính sách ngoại
giao hòa bình, trung lập”.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận đã thông qua bản Tuyên bố và Chương trình
hành động 10 điểm. Bản Tuyên ngôn viết: “Ngày nay, phong trào hòa bình, dân
chủ, độc lập dân tộc đang sôi nổi khắp thế giới. Chủ nghĩa thực dân đang dần tan rã
không gì cứu vãn được, thời kỳ mà bọn đế quốc tha hồ cướp bóc và nô dịch các dân
tộc đã qua rồi. Tình hình đó hết sức thuận lợi cho cuộc đấu tranh để giải phóng
miền Nam khỏi sự xâm lược của đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Nhân dân yêu chuộng
hòa bình và tiến bộ trên Thế giới ủng hộ chúng ta. Chúng ta có chính nghĩa, có sức
mạnh đoàn kết phi thường của nhân dân, nhất định chúng ta sẽ thắng. Đế quốc Mỹ
cướp nước và tập đoàn Ngô Đình Diệm bán nước nhất định sẽ thất bại. Sự nghiệp

giải phóng miền Nam nhất định thành công”[4, tr.14].
Bản tuyên bố đề cao vai trò của nhân dân thế giới đối với cách mạng miền
Nam Việt Nam. Tuy nhiên để nhận sự được ủng hộ đó Mặt trận Dân tộc Giải phóng
cần ra sức thực hiện những nhiệm vụ quốc tế: “Chống chiến tranh xâm lược và tất
cả các hình thức nô dịch của đế quốc. Ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước; Chống tuyên truyền chiến tranh. Đòi tổng giải trừ quân
bị, cấm vũ khí hạt nhân, sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình;
Ủng hộ phong trào đấu tranh hòa bình, dân chủ và tiến bô xã hội trên thế giới. Tích
cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và tiến bộ trên thế giới” [134, tr.12]. Đây là điểm thứ 10 trong Chương trình 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam. Bằng điểm này và bằng mọi hoạt động của mình, Mặt
trận đã hòa vào thế giới như là một bộ phận khăng khít, sau trở thành một bộ phận
đi đầu trong phong trào dân tộc giải phóng, hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời với Cương lĩnh 10 điểm đã
giúp nhân dân thế giới hiểu được nguyện vọng của nhân dân Việt Nam từ Nam chí
Bắc là: “độc lập và thống nhất”. Mỹ có chấm dứt xâm lược thì mới có độc lập và
có độc lập thì mới thống nhất đất nước được. Để tranh thủ dư luận rộng rãi của nhân
dân thế giới và làm rõ thêm nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, Cương lĩnh Mặt
trận nhấn mạnh đến chủ trương ngoại giao hòa bình, độc lập, trung lập và tiến tới
hòa bình thống nhất Tổ quốc. Từ đó, ở nhiều nước trên thế giới bắt đầu biết đến lá
18


×