Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1960 – 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------



ĐOÀN LUYẾN





VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN
DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1960 – 1968)





Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54




LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ







NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ PHỤNG HOÀNG






Thành phố Hồ Chí Minh - 2007





Đề tài Vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ ( 1960 - 1968 ) là công trình nghiên cứu và biên soạn
của tôi trong thời gian theo học lớp Cao học khoá 15, chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam tại trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung đề tài trước Hội đồng bảo vệ luận văn .






















- Mặt trận DTGPMNVN : Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
- LMCLLDTDC & HBVN:
Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình
Việt Nam.
- MTTQVN :
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Tạp chí NCLS :
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
- Nxb :
Nhà xuất bản
- XHCN :
Xã hội chủ nghĩa
- KHXH :
Khoa học xã hội.
- QĐND :
Quân dội nhân dân
- TP.HCM :

Thành phố Hồ Chí Minh





MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) nhân dân Việt Nam phải đối đầu
với đế quốc Mỹ, một kẻ thù hung bạo và nham hiểm n
hất thế giới. Muốn chiến thắng, nhân
dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và
ngoại giao.
Muốn cho cuộc đấu tranh trên cả ba mặt trận đạt được thắng lợi, một điều kiện qua
n
trọng là phải động viên và tập hợp lực lượng toàn dân tộc, phải xây dựng cho được Mặt trận
dân tộc thống nhất để bao vây đế quốc Mỹ xâm lược và chiến thắng chúng.
Sau năm 1954, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền với hai nhiệm vụ khác nhau.
Nhâ
n dân cả hai miền đều phải làm nghĩa vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Song ngoài
nhiệm vụ chung đó ra, mỗi miền còn làm
nhiệm vụ chiến lược cách mạng riêng thích hợp
với điều kiện của mình. Miền Bắc làm cách mạng XHCN: cải tạo XHCN và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội. Miền Nam làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quét sạch đế quốc Mỹ
xâm lược và đánh đổ bè lũ tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Do
đó, mỗi miền có một mặt trận riêng, có cương lĩnh thích hợp để tranh thủ và đoàn kết các
giới đồng bào [9, tr.21]
. Toàn dân Việt Nam phải triệu người như một, cùng đứng trong
Mặt trận dân tộc thống nhất, kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, đập tan âm mưu chia cắt lâu dài
đất nước ta của đế quốc Mỹ.

Thực hiện chiến lược đại đoà
n kết toàn dân của Đảng, chúng ta đã xây dựng ba tầng
Mặt trận thống nhất. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời cùng với Mặt
trận Tổ Quốc Việt Na
m, nhân dân Đông Dương và nhân dân thế giới bao vây đế quốc Mỹ.
Mặt trận
DTGPMNVN ra đời, cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thực sự khởi
động một cách độc đáo và khôn khéo, thể hiện bãn lĩnh Việt Nam trong quá trình tiến hành
cuộc chiến tranh cách mạng .
Mặt trận vừa làm
nhiệm vụ của một đoàn thể kêu gọi nhân dân miền Nam đứng lên

lật đổ ách gông xiềng đế quốc và tay sai, vừa làm nhiệm vụ của một chính quyền cách mạng
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ khi ta chưa xây dựng được
chính quyền cách mạng.
Hoạt động của Mặt trận trên lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao thể hiện ý chí

tiến công của cách mạng, thể hiện quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng là giành độc


lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vai trò của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ vô cùng to lớn.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Vai trò của Mặt trận Dân tộc
giải phóng Miền Nam Việt Nam trong cuộc kh
áng chiến chống Mỹ ” ( từ 1960 đến
1968 ) làm đề tài luận văn.
Mặt trận
DTGPMNVN ra đời ngày 20-12-1960 và kết thúc ngày 4-2-1977, Mặt trận
đã cùng với nhân dân cả nước làm nên một kỳ tích trong lịch sử dân tộc: đán
h thắng đế quốc

Mỹ, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới trong thời hiện đại. Nội dung hoạt động của Mặt
trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng phong phú, Tác giả luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu vai trò của Mặt trận từ 1960 đến 1968, đây là giai đoạn cả nước chống “chiến
tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ”, là giai đoạn đế quốc Mỹ l
eo thang chiến tranh ở
Việt Nam. Nhân dân Việt Nam muốn thắng Mỹ phải đoàn kết xung quanh “ngọn cờ đoàn
kết, ngọn cờ cách mạng, ngọn cờ chiến thắng của miền Nam anh hùng”.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Sau khi hoàn thà
nh nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Mặt trận
DTGPMNVN cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hoà bình Việt Nam hợp nhất thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [44]. Từ trước
đến nay đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về Mặt trận.
Chiến tranh Việt Nam thời hiện đại là cuộc chiến tranh “nóng” lên từ “chiến tranh
lạnh”, và “
vị trí của Mặt trận miền Nam trong lịch sử chưa có bao giờ như vậy”[35, tr.304].
Cho nên, hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là vô
cùng phong phú, vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến vô cùng quan trọng, cần có đề
tài chuyên sâu nghiên cứu về Mặt trận.
Thông qua văn kiện Đảng, văn kiện của các đại hội Mặt trận, các bản báo cáo chính
trị, Cương lĩnh c
hính trị được nhà xuất bản Sự Thật xuất bản thành các tập sách đã để lại
cho chúng ta nhiều tư liệu quý báu:
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội,1961.
- Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần t
hứ nhất, Nxb Sự Thật, Hà Nội,1962.
- Những văn kiện c
hủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ sau Đại hội lần thứ nhất
của Mặt trận đến thá
ng mười 1962 ), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1963.

- Báo cáo chính trị tại đại hội Mặt trận D
TGPMNVN lần thứ hai, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1964.


- Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 11 -1964 đến tháng
12-1965 ) Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1966.
- Cương lĩnh chính trị của Mặt trận
DTGPMNVN, Nxb Sự Thật, Hà Nội ,1967.
- Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận
DTGPMNVN ( Từ tháng 1 -1967 đến tháng 12
-1967 ), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1967.
- Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II, (1945 - 1977 ), Nxb
Sự Thật, Hà Nội, 1970.
Những tập văn kiện của Đảng, văn kiện Mặt trận giúp chúng ta hiểu r
õ đường lối,
chủ trương Đảng, của Mặt trận trong từng giai đoạn, cho chúng ta thấy được những cái mốc
lịch sử đánh dấu từng bước phát triển và chuyển biến của cách mạng miền Nam.
Thông qua một số sách, bài viết, hồi ký của các vị lãnh đạo tham gia Mặt trận trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ c
ho chúng ta cái nhìn khá rõ nét về hoạt động của Mặt trận như
:
- Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành
những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970 và Thư vào Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1985 của cố Tổng bí thư Lê Duẫn, người trực tiếp c
hỉ đạo các
h mạng Việt Nam thời chống
Mỹ.
- “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam – Mấy bài học lớn” của Nguyễn

Hữu Thọ, viết trong Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, Nxb Lao Động,
Hà Nội , 2005.
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Các
h mạng lâm thời tại hội nghị Pa ri về
Việt Nam do Bà Nguyễn Thị Bình chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004 đã c
ho
chúng ta thấy được khá đầy đủ hoạt động ngoại giao của Mặt trận DTGPMNVN.
- Chung một bóng cờ (về Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) do Trần
Bạch Đằng chủ biên, đây là cuốn hồi ký của những người tham gia Mặt trận trong thời
chống Mỹ ghi lại những hoạt động của Mặt trận khá toà
n diện.

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết t
húc thắng lợi, nhiều tác phẩm viết về quân
sự của các tướng lĩnh chỉ huy trên chiến trường miền Nam cũng cho ta nhiều sử liệu khá
phong phú như: Đại tướng Văn Tiến Dũng với Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xuất
bản năm 2005 và Thượng tướng Trần Văn Trà, Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005 cho chúng ta biết đư
ợc những họat động của Quân Giải
phóng trên các chiến trường miền Nam.


Năm 1964, nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội xuất bản cuốn Ngọn cờ chiến thắng của
miền Nam anh hùng của Nguyễn Công Bình, Cao văn Lượng và Bùi Hữu Khánh. Các tác
giả đã nêu hoàn cảnh ra đời của Mặt trận, tuyên ngôn và chương trình hành động của Mặt
trận, nêu những hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trong 4 năm đầu mới thành lập.
Năm
1970, trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tác giả Hoàng Vĩ Nam viết bài “Sự ra đời
của Mặt trận
DTGPMNVN”, nội dung chủ yếu là phân tích sự ra đời của Mặt trận Dân tộc

giải phóng là một tất yếu lịch sử.
Từ 1975 đến na
y, có nhiều công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, có đề cập đến Mặt trận DTGPMNVN như:
- Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975), tập 2,3,
4 của Nxb C
hính trị
Quốc gia, Hà Nội , 1995,1997,1999.

- Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
- Lịch sử Việt Nam (1954- 1965) và (1965-1975), Cao văn Lượng chủ bi
ên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 1996, 2002.
- Tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
qua các đại hội và hội nghị trung ương
(1930-2002)- PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội
2003;
Tác phẩm v
iết về Mặt trận Dâ
n tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khá sớm và
nhiều thông tin nhất là Miền Nam giữ vững thành đồng của Giáo sư Trần Văn Giàu, 5 tập,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản các năm 1964, 1966, 1968, 1970, 1978. Đây là một
tác phẩm Sử học, có nhiều tâm huyết của một người dân Nam Bộ, tác giả đã ghi chép khá
chi tiết, cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Trong tập 1, chương V: Bão táp cách mạng bắt đầu, tác giả viết về tì
nh hình miền
Nam trong thời gian 1959, 1960, chính sách đàn áp của Mỹ - Diệm, phong trào đấu tranh
của nhân dân miền Nam, chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam và sự ra đời của Mặt
trận Dân tộc giải phóng.

Trong tập 2, chương III: Lực lượng cách mạng nhân dân, tác g
iả viết về hoạt động
của Mặt trận trong thời gian từ 1961 đến 1963, về vùng giải phóng,
về Quân giải phóng, về
phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam từ 1961 đến 1963.
Trong tập 3, chương III: Mặt trận D
ân tộc giải phóng – người đại diện chân chính
duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, tác giả viết về vùng giải phóng, về họat động


của Mặt trận từ năm 1963 đến 1965, đặc biệt họat động đối ngoại của Mặt trận phát triển rất
mạnh trên toàn thế giới.
Trong tập 4, chương VII, Vùng giải phóng, Mặt trận Dân tộc giải phóng trong giai
đọan đầu của “chiến t
ranh cục bộ”, nội dung viết về họat động của Mặt trận, của vùng giải
phóng từ 1965-1967, về Đại hội bất thường của Mặt trận và Cương lĩnh của Mặt trận, về
hoạt động ngoại giao quốc tế của Mặt trận từ 1965- 1967.
Trong tập 5, chương III: Lực lượng nhân dân miền Nam được phát động đến mức
cao trong năm 1968, nội dung tác giả viết về phong trào đấu tranh chính trị của nhâ
n dân
miền Nam trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, về cuộc vận động bầu
cử chính quyền cách mạng ở miền Nam
trong năm 1968.
Năm 1977, đề tài “Mặt trận Dâ
n tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1975)”
được Nguyễn Thanh Hải bảo vệ luận văn thạc sĩ Lịch sử tại trường Đại học KHXH-NV
TP.HCM. Đây là đề tài cung cấp cho chúng ta khá nhiều tư liệu về Mặt trận, là đề tài nghiên
cứu hoạt động của Mặt trận trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng chưa đi s
âu
vào các hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN, nhất là hoạt động ngoại giao, các phong trào

đấu tranh chính trị của Mặt trận… [26].
Năm
2006, Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử chính phủ đã xuất bản cuốn Biên niên lịch
sử chính phủ Việt Nam, tập 5, nội dung: Mặt trận DTGPMNVN và Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nội dung cuốn sách cho chúng ta cái nhìn mới về
Mặt trận D
ân tộc giải phóng, về vai trò của Mặt trận trên lĩnh vực nhà nước, “Ủy ban trung
ương Mặt trận là chính phủ tiền thân của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam” [11] đại diện cho nhân dân miền Nam trong giai đoạn 1960-1969.
Nhìn chung, các tác giả nêu trê
n đã quan tâm nghiên cứu đến Mặt trận Dân tộc giải
phóng. Tuy nhiên, các đề tài chỉ nghiên cứu một mặt hoạt động của Mặt trận, hoặc nghiên
cứu nhiều mặt nhưng chỉ trong một giai đoạn ngắn, hoặc coi Mặt trận là một bộ phận của
cách mạng m
iền Nam, các đề tài chưa chú trọng đến vai trò “Mặt trận là một chính phủ ”ở
miền Nam.
Kế thừa những thành tựu của các người đi trước, luận văn dự định nghiên cứu hoà
n
cảnh ra đời của Mặt trận, hoạt động của Mặt trận trên các lĩnh vực chính trị, quâ
n sự và
ngoại giao, đồng thời hệ thống hoá những hoạt động của Mặt trận theo từng giai đoạn lịch
sử. Qua đó rút ra vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giai
đoạn từ 1960 – 1968.


3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam Việt Nam là một tổ chức cách mạng có ảnh
hưởng rất lớn đến thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Lao động Việt Nam.

Hoạt động của Mặt trận
DTGPMNVN trên cả 3 mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại
giao đã thực sự hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dâ
n tộc dân chủ do Hội nghị trung ương
lần thứ 15 mở rộng và nghị quyết Đại hội Đảng lần III của Đảng Lao động Việt Nam đã đề
ra.
Hơn 30 năm q
ua, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và bước
vào xây dựng CNXH, sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã được vận dụng và phát
huy trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, hiện nay nhân dân ta đang thực
hiện
công cuộc Đổi mới, những bài học về toàn dân đánh giặc, những kinh nghiệm lãnh đạo
phong trào quần chúng nhân dân kiên trì và sáng tạo chống phá “ấp chiến lược”, chống
“bình định ”, những họat động của Mặt trận trên cả ba lĩnh vực: quân sự, chính trị và ngoại
giao cần được tổng kết đầy đủ.
Vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là rất to
lớn, Mặt trận đã huy động mọi tầng lớp nhân dân giải quyết bất cứ khó khăn gì để hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những kinh nghiệm vận động
quần chúng của Mặt trận Dân tộc giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là những bài
học rất bổ ích cho Mặt trận Tổ quốc Việt N
am trong công cuộc Đổi mới của nước ta hiện
nay.
Nghiên cứu Mặt trận Dân tộc giải phóng m
iền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ là một việc làm thiết thực để giảng dạy tốt phần Lịch sử Việt Nam hiện đại.
4. ĐỐI TƯỢ NG NGHIÊN CỨU
Trong cuộc ch
iến tranh chống Mỹ từ 1954 -1975, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam có vai trò rất quan trọng. Thực hiện chủ trương, sách lược của Đảng
Lao động Việt Nam, Mặt trận đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân miền Nam trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước.
Nội dung đề tài xác định đội tượng của luận văn là các
họat động của Mặt trận Dân
tộc giải phóng từ 1960 đến 1968. Thông qua các họat động của Mặt trận, rút ra được vai trò
của Mặt trận trong c
uộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một Mặt trận dân tộc thống nhất
của một nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân mới. Mặt trận đã giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ. Ra sức xây dựng và tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất, bao gồm cả giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư sản thà
nh thị, lấy liên minh công nông làm
nền tảng, tiến hành cuộc cách mạng chống đế quốc và tay sai, xây dựng nhà nước độc lập
theo chế độ dân tộc, dân chủ, tạo điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Xét về đối tượng thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng m
iền Nam Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng Việt Nam. Mặt trận là một bộ phận của Mặt trận dân tộc thống nhất,
thực hiện đường lối đại đoàn kết toàn dân của Đảng. H
oạt động của Mặt trận có nhiệm vụ
cùng với cả nước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đuổi ngoại xâm và
thống nhất nước nhà.
Do điều kiện đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Mặt trận vừa làm nhiệm vụ là
một chính phủ (khi miền Nam chưa có chính phủ Cách mạng lâm thời), tổ chức và lãnh đạo
cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam, vừa làm nhiệm vụ của mặt trận dân tộc thống
nhất là tập hợp, huy động tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc dưới sự
lãnh đạo của liên minh công nông để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Vai trò của Mặt trận D
ân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ là rất phong phú, cần có một công trình chuyên khảo mới thực hiện được. Nội
dung đề tài luận văn giới hạn nghiên cứu Mặt trận từ 1960 đến 1968, trên phạm vi toàn miền
Nam. Đây là giai đọan Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam với hai chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” và “chiến tranh cục bộ”. Năm
1968 được coi là bước ngoặc của cách mạng miền Nam.
Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ bắt đầu kế hoạch xuống thang chiến tranh, rút khỏi Việt Nam.
Nghiên cứu vai trò của Mặt trận trong cuộc khá
ng chiến chống Mỹ, tác giả tập trung
nghiên cứu các họat động sau đây:
Nghiên cứu các hoạt động chính trị của Mặt trận, quá trình xây dựng chính quyền,
xây dựng các đoàn t
hể trong Mặt trận, lãnh đạo các phong trào đấu tranh của quần chún
g
trong sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân miền Nam.
Hoạt động ngoại giao của Mặt trận trên bàn đàm phán, tham gia các diễn đàn và hội
nghị quốc tế, đấu tranh giành sự ủng hộ của nhân dân t
hế giới.


Vai trò của các đoàn thể Mặt trận trong công cuộc xây dựng lực lượng Giải phóng
quân miền Nam, trong việc xây dựng nguồn lực cho lực lượng dân quân du kích ở các địa
phương, trong việc xây dựng các căn cứ địa cách mạng, trong thế trận chiến tranh nhân dân.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài, tác g
iả đặt ra 3 nhiệm vụ cơ bản:
- Nghiên cứu vai trò của Mặt trận Dâ
n tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam về chính
trị: Sau Hiệp định Gơnevơ 1954, chính quyền và quân đội tập kết ra Bắc, đế quốc Mỹ đã
xây dựng một hệ thống chính quyền tay sai ở miền Nam. Mặt trận đã từng bước xây dựng
chính quyền m

iền Nam từ không đến có, từ “uỷ ban nhân dân tự quản” trong các “Làng
rừng”, đến uỷ ban Giải phóng, từng bước xây dựng chính quyền cách mạng, tạo điều kiện
cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra đời sau này. Ủy ban
Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng là chính phủ tiền thân của chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam [11]. Ủy ban Mặt trận các cấp đã xâ
y dựng ủy ban
nhân dân cách mạng các cấp. Mặt trận đã tổ chức được các đoàn thể Thanh niên giải phóng,
Phụ nữ giải phóng, Nông dân giải phóng…,làm nòng cốt cho công cuộc vận động giải
phóng miền Nam. Các phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh
đạo của Mặt trận đã thực sự góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
-Nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng m
iền Nam Việt
Nam, đặc biệt trong quan hệ ngoại giao quốc tế. Mặt trận họat động từ “ngoại giao nhân
dân” đến “ngọai giao nhà nước”. Thực hiện chủ trương xây dựng ba tầng mặt trận của Đảng,
đại đoàn kết dân tộc trong nước, đoàn kết với nhân dân Đông Dương và nhân dân thế giới
cùng chống đế quốc Mỹ xâm
lược.
-Nghiên cứu vai trò của Mặt trận D
TGPMNVN trong quá trình xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân, động viên lực lượng tham gia Quân giải phóng miền Nam, tham gia
xây dựng lực lượng dân quân du kích địa phương, xây dựng các căn cứ địa cách mạng.
Từ những hoạt động thực tiễn của Mặt trận rút ra những bài học kinh nghiệm
cho việc
phát huy vai trò của Mặt trận trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện
nay .
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiê
n cứu, tác giả sử dụng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài .



Hai phương pháp chủ yếu sử dụng để nghiên cứu và trình bày nội dung của đề tài là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên
cứu các hoạt động của Mặt trận thông qua tư liệu, báo chí, các văn kiện, nghị quyết của
Đảng, của Mặt trận, thông qua hồi ký các nhân chứng lịch sử. Phương pháp logic được sử
dụng để nghiên cứu vai trò của Mặt trận đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ, đối với cách
mạng dâ
n tộc dân chủ ở miền Nam.
Bên cạnh hai phương phá
p trên, phương pháp phân tích logic biện chứng, phương pháp
so sánh cũng được sử dụng.
Để có cái nhìn toàn diện về các họat động của Mặt trận Dâ
n tộc giải phóng, luận văn
cố gắng trình bày các hoạt động của Mặt trận theo hai giai đoạn lịch sử: giai đoạn chống
“chiến tranh đặc biệt” và giai đoạn chống “chiến tranh cục bộ”. Trong mỗi giai đoạn, tách
riêng các lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao để có
điều kiện nghiên cứu sâu.
  


CHƯƠNG 1
.
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG

MIỀN
NAM VIỆT NAM RA ĐỜI


1.1.Hoàn cảnh quốc tế

1.1.1.Chiến tranh lạnh và âm mưu của Mỹ
Sau c
hiến tranh thế giới thứ hai, tình hình quan hệ quốc tế có nhiều thay đổi. Trên thế
giới hình thành một trật tự thế giới mới: “Trật tự hai cực ”, thế giới chia thành hai phe. Tất
cả các nước trên thế giới dù lớn hay nhỏ đều bị cuốn vào cuộc “chiến tranh lạnh”.
Thá
ng 3- 1947, Tổng thống Mỹ, Truman đã đọc diễn văn trước Quốc hội Mỹ, chín
h
thức đưa ra “ Chủ thuyết Truman”. Theo Truman thì các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng
sản thôn tính” và những đe doạ tương tự đang diễn ra trên nhiều nước khác ở châu Âu, ở
Italia, ở Pháp và cả ở nước Đức nữa. Vì vậy, Mỹ phải đứng ra “đảm nhiệm lãnh đạo thế giới
tự do ”, phải “giúp đỡ” cho các dân tộc trên thế giới chống lại “sự đe doạ ” của chủ nghĩa
cộng sản, c
hống lại sự “bành trướng” của nước Liên Xô, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh
tế, quân sự. Tổng thống Mỹ Truman đã phát động cuộc “chiến tranh lạnh” chống Liên Xô
và các nước XHCN.
Đầu những năm
1950, do còn độc quyền nắm giữ ưu thế vũ khí hạt nhân, với tham
vọng bá chủ thế giới, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược toàn cầu “Trả đủa ồ ạt “. Mục tiêu
của chiến lược là : “Dùng vũ khí hạt nhân làm chiếc ô che chắn để bảo vệ chế độ tay sai của
Mỹ, sẵn sàng đánh trả ồ ạt thẳng vào các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết là
L
iên Xô mà Mỹ coi là nguồn gốc của phong trào cách mạng và chiến tranh cách mạng trên
thế giới ”[15]. Chổ dựa cơ bản cho việc thực h
iện mục tiêu chiến lược trên được xác định là
: “lực lượng quân sự Mỹ, chủ yếu là lực lượng hạt nhân chiến lược, và hệ thống liên minh
quân sự của Mỹ với các nước đồng minh, đặc biệt là tuyến căn cứ tiền tiêu ở xa nước Mỹ ”
[15].
Với 800 căn cứ quân sự được thà
nh lập ở 35 nước và khu vực hải ngoại, Mỹ hy vọng

tạo đư
ợc những bàn đạp tiếp cận để bao vây, tiến công Liên Xô và các nước XHCN khác.
Đồng thời, với hơn 2 tỷ đôla viện trợ kinh tế và 3 tỷ đôla viện trợ quân sự cho các nước
đồng minh hàng năm, Mỹ không chỉ muốn duy trì, mở rộng sự hiện diện các căn cứ quân sự
của mình ở nước ngoài, mà còn nhằm “cột chặt ” chính phủ các nước nhận viện trợ và
o cổ
xe chạy đua vũ trang, tiến hành chiến tranh xâm lược của Mỹ.


Mặc dù vậy, thực tế tình hình trên thế giới lại diễn ra trái với toan tính của Mỹ.
Tháng 10 -1949 cách mạng Trung Quốc thành công. Tháng 7- 1953, Mỹ phải chấp nhận ký
hiệp định chấm dứt chiến tranh Triều Tiên. Tháng 7- 1958, cách mạng Irắc bùng nổ và
tuyên bố rút khỏi khối xâm lược Batđa, gạt bỏ chủ nghĩa Eisenhower. Tháng 1- 1959, cách
mạng Cu Ba thắng lợi. Năm 1960, 17 nước châu Phi giành được độc lập ở những mức độ
khác nhau. Cũng trong khoảng thời gian nầy, so sánh lực lượng giữa Mỹ v
à Liên Xô cũng
dần dần thay đổi. Liên Xô không những đã chế tạo được một số máy bay ném bom chiến
lược, máy bay chiến đấu đánh chặn phản lực tối tân, nhiều loại tên lửa phòng không hiện
đại, mà còn sản xuất được các loại tên lửa tầm gần, tầm trung. Đặc biệt, tháng 10-1957,
phóng thành công vệ tinh nhân tạo, một tháng sau đó bắn thử nghiệm thành công tên lửa
vượt đại châu. Tất cả những sự kiện trên đã “đánh đòn choáng váng, làm chấn động, hoang
m
ang chính giới Mỹ ” [28].
1.1.2. Âm mưu của Mỹ ở Đông Nam Á
Trong những năm
1953 – 1954 cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bước sang
giai đoạn phản công ở khắp các chiến trường, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp
càng đánh càng thua. Vì thế, Pháp buộc phải tiến hành thương lượng.
Do đề nghị của Liên Xô, Hội nghị Giơnevơ về Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông
Dương đã đư

ợc triệu tập ngày 26-4-1954. Mỹ buộc phải đến dự hội nghị nhưng từ đầu đến
cuối đã cố tình tìm cách phá hoại hội nghị.
Sau khi thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã tăng cường ca
n thiệp vào Đông
Dương. Âm mưu của Mỹ nhằm dần dần hất cẳng Pháp, biến các nước Đông Dương thành
thuộc địa kiểu mới của Mỹ, đàn áp các phong trào dân tộc dâ
n chủ của nhân dân các nước
Đông Dương, lấy Đông Dương làm chổ dựa để khống chế các nước Đông Nam Á và làm
bàn đạp để tấn công Trung Quốc. Mặt khác, Mỹ còn tìm cách kéo dài và mở rộng chiến
tranh để thay thế cho chiến tranh Triều Tiên và giải quyết nguy cơ khủng hoảng đang đe doạ
nền kinh tế Mỹ.
Khi quâ
n đội Pháp bị xiết chặt vòng vây ở Điện Biên Phủ và gặp rất nhiều khó khăn
thì Mỹ càng tích cực lợi dụng thời cơ xông vào để nắm lấy Đông Dương.
Mỹ đã dùng áp lực
buộc pháp phải “trao trả độc lập” cho ba nước Đông Dương để Mỹ trực tiếp nắm lấy các
nước nầy mà không qua Pháp. Mỹ đã tích cực chuẩn bị lực lượng hải quân và không quân
trực tiếp can thiệp vào Đông Dương.


Khi quân đội Pháp gần bị thất thủ ở Điện Biên Phủ, Mỹ càng tích cực hơn nữa để
quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương. Mỹ hứa với Pháp sẽ sử dụng các lực lượng không
quân Mỹ để “cứu nguy ”cho Điện Biên Phủ, thậm chí còn có ý định dùng bom nguyên tử
chiến thuật trong những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Mặt khác, tại Hội nghị Giơnevơ, Mỹ đã tìm mọi cách phá hoại. Ngày 16-5, Ngoại
trưởng Mỹ Đa- lét bỏ hội nghị ra về. Tổng thống Mỹ Eis
enhower đã chỉ thị cho Bơđin Smit
tích cực phá hoại để nhanh chóng chấm dứt hội đàm ở Giơnevơ.
Hội nghị Giơne
vơ đã tiến triển ngoài ý muốn của Mỹ. Ngày 7-5-1954, chiến dịch

Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi của quân đội Việt Nam. Ngày 12-6-1954, chính phủ
Lanien Biđô bị lật đổ v
à phái chủ hoà do Măng đét Phrăngxơ cầm đầu đứng ra lập chính
phủ mới. Ngày 21-7-1954, Hiệp nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương được ký kết ( Mỹ
ngoan cố không chịu ký ). Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc với sự thắng lợi to lớn của nhân
dân Việt N
am và nhân dân Đông Dương. Với thắng lợi nầy, miền Bắc đã được hoàn toàn
giải phóng và bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà sau nầy.
Một ngày sau khi hiệp định Giơne
vơ được ký kết, Tổng thống Mỹ Eisenhower tuyên
bố Hoa Kỳ không bị ràng buộc vào những quyết định của Hội nghị Giơnevơ.
Đối với Việt Nam, từ rất sớm Mỹ đã nhận rõ đây
là một vị trí quan trọng, là tiền đồn
của phe XHCN, đồng thời là “nền tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á’”. Theo học
thuyết Domino, nếu “làn sóng đỏ “ tràn vào Việt Nam, quân cờ đầu tiên sụp đổ, thì các nước
Đông Nam Á đều ngã về phe của Liên Xô, vì thế Mỹ không thể bỏ rơi khu vực nầy.
Sau khi đã tăng cường viện trợ quân sự cho thực dân Pháp tới 2,6 tỷ đôla (1950 -
1954 ), nhưng không ngăn được sự thất bại của quân đội Pháp ở Đông Dương, Mỹ đã
chuyển hướng xác định: Điều cơ bản đầu tiên là vạch ra một đường ranh giới mà cộng sản
sẽ không vượt qua, rồi sau đó giữ vững vùng nầy và đấu tranh bằng cách viện trợ kinh tế và
xây dựng một lực lượng quân sự mạnh, từng bước thiết lập chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam Việt Nam.
Thá
ng 8/1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra ba chính sách lớn:
“Kinh tế : Đẩy P
háp ra khỏi các đòn bẩy chỉ huy, thống nhất chương trình cải cách
ruộng đất và định cư dân di cư, cộng tác với Pháp nhưng “khuyến khích ” cho chuyển giao
chức năng kiểm soát về tài chính, hành chính, kinh tế cho người Việt Nam. Giao viện trợ
trực tiếp cho người Việt Nam

không thông qua Pháp.


Quân sự: Chỉ cộng tác với Pháp ở mức cần thiết để xây dựng lại lực lượng quân sự
bản xứ có thể bảo đảm an ninh nội bộ.
Chí
nh trị: Pháp phải trao quyền độc lập hoàn toàn cho Nam Việt Nam ( kể cả quyền
rút khỏi Liên hiệp Pháp ), và phải ủng hộ một chính phủ bản xứ mạnh. Diệm phải mở rộng
cơ sở chính phủ, bầu ra quốc hội, thảo hiến phá
p và phế truất Bảo Đại một cách hợp pháp,
cần có sự ủng hộ của Pháp trong các chính sách nầy…
Ngà
y 8/9/1954, Mỹ lôi kéo các nước đồng minh Anh, Pháp, Oxtrâylia, Thái Lan,
Philippin và Pakistan ký Hiệp ước Manila ( Philippin ) thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á (SEATO) đặt Việt Nam, Lào, Campuchia dưới sự bảo trợ của tổ chức nầy. Nói là
Đông Nam Á nhưng chỉ có hai nước Thái Lan và Philippin là thuộc Đông Nam Á. Thực
chất SEATO là liên minh chống cộng khu vực nằm
trong hệ thống các tổ chức quân sự của
Mỹ trong thời kỳ thế giới phân chia thành hai cực, nhằm làm chỗ dựa cho Mỹ xâm lược
Việt Nam.
Ngày 24/10/1954, Eisenhower gửi thư cho Ngô Đì
nh Diệm tuyên bố Mỹ viện trợ
kinh tế và quân sự trực tiếp, không đòi hỏi Việt Nam phải có những hành động đáp lại sự
viện trợ nầy [29].
Ngà
y 8/11/1954, tướng J.Lewton Collins đến Việt Nam. Ông được giao quyền lực
rộng để điều phối toàn bộ chương trình của Mỹ. Sau đó ngày 17/
11/1954, ông được cử làm
đại sứ ở Sài Gòn.
Tướng Collins đề ra kế hoạch sáu điểm

[75, tr.53] nhằm thay chân Pháp, phá hiệp định
Giơnevơ và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ:
- Bảo trợ chính quyền Diệm, v
iện trợ trực tiếp cho chính phủ Sài Gòn.
- Xây dựng “Quân đội quốc gia Việt Nam ”gồm
15 vạn do Mỹ huấn luyện và trang bị.
- Bầu cử quốc hội, hợp phá
p hoá chính quyền Sài Gòn.
- Định cư cho số Công giáo miền Bắc di cư và vạch kế hoạch cải cách điền địa.
- Thay đổi chế độ thuế khoá, dà
nh ưu tiên cho hàng Mỹ vào miền Nam.
- Đào tạo c
án bộ hành chính.
Phá
p muốn duy trì ảnh hưởng của mình ở Việt Nam và Đông Dương thì cần phải có
sự viện trợ của Mỹ, trong khi Mỹ lại có tham vọng là thay thế Phá
p, nắm lấy Nam Việt Nam
với chiêu bài ngăn chặn phong trào cộng sản phát triển xuống cả Đông Nam Á. Trong khi
đó, tình thế nước Pháp ở chính quốc nền kinh tế kiệt quệ , chính trị rối ren, nội bộ chia rẽ,


lại phải đối phó với cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Angiêry. Chính phủ Pháp
đành phải nhượng bộ Mỹ, rút quân khỏi Việt Nam .
Ngày 13/12/1954 tướng Ê-ly ( Paul Ely ), tổng tư lệnh quâ
n viễn chinh Pháp thoả
thuận với tướng Collins trao lại quyền tự trị hoàn toàn cho “Quân đội quốc gia ” vào tháng
5/1955 để Mỹ huấn luyện và xây dựng lại theo phương hướng của Mỹ. Cùng thời gian đó,
Pháp ký với Ngô Đình Diệm trao trả chủ quyền hoàn toàn cho Diệm. Từ đó, Diệm
tuyên bố
xoá bỏ luôn các hiệp định về kinh tế, tài chính đã ký với Pháp trước đó, buộc Pháp phải giao

ngân hàng hối đoái và tiền tệ cho Diệm, từ bỏ mọi đặc quyền ưu tiên, chuyển giao khu vực
đồng Phơ- răng sang đồng Đô-la .
Ngà
y 2/6/1955, Mỹ đã cho triển khai Phái bộ trang bị và cung cấp TERM
(Temporary equipment recovery mission) tại miền Nam khi Pháp chưa rút hết quân.
Cuối tháng 4/1956, đơn vị cuối cùng của quân đội Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam .
Ngày 14/05/1956, Pháp gởi c
ho hai đồng chủ tịch Hội nghị Giơnevơ là Liên Xô và
Anh thông báo quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 24/08/1956 nước Pháp
không còn trách nhiệm thực hiện Hiệp định Giơnevơ nữa. Pháp đã rũ bỏ trách nhiệm của
một bên phải thực hiện các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương [29, tr.295-
296]
.
Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp về danh nghĩa của P
háp-Mỹ (TRIM ) trước đây
chuyển thành Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân CATO ( Combat army training
organisation ) gồm toàn người Mỹ. Cả hai tổ chức CATO và TERM đều đặt dưới quyền chỉ
huy của Phái đoàn Cố vấn và viện trợ quân sự MAAG (Military Assistance and Advisory
Group ). Từ đây MAAG chi phối mọi hoạt động quân sự của ngụy. Về sau MAAG đổi
thành Bộ chỉ huy viện trợ quâ
n sự ở Việt Nam MACV ( Military Assistance Command in
Vietnam ) [70].
1.2.Hoàn cảnh trong nước
1.2.1. Miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ
Sau khi Li
ên hiệp Pháp rút khỏi Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và ta hoàn thành
chuyển quân tập kết, miền Bắc Việt Nam với thủ đô là Hà Nội thuộc quyền quản lý của
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Miền Bắc trở thành hậu phương cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta ở tiền tuyền miền Nam. Không có hậu phương vững mạnh thì tiền
tuyến không thể ch

iến thắng kẻ thù. Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch ngay từ đầu đã xác
định miền Bắc là nền tảng của cuộc đấu tranh của cả nước. Hội nghị Trung ương Đảng lần


thứ 8 ( khoá II) đã chỉ rõ:”điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững
và đẩy mạnh cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam”. Vì vậy, miền Bắc đã tiến
hành nhiều kế hoạch củng cố và xây dựng kinh tế, quốc phòng [75].
- Hoàn thành cải cách ruộng đất- Khôi phục kinh tế (1955- 1957).
Hội nghị Trung ương Đảng lần t
hứ 7 mở rộng đã quyết nghị: “Để củng cố miền Bắc,
trước hết cần hoàn t
hành cải cách ruộng đất… vì có đẩy mạnh cải cách ruộng đất mới đoàn
kết được đại đa số nhân dân, củng cố được liên minh công nông, củng cố vai trò lãnh đạo
của Đảng, mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện tăng
cường quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng…”
Công cuộc cải cách ruộng đất được tiến hà
nh 5 đợt, tiến hành trong hơn 3.000 xã
thuộc 22 tỉnh. Hàng vạn cán bộ, bộ đội được huy động về nông thôn tham gia các đoàn, đội
vận động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất.
Nhà nước tập trung nguồn vốn, huy động lực lượng khôi phục đê điều, sửa chữa và
làm mới các công trình thuỷ lợi, tu bổ hơn 3.000 km
đê diều bị phá hoại trong chiến tranh,
xây dựng một số công trình tưới tiêu, đào mương, khơi ngòi, khai hoa
ng, phục hoá .
Được sự khuyến khíc
h, giúp đỡ của nhà nước và nhờ sức sản xuất được giải phóng
khỏi quan hệ sản xuất cũ, nông nghiệp miền Bắc trong 3 năm ( 1955- 1957) đã được khôi
phục và có bước phát triển về cả diện tích và năng suất, cả trồng trọt, chăn nuôi và nghề
phụ. Sau ba năm
, nông thôn miền Bắc đã được hồi sinh, khởi sắc.

Về công nghiệp, hầu hết các nhà m
áy ở miền Bắc đều bị địch phá hủy hoặc mang đi.
Đảng và nhà nước đã nhanh chóng khôi phục các cơ sở sản xuất, tập trung xây dựng một số
ngành phục vụ dân sinh như sản xuất vải, giấy, xà phòng…Xây dựng và mở rộng các cơ sở
sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu thiết yếu đời sống của nhân dân như nhà m
áy chè
Phú Thọ, diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long…Các nước xã hội chủ nghĩa như Liên
Xô, Trung Quốc đã tích cực giúp đỡ vốn, kĩ thuật, chuyên gia.
Kết quả, có nhiều nhà m
áy, xí nghiệp được xây mới, tổng sản lượng công- nông
nghiệp 1,5% năm 1954 lên 24 % năm 1957. Sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp năm
1957 đạt mức năm 1939.
- Cải tạo và phát triển kinh tế- văn hoá (1958- 1960).
Thá
ng 4-1958 trong kỳ họp Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: miền Bắc nước
ta từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng XHCN. Nhiệm vụ trước
mắt của toàn dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên xây


dựng CNXH, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng nước Việt
Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Tháng 11-1958, Hội nghị lần t
hứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)
quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên miền Bắc tiến hành 3 năm cải tạo
và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hoá (1958- 1960) với 3 nhiệm vụ cơ bản:
Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp
làm
khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời rất chú trọng sản
xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu sản xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu
dùng.

Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh
theo CNXH, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển
và củng cố thành phần kinh tế quốc doa
nh. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao thêm
một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tăng
cường củng cố quốc phòng.
Để cải tạo phát triển nông nghiệp, Đảng và
nhà nước chủ trương tiến hành cuộc vận
động hợp tác hoá nông nghiệp, coi đó là con đường đưa
nông dân miền Bắc đến ấm no hạnh
phúc. Nội dung cuộc vận động gồm ba mặt: cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo
dục tư tưởng. Nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là : tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ.
Chính phủ đã ban hà
nh nhiều chính sách để hỗ trợ cho nông dân và tạo điều kiện cho
hợp tác xã phát huy tính hơn hẳn so với sản xuất cá thể như: chính sách tín dụng góp vốn
cho hợp tác xã phát triển sản xuất, chính sách mậu dịch ưu tiên m
ua hàng, bán hàng cho hợp
tác xã, chính sách thuế nông nghiệp đối với hợp tác xã, chính sách khuyến khích hợp tác xã
phát triển nghề phụ …
Với sự nổ lực của toàn Đảng, toà
n dân việc cải tạo nông nghiệp tiến hành thuận lợi.
Đến tháng 11-1960, hợp tác xã hình thành hầu khắp nông thôn miền Bắc với 41.401 hợp tác
xã chiếm 86% tổng số hộ và 76% diện tích đất canh tác .
Bên cạnh hợp tác xã, nhà nước tiếp thu các
đồn điền của thực dân Pháp và những
Việt gian bỏ lại, thành lập 15 nông trường quốc doanh, quân đội thực hiện nhiệm vụ khai
hoang thành lập được 29 nông trường quân đội, cán bộ miền Nam tập kết tổ chức 10 liên
đoàn sản xuất nông nghiệp. Phần lớn các nông trường phân bố trên những khu vực kết hợp
được cả kinh tế và quốc phòng.



Cuối năm 1960, hợp tác hoá căn bản hoàn thành tạo điều kiện cho sản xuất nông
nghiệp phát triển, tổng sản lượng lương thực đạt mức 6 triệu tấn, giá trị sản lượng nông
nghiệp hàng năm tăng bình quân 5,6%, góp phần vào công cuộc kiến thiết miền Bắc và sẵn
sàng chi viện nhân tài, vật lực cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Sau 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, nền công nghiệp non trẻ ở miền Bắc đã có
bước phát triển về nhiều mặt. Giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị kinh tế quốc
dân tăng từ 31,
4% năm 1957 lên 41% năm 1960, tỷ trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản
xuất 23,5% tăng lên 32,5%, công nghiệp hiện đại từ 12,8% lên 23,7%. Đặc biệt thời kỳ nầy
công nghiệp quốc doanh tăng mạnh, từ 67% lên 90% ( không kể tiểu thủ c
ông nghiệp)
thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp cho đất nước một khối
lượng sản phẩm quan trọng, trong đó có những sản phẩm trước đây phải nhập từ nước ngoài
với giá đắt.
Hoạt động tài chính, ngân hàng, ngoại thương do nhà nước độc quyền quản lý, điều
hành đã phục vụ đắc lực cho công cuộc xâ
y dựng miền Bắc.
Hệ thống giáo dục hình thành trong ba năm
khôi phục kinh tế, đến đây được củng cố,
phát triển, bao gồm các nhà trường phổ thông (3 cấp), các trường bổ túc công nông, các
trường đại học, trung học chuyên nghiệp đưa tổng số trường đại học miền Bắc lên 8 trường
với 50 ngành học.
Trên nền tảng của những biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục,
miền Bắc tập trung xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Nền văn hoá kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại đang từng bước hình thành. Đó là nền văn hoá yêu nước, yêu nhân
dân lao động, yêu đồng chí, đồng bào, yêu thương miền Nam đang chịu nhiều thương đau,
lòng căm thù giặc.
Mạng lưới y tế bảo vệ sức khoẻ nhâ
n dân phát triển nhanh chóng, hình thành rộng

khắp. Đến năm
1960, toàn miền Bắc đã có 263 bệnh viện, 3.000 trạm y tế, nhà hộ sinh. Các
dịch bệnh được tích cực phòng trừ, phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh trong các
trường học, các đơn vị quân đội góp phần nâng cao sức khoẻ và ý thức quốc phòng trong
nhân dân.
- Củng cố chính quyền- Xây dựng quâ
n đội.
Để củng cố chính quyền, việc nâng cao sức mạnh và khả năng lãnh đạo của Đảng có
ý nghĩa quyết định. Đảng đặc biệt coi trọng việc xâ
y dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức. Về
tư tưởng thời kỳ nầy Đảng coi trọng công tác lý luận. Về tổ chức coi trọng việc chỉnh đốn tổ


chức Đảng, kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng, tích cực sửa đổi lề lối làm việc và phương
pháp lãnh đạo, đi sát thực tế, gắn bó mật thiết với nhân dân, đẩy mạnh phê bình và tự phê
bình, mở rộng dân chủ nội bộ. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng ( khoá II ) chủ
trương: “Mạnh dạn cất nhắc cán bộ, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ công, nông một cách
thường xuyên trong công tác hàng ngày; lựa chọn cán bộ c
ho thích hợp với từng công tác,
tập trung lực lượng, bố trí cán bộ để đảm bảo thực hiện chu đáo những công tác chính trị.
Thực hiện về thống nhất quản lý cán bộ. Cần lập Ban Kiểm tra Trung ương, và ngành nào
cũng phải tổ chức việc kiểm tra của mình để kiểm tra một cách có trọng điểm việc thi hành
những chính sách của Đảng và chính phủ”.
Đảng lựa chọn và bổ nhiệm các Đảng viê
n vào các chức vụ quan trọng của bộ máy
Nhà nước và các cấp chính quyền. Đảng thông qua các tổ chức đảng đoàn ở Hội đồng Chính
phủ và các cơ quan, bộ máy khác của Nhà nước, của Mặt trận để thực hiện sự lãnh đạo của
mình. Chuyển sang thời bình, đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng phải nâng cao năng lực lãnh
đạo về kinh tế. Do đó các cấp uỷ viên các cấp và cá
n bộ của Đảng được học tập chính sách

kinh tế, tài chính và nghiệp vụ ở trong và ngoài nước.
Các Uỷ ba
n kháng chiến- hành chính trong kháng chiến từ tháng 9-1954 được đổi
thành Uỷ ban hành chính. Hệ thống chính quyền địa phương các cấp được chỉnh đốn một
bước trong những năm đầu hoà bình lập lại. Từ tháng 7-1957, các địa phương ở miền Bắc
tiến hành bầu cử Hội đồng nhâ
n dân các cấp và sau đó cử ra Uỷ ban hành chính các cấp.
Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc họp từ ngày 5 đến ngà
y 15-9-1955 tại
Hà Nội quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã bầu ra Uỷ ban Trung
ương do đồng chí Tôn Đức Thắng làm chủ tịch, Đại hội thông qua Tuyên ngôn và Cương
lĩnh Mặt trận thể hiện nguyện vọng, ý chí của mọi người Việt Nam yêu nước là đại đoàn kết
để hoàn thành sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh.
Ngà
y 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thi hành Hiến pháp mới. Tháng 5-
1960, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá II được tiến hành trên toàn miền Bắc, các đại
biểu miền Nam trong Quốc hội khoá I được lưu nhiệm.
Kỳ họp Q
uốc hội khoá II đã bầu Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Chủ tịch Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân
dân tối cao…


Về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954
đã chỉ rõ: Quân đội nhân dân là cột trụ chủ yếu nhất, chắc chắn nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ hoà bình. Vì vậy phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một đội quân cách mạng, chính
quy, tương đối hiện đại.
Những năm

kháng chiến, bộ đội ta phân tán, chiến đấu trên các chiến trường nên biên
chế, tổ chức, trang bị, điều lệnh của bộ đội thiếu thống nhất. Vì vậy, trong khi toàn Đảng
toàn dân ra sức khắc phục hậu quả chiến tra
nh, từng bước ổn định tình hình, giúp nhân dân
địa phương tháo gỡ bom mìn, phục hồi sản xuất, quân đội gấp rút chấn chỉnh mọi mặt.
Các đại đoàn trong kháng chiến đổi thành các sư đoà
n bộ binh. Bộ đội miền Nam tập
kết, bộ đội tình nguyện ở Là
o và Campuchia và một số đơn vị chủ lực khu, bộ đội địa
phương tỉnh, huyện trên miền Bắc biên chế thành 8 sư đoàn và 5 trung đoàn bộ binh. Lực
lượng pháo binh biên chế thành 3 sư đoàn, lực lượng phòng không biên chế thành một sư
đoàn cao xạ. Các đơn vị chủ lực địa phương ven biển xây dựng thành 5 trung đoàn, 1 tiểu
đoàn phòng thủ ven biển. Bộ đội địa phương các tỉnh biên giới chuyển thành các tiểu đoà
n
bộ đội biên phòng. Bộ đội địa phương các tỉnh Quảng Bình, Hà Tỉnh, Ninh Bình, Bắc
Giang, Thái Nguyên,Tuyên Quang, Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai
Châu biên chế thành 10 tiểu đoàn. 7 đại đội và 15 trung đội làm nhiệm vụ bảo vệ nội địa.
Thá
ng 3-1958, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất tổ chức biên chế, trang bị của
lục quân và các đơn vị không quân, hải quâ
n.
Bên cạnh bộ binh, các binh chủng phá
o binh, phòng không, công binh, thông tin, vận
tải, phòng hoá được biên chế thành các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội.
Ngà
y 31-12-1959, Quốc hội chính thức thông qua Luật Nghĩa vụ quân sự thay cho
chế độ tòng quân tình nguyện trước đó.
Như vậy, t
rong gần sáu năm xây dựng, khắc phục những khó khăn, nhân dân miền
Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã khôi

phục kinh tế, cải tạo XH
CN đối với công nghiệp và nông nghiệp đưa miền Bắc phát triển
một bước quan trọng. Kinh tế ổn định, đời sống văn hoá được nâng cao, Quân đội nhân dân
được củng cố vững chắc. Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững mạnh của cả nước, chổ dựa
vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở miền N
am [27],[40],[48].
1.2.2.Chính sách áp bức của chế độ Mỹ- Diệm
Ngà
y 7-7-1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm
về nước và buộc Pháp đặt làm Thủ tướng thay cho Bửu Lộc vốn là tay sai của Pháp.


Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, quân đội và chính quyền ta chuyển quân ra phía Bắc
vĩ tuyến 17, lực lượng Liên hiệp Pháp chuyển vào phía Nam vĩ tuyến 17. Lợi dụng cơ hội
nầy Mỹ tiến hành thay chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới
của Mỹ.
Tháng 7/1955 theo sự chỉ huy của Mỹ, Bộ Quốc phòng ngụy đề ra kế hoạch xây
dựng một đội quân chính quy 155.000 người và đội quân bảo an đoàn 52.000 người .
Về quâ
n sự huấn luyện cho “Quân đội quốc gia ”, Mỹ thực hiện phương châm
“nhanh chóng, toàn diện, chú trọng thực hành ”. Về chính trị tâm lý từng đợt mở chiến dịch
học tập “ bài Pháp, chống Cộng ”, đề cao danh hiệu “Quân đội quốc gia ”, mặc quân phục
kiểu Mỹ, dùng tiếng Việt, tiếng Mỹ thay tiếng Pháp. Khi bước vào cải tổ Mỹ cho đề bạt và
tăng lương hàng loạt, phong 4 cấp tướng, 20 đại tá, 60 trung tá, 5.600 sĩ qua
n và 27.000 hạ
sĩ quan, đưa sĩ quan đi đào tạo ở Mỹ [40].
Đến thá
ng 6/1956 Mỹ hoàn tất việc xây dựng :
Lục quân : có 4 sư đoà
n dã chiến, 6 sư đoàn khinh chiến, 13 trung đoàn địa phương,

5 trung đoàn giáo phái, 1 trung đoàn dù. Pháo binh có 7 tiểu đoàn và 9 đại đội. Cơ giới có 5
trung đoàn. Công binh có 6 tiểu đoàn, 14 đại đội. Vận tãi có 12 đại đội .
Không quân: máy bay chiến đấu có 100 chiếc, 132 chiếc dự trữ. Xây dựng 4 sân bay
lớn ở Phú Bài, Đà Nẵng, Nha Trang, Tân Sơn Nhất với hàng trăm máy bay chiến đấu, máy
bay lên thẳng, máy bay chuyên chở, xây dựng 58 sân bay nhỏ rãi rác ở khắp nơi.
Lực lượng hải quân có 121 tàu chiến trên sông, 25 tàu chiến trên biển, 96 tà
u của lực
lượng ở các căn cứ .
Lực lượng Bảo an đoà
n 60.000 tên, mỗi quận có 1 đến 2 đại đội. Lực lượng dân vệ
và phòng vệ dân sự được trang bị súng trường và lựu đạn, lực lượng công an, cảnh sát c
ó
mặt khắp nơi. Tổng cộng lực lượng bán vũ trang của Diệm lên đến trên dưới 30 vạn [40].
Ngà
y 23-10-1955, Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý ” dưới lưỡi lê của quân đội để
công dân lựa chọn hoặc Bảo Đại hoặc Ngô Đình Diệm là người đứng đầu quốc gia. Mặc dù
đa số công dân tẩy c
hay nhưng nhờ gian lận và người tổ chức trưng cầu dân ý ở các địa
phương là người của Diệm nên kết quả là 98% số phiếu ủng hộ Ngô Đình Diệm, Bảo Đại bị
phế truất, Ngô Đình Diệm tự xưng là Tổng thống Việt Nam cộng hoà.
Ngà
y 4-3-1956 Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử bầu ra quốc hội. Tháng 10-1956
Ngô Đình Diệm ban hành hiến pháp của “nền Đệ nhất Cộng hoà”. Mỹ và các nước đồng
m
inh của Mỹ lập tức công nhận chính quyền Ngô Đình Diệm là “hợp hiến, hợp pháp”.


Từ 1955 đến 1956, Diệm dùng “Quân lực Việt Nam cộng hoà” diệt các lực lượng vũ
trang giáo phái do Pháp xây dựng trước đây. Đến tháng 6-1956, lực lượng Cao Đài, Hoà
Hảo, Bình Xuyên lần lượt bị tiêu diệt.

Dưới sự gi
úp đỡ của Mỹ, Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương “Đả thực, bài phong,
diệt cộng”, lập ra đảng cầm quyền, thành lập “Mặt trận quốc gia” làm cơ sở cho chính
quyền của chúng.
Đến đây
, bộ máy, công cụ quân sự, chính trị cho một chính quyền tay sai để thực
hiện chủ nghĩa thực dân mới Mỹ nhằm xâm lược miền Nam Việt Nam coi như đã hoàn
chỉnh, vì chủ nghĩa thực dân mới cai trị “thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền
lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ ” giả hiệu ”
[12, tr.18].
Để củng cố chế độ độc tài gia đình trị, trong quá trình thực hiện những chủ trương
của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã thực hiện nhiều “quốc sách” nhằm mục đích chống lại cách
mạng, chống lại nhân dân, thực hiện âm mưu của Mỹ chia cắt lâu dài đất nước ta:
- Quốc sách “tố cộng , diệt cộng” [36]
, [40].
Từ thá
ng 5/ 1955 khi quân đội ta hoàn thành tập kết ra miền Bắc, Mỹ - Diệm c
ông bố
“tố cộng ,diệt cộng là quốc sách ”, phát động “chiến dịch tố cộng ” trên quy mô rộng lớn
toàn miền Nam.
Diệm th
ành lập “Hội đồng nhân dân chỉ đạo tố cộng ” gồm tất cả các bộ trưởng
trong chính phủ do Diệm làm chủ tịch danh dự và Trần Chánh Thành làm chủ tịch hội
đồng. Hội đồng chỉ định ra Uỷ ban chỉ đạo tố cộng trung ương, có ban thường trực gồm đại
biểu các bộ Thông ti
n, Công an, Quốc phòng. Nhiệm vụ của uỷ ban chỉ đạo nầy là trực tiếp
chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh, các cơ quan đào tạo cán bộ cho phong trào. Giúp việc
cho uỷ bàn này có các ban tuyên huấn, học tập, kiểm thảo, khai thác có sự phối hợp của các
cơ quan Công an, Công dân vụ, Dân vệ đoàn .
Mỗi tỉnh có một uỷ ban chỉ đạo tố cộng. Mỗi bộ có một uỷ ban chỉ đạo hàng dọc

xuống các cơ quan thuộc bộ mình. Thành phần uỷ ban chỉ đạo tỉnh giống như ở trung ương.
Thành phần ở cơ quan thì gồm đại biểu cơ quan và Liên đoàn lao động công chức của
“Phong trào cách mạng quốc gia ”.
Huyện, xã đều c
ó ủy ban chỉ đạo tố cộng của huyện, xã. Mỗi xã lại chia ra nhiều liên
gia tố cộng .


Mục đích của “chiến dịch tố cộng” được đặt ra là “gây uất hận trong dân chúng đối
với Việt Cộng”, để cho nhân dân tố giác Việt Cộng ở lại hoạt động, khủng bố tinh thần Việt
Cộng, làm cho Việt Cộng nghi ngờ quần chúng mà không dám hoạt động nữa, đánh lệch tư
tưởng của các phần tử lưng chừng còn hướng về cộng sản phải ngả hẳn về C
hính phủ quốc
gia .
Mục tiêu đề ra cho suốt quá trình thực hiện quốc sách tố cộng là: đánh trên diện rộng
ban đầu, sau đó đá
nh vào chiều sâu, đánh cả nông thôn và thành thị, trọng điểm nhằm vào
nơi có phong trào quần chúng mạnh, đánh vào đảng Cộng sản và đánh vào tổ chức đồng
thời đánh vào tư tưởng, tiêu diệt con người đi đôi với tiêu diệt tinh thần, ý c
hí. Tất cả để đạt
mục đích tối hậu là người cộng sản hoặc bị tiêu diệt hoặc phải thuần phục quốc gia, quần
chúng cách mạng hoặc chết hoặc trở thành người dân quốc gia .
Phương châm, khẩu hiệu là “từng bước, lâu dài nhưng ki
ên quyết và triệt để, tiêu diệt
nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên oán thù để thực hiện chủ nghĩa nhân vị quốc gia, giết lầm
còn hơn bỏ sót ”. Trọng tâm của c
húng là nhằm vào cán bộ, đảng viên và những vùng kháng
chiến cũ, những nơi có phong trào đấu tranh của nhân dân, đánh đi đánh lại nhiều lần tới khi
“triệt hạ được uy thế của cộng sản ”.
Từ tháng 5-1955 đến tháng 5- 1956, chiến dịch “tố cộng, diệt cộng ” giai đoạn I

đư
ợc tiến hành, trọng điểm là các tỉnh miền Trung, nội bộ cơ quan nguỵ quyền, đồng t
hời
triệt hạ cơ sở kinh tế của cộng sản và thanh trừng số cán bộ cầu an của chúng ở cơ sở xã .
Ngà
y 20 - 7-1956, Diệm công khai tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Giai đoạn II tiến hà
nh chiến dịch “tố cộng, diệt cộng ” trên toàn miền Nam, từ tháng
6 -1956 đến tháng 11- 1958 địch thực hiện 4 chiến dịch lớn càn quét các tỉnh m
iền Tây
Nam Bộ, miền Trung Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ và khu vực xung quanh Sài Gòn. Trong
khi đó tại các chiến trường Cực Nam Trung Bộ địch tiếp tục chiến dịch đi vào chiều sâu,
đánh “tận gốc” kết hợp với bắt lính xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố sư đoàn Nùng, tổ
chức bảo an, dân vệ, phát triển đạo giáo, mở chiến dịch vận động người Thượng, lập khu
dinh điền .
Biện phá
p và thủ đoạn địch áp dụng trong các chiến dịch “tố cộng” là bạo lực phản
cách mạng kết hợp lừa mị, lấy bạo lực phản cách mạng làm chính .
Lực lượng vũ trang ba
o gồm quân đội, cảnh sát, bảo an được sử dụng như lực lượng
xung kích mở đường, càn quét đánh phá cả ở nông thôn, thành thị và khu căn cứ, lùng sục
khắp ha
ng cùng ngõ hẻm, triệt hạ xóm làng, tiêu diệt cán bộ cơ sở, yểm trợ và làm lá chắn

×