Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Văn hóa VN Văn hóa nông nghiệp trồng lúa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.2 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Lý luận chung về văn hóa..........................................................................2
1.1. Khái niệm.............................................................................................2
1.2. Đặc trưng của văn hóa........................................................................2
1.3. Phân loại...............................................................................................4
2. Văn hóa Việt Nam – văn hóa nông nghiệp trồng lúa..............................4
2.1. Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên.....................................4
2.2. Về mặt nhận thức.................................................................................5
2.3. Về mặt tổ chức cộng đồng...................................................................6
3. Làng xã – thành tố quan trọng trong đặc trưng văn hóa Việt Nam......7
3.1. Về nguồn gốc hình thành....................................................................7
3.2. Về đặc điểm..........................................................................................8
KẾT LUẬN.........................................................................................................12

1


MỞ ĐẦU
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là tiêu chí
quan trọng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn
hóa của mỗi dân tộc dù phong phú, đa dạng đến đâu cũng đều có nguồn gốc xuất
phát từ một trong hai loại hình văn hóa: văn hóa gốc chăn nuôi du mục (phương
Tây) và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt (phương Đông).
Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông - Nam Châu Á, khí hậu nóng
ẩm mưa nhiều, có nhiều sông lớn và nhiều đồng bằng phù sa màu mỡ nên Việt
Nam là nơi rất thích hợp để phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Do đó, văn hóa
Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả
những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể


hiện rất rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam. Và làng xã là thành tố quan
trọng trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.

1


NỘI DUNG
1. Lý luận chung về văn hóa
1.1.

Khái niệm

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu
hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
1.2.

Đặc trưng của văn hóa

Trước hết, văn hóa phải có tính hệ thống.
Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện
những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa;
phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó. Nhờ có
tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt
độngcủa xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường
xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần
thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của
xã hội. Có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác
định khái niệm văn hoá (nền văn hóa).
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị.

Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Tính giá trị
cần để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó là thước đo mức
độ nhân bản của xã hội và con người. Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể
chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầuvật chất) và giá trị tinh thần
(phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng,
giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh
cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có
được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự
vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc
2


tán dương hết lời.Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá
trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận
một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương
quan giữa các mức độ "giá trị" và “phi giá trị" của nó. Về mặt lịch đại, cùng một
hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộcvào chuẩn mực văn hóa của
từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến,
vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư duy
biện chứng như thế. Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện
được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã
hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích
ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm
động lực cho sự phát triển của xã hội.
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh.
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội (do
con ngườisáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái
tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên
có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh thần (như
việc đặt tên, truyền thuyết cho cáccảnh quan thiên nhiên...). Như vậy, văn hóa

học không đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất nước học là giới thiệu
thiên nhiên - đất nước - con người. Đối tượng của nó bao gồm cả các giá trị tự
nhiên, và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này thì nó rộng hơn
văn hoá học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn đề đương
đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học. Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở
thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp
và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp
thì văn hóa là nội dung của nó.
Cuối cùng, văn hóa còn có tính lịch sử.

3


Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích
luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát
triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu;
nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại
các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống
văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) được
tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc
kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong
tục, tập quán. nghi lễ, luật pháp, dư luận...Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo
dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng
văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định
(truyền thống), mà hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà
văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách (trồng người).
Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục
của tịch sử: Nó là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho
các thế hệ mai sau.
1.3.


Phân loại

Do những đặc trưng về điều kiện khí hậu, tự nhiên đã hình thành nên những
phương thức sản xuất khác nhau, từ đó quy định các loại hình văn hóa khác
nhau.
Các nền văn hóa của mỗi dân tộc dù phong phú, đa dạng đến đâu cũng đều có
nguồn gốc xuất phát từ một trong hai loại hình văn hóa: văn hóa gốc chăn nuôi
du mục (chủ yếu ở phương Tây) và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt (chủ yếu
ở phương Đông).
2. Văn hóa Việt Nam – văn hóa nông nghiệp trồng lúa
Nền văn hóa Việt Nam mang đặc trưng rõ nét của một nền văn hóa nông
nghiệp trồng lúa. Tất cả những nét đặc trưng này đều được thể hiện rõ nét trong

4


cách tổ chức đời sống, phương thức tư duy, cũng như lối ứng xử của người Việt
Nam. Thật vậy:
2.1.

Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên

Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí
địa lí, tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu
nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong…
nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ là điều kiện thuận lợi để phát triển nông
nghiệp lúa nước. Chính vì vậy mà dân nông nghiệp nói chung và dân trồng lúa
nước nói riêng sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên.
Cư dân Việt Nam chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với

tự nhiên, do nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối
lớn lên, đơm hoa, kết trái và thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định, cho rằng
“An cư lạc nghiệp” . Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp
có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam
mở miệng ra là nói “ nhờ trời”, “lạy trời”… Các tín ngưỡng và lễ hội sùng bái tự
nhiên rất phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng đất nước.
Thái độ tôn trọng thiên nhiên của người Việt có cái hay là gìn giữ được môi
trường sống tự nhiên nhưng có cái dở là khiến con người trở nên rụt rè, e ngại
khi đối mặt với thiên nhiên, thiên tai.
2.2.

Về mặt nhận thức

Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc
vào nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,... “ trông trời, trông
đất, trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm…” nên về mặt nhận
thức, người dân trồng lúa Việt Nam hình thành nên lối tư duy tổng hợp - biện
chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay
không bằng tay quen… Người làm nông quan tâm không phải là từng yếu tố
5


riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa chúng. Lối tư duy tổng hợp và biện
chứng này làm cho sự chú ý bị phân tán, không có điều kiện cho việc hình thành
những ngành khoa học chuyên sâu, nhưng bù vào đó, nó lại là cơ sở cho việc
hình thành một nền đạo học. Vì ít được biện luận, chứng minh, nên tri thức đạo
học có nhược điểm là sức thuyết phục thấp, nhưng bù vào đó, nó bao giờ cũng
diễn đạt ngắn gọn, súc tích – tính thâm thúy của đạo học từ đó mà ra. Thêm vào
đó do được hình thành một cách tự nhiên (không bị giới hạn đối tượng) và được
kiểm chứng bằng kinh nghiệm ngàn đời nên tính đúng của tư tưởng đạo học

thường khá cao. Chính vì vậy mà tư tưởng phương Đông hàng ngàn đời ít có gì
thay đổi. Có khi, người ta cũng nói rằng Đạo học Ðông phương có tính cách siêu
hình. Trong trường hợp này, từ “siêu hình” được dùng theo một nghĩa khác,
không đối lập với khái niệm biện chứng: Nó chỉ lĩnh vực tâm linh, không nhận
thức trực tiếp được bằng các giác quan.
 Từ xa xưa đến nay, người Việt đã tích lũy được một kho kinh nghiệm hết
sức phong phú về các loại quan hệ như: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được
mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa; Chuồn chuồn bay thấp
thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…
2.3.

Về mặt tổ chức cộng đồng

Người Việt có lối sống cố định lâu dài nên tạo ra những mối quan hệ tình
cảm thân thiết, gắn bó, hình thành nên lối sống trọng tình. Nhưng cũng từ đây
hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội. Lối sống trọng tình cảm tất yếu
dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Trong ngôi nhà của người
Việt rất coi trọng gian bếp, thể hiện sự coi trọng phụ nữ. Người Việt coi: Nhất
vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà… Người phụ nữ cũng được xem là
người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu; Con
dại cái mang… Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa: Lá lành
đùm lá rách; Bầu ơi thương lấy bí cùng…; các quan hệ ứng xử thường đặt lý cao
hơn tình: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình…
6


Lối tư duy tổng hợp – biện chứng luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông
nghiệp trồng lúa cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đên lối sống linh hoạt,
luôn thay đổi để thích hợp với từng hoàn cảnh: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi
với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy; … Mặt trái của tính linh hoạt là

thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi
“cửa sau” để giải quyết công việc (Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế).
Vì sống theo tình cảm nên mọi người phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng,
dân chủ với nhau. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lý coi
trọng cộng đồng, coi trọng tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến
tập thể, luôn có tập thể sau lưng, xem nhẹ vai trò cá nhân: “Bán anh em xa mua
láng giềng gần”.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh
hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận và
mềm dẻo trong đối phó. Đối phó chiến tranh cũng vậy, người nông nghiệp luôn
thực hiện một cách mềm dẻo. Ở Việt Nam không những không bao giờ xảy ra
chiến tranh tôn giáo mà, ngược lại mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo,
Đạo giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo) đều được tiếp nhận và có chỗ đứng ở Việt
Nam. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược người Việt Nam luôn hết sức
mềm dẻo, hiếu hòa. Sở dĩ như vậy là vì tính dung hợp là sản phẩm của lối tư duy
tổng hợp, còn tính mềm dẻo là sản phẩm của lối sống linh hoạt và lối tư duy
biện chứng. Cả hai đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của lối sống thiên về tình cảm.
 Như vậy, các luận điểm đã chứng minh được rằng: Văn hóa Việt Nam là
văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước.
3. Làng xã – thành tố quan trọng trong đặc trưng văn hóa Việt Nam
Làng xã Việt Nam xuất hiện có thể coi là sản phẩm của nền nông nghiệp lúa
nước.
3.1.

Về nguồn gốc hình thành

7


Làng xã được thành lập dựa trên nguyên tắc: Nguyên lí cội nguồn và cùng

chỗ.
Vào thập kỷ 20 của thế kỉ XX, ở vùng châu thổ sông Hồng lại có hàng trăm
làng có dân số trên 3000 người. Sở dĩ ngụ cư ngày càng nhiều trong làng xã
sông Hồng mà chủ yếu là ven sông, ven biển là do những lý do chính sau đây:
Hợp tác để sử dụng nguồn nước, giải quyết các vấn đề về thủy lợi.
Hợp tác đổi công và bảo vệ ruộng đồng.
Hợp tác chống thiên tai, bão lũ.
Lý do chính, chế độ thừa kế.
 Chính do lối sống phụ thuộc vào thiên nhiên, cố định lâu dài, mối quan hệ
tình cảm thân thiết, gắn bó, lối sống trọng tình, bán anh em xa mua láng giềng
gần là nguyên nhân người dân nông nghiệp trồng lúa Việt Nam đoàn kết lại sống
thành làng xã để giúp đỡ nhau sinh sống.
3.2.

Về đặc điểm

Làng xã là một đơn vị cố kết cộng đồng tự quản:
Thứ nhất, về cảnh quan: Làng Việt xưa thường là một đơn vị cộng đồng tại
một vùng đất nhất định, họ cùng nhau làm ăn, sinh sống cố định trên mảnh đất
gọi là quê hương. Một làng thường được bao bọc bởi lũy tre xanh, thông thương
với bên ngoài bằng một cái cổng làng, đó là một không gian ngụ cư “nửa hở nửa
kín”. Bên trong làng, là một không gian thoáng mở, có thể nói là thân tình. Nhà
cửa các hộ gia đình thường được ngăn cách sơ sài với nhau. Đình làng, chùa,
miếu, miện, quán cầu, cây đa, giếng nước là những điểm giao tiếp cộng đồng.
Thứ hai, làng xã là đơn vị kinh tế của quốc gia: Thời xưa, kinh tế của những
làng thuần nông thường là kinh tế tự cung tự cấp. Phần lớn các hoạt động kinh tế
đều thực hiện ở quy mô làng.

8



Thứ ba, làng xã là đơn vị tín ngưỡng. Mỗi làng thường có chùa làng, đình
làng và có Thành Hoàng làng riêng.
Làng là một đơn vị cố kết và tự quản về mặt văn hóa tinh thần.
Tính ngưỡng phổ biến ở làng Bắc Bộ là tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng.
Đây được coi là vị thần bảo trợ cho cuộc sống của người dân làng. Hằng năm
vào dịp đầu xuân, các làng thường tổ chức hội làng để tưởng niệm người thành
lập nên làng của họ và những người có công trạng lớn làm rạng danh làng.
Quan hệ người làng xã với nhau: Người dân làng sống thân tình với nhau, ít
có đề phòng. Trong làng quê vốn tồn tại hai loại quan hệ huyết thống và địa vực.
Hai loại quan hệ này ở vùng châu thổ sông Hồng thường không tách biệt mà hòa
hợp với nhau. Hôn nhân cùng làng đã gắn bó thêm mối quan hệ làng xã. Quan
hệ giữa người làng với nhau rất mật thiết cũng có vị trí quan trọng trong sinh
hoạt con người. “Khi hòn đá đã đổ mồ hôi”, “Tắt đèn tối lửa” gia cảnh khó khăn
thì hàng xóm sẽ là điểm tựa giúp giải quyết khó khăn vì hàng xóm không chỉ là
người cùng địa vực mà còn có thể là anh em họ hàng sinh sống cùng nhau.
Người ta thường sống theo những phong tục tập quán cổ truyền mang tính
mềm dẻo (lệ làng), là đối trọng của phép nước mang tính cứng rắn.
Làng cũng có một không gian văn hóa riêng như: trẻ em của làng được giao
cho một thầy đồ được làng chu cấp. Trong năm người ta tổ chức những đám
rước tế, lễ hội, các bữa cỗ tập thể linh đình, các dịp khao vọng, cheo cưới những
dịp thu hút đông đảo dân làng, vừa nghiêm trang vừa vui vẻ.
Làng xã là một đất nước thu nhỏ: Ngoài những phong tục, lệ làng riêng,
những mối quan hệ đan xen phức tạp, làng còn có một tôn ti trật tự riêng. Làng
là một cộng đồng cố kết chặt chẽ nhưng không có nghĩa là bình đẳng mà cũng
có tôn ti trật tự riêng.
Trước hết là truyền thống trọng tuổi, người già thường được coi trọng hơn
người trẻ tuổi, càng già thì lời nói càng được coi trọng. Thời Lý Trần khi cộng
9



đồng dân cư làng xã còn thuần nhất, đó mới chỉ là một sự phân tầng tự nhiên,
theo thứ bậc tuổi tác. Những người cao tuổi được kính trọng hơn cả, được coi là
bề trên. Tuy nhiên từ thời Lê - Nguyễn,có một sự phân hóa xã hội vĩ mô diễn ra
trong làng xã ngày một mạnh do sự phân tầng xã hội quan liêu. Nội dung chế độ
ngôi thứ tôn ti có thay đổi tùy theo từng địa phương, làng xã. Nhìn chung có 3
loại tầng lớp dân cư chính trong làng xã như sau: Hạng quan viên chức sắc (tầng
lớp có uy quyền trong làng xã). Bộ phận kỳ mục (gồm các trưởng lão quan
viên), Hạng dân nội tịch (còn gọi là dân chính hộ,là những người chính thức
được thừa nhận là dân làng, có tên trong sổ tịch. Thành phần chủ yếu là các đinh
nam trong độ tuổi lao động), Hạng dân ngoại tịch (còn gọi là dân ngụ cư. Chủ
yếu là những người từ làng khác đến, sinh sống và làm ăn nhờ trên đất của làng
nhưng vẫn không có tên trong sổ tịch).
Như vậy cơ cấu quyền lực làng xã là quyền lực kép.
Mối quan hệ giữa làng và nước:
Vua Gia Long đã nói: “Nhà nước là góp làng xã lại mà thành. Muốn trị nước
thì phải sửa sang công việc của làng xã”. Làng xã vừa là đối trọng vừa là đối tác
của quốc gia.
Làng là một đơn vị mang quyền lực kép. Làng vừa có những thể chế riêng,
luật làng riêng, lại vừa bị giám sát bởi nhà nước. Nhìn chung trong quá trình lịch
sử ,các nhà nước phong kiến ngày càng tìm cách nắm lấy cộng đồng làng xã,
chủ yếu thông qua các việc quản lí ruộng đất và dân đinh bằng việc lập nên sổ
địa bạ và đinh bạ của từng làng…Trên cơ sở đó nhà nước coi dân làng là đơn vị
hành chính và kinh tế cấp cơ sở có những tư cách pháp nhân cộng đồng. Làng
Việt Nam xưa không chỉ phải tuân theo hương ước mà còn phải tuân theo luật
pháp của triều đình. Pháp luật thì dựa vào quyền lực của nhà nước, tính cưỡng
chế từ trên xuống còn hương ước thì nhận được sự chấp thuận rộng rãi của nhân
dân, tính cưỡng chế từ nội bộ. Tuy nhiên nhiều lúc dân ta có câu “phép vua thua
lệ làng”.
10



Nhìn chung làng xã vẫn là đơn vị trực thuộc nhà nước, là đơn vị kinh tế,
chính trị quan trọng. Ví dụ: trong thời kỳ kháng chiến làng xã là lực lượng hỗ trợ
quân binh, lương thực, phối hợp thực hiện các đường lối chống giặc như: vườn
không nhà trống, chống cọc trên sông Bạch Đằng…
=>Tóm lại làng xã dù bị ảnh hưởng bởi nhà nước nhưng vẫn có những quyền
lực riêng đối với dân làng.
Tuy nhiên vẫn có những thời điểm làng có sự chống đối lại với nước. Như đã
phân tích ở trên, làng có một sự cố kết chặt chẽ nên không dễ gì điều khiển được
làng nếu không phù hợp với quan niệm, tín ngưỡng của dân làng. Điều này có
thể thấy rõ trong thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc. Dù nhà nước phong kiến Trung
Quốc có ra sức áp đặt văn hóa, chữ viết Trung Hoa vào Việt Nam thì dân ta vẫn
giữ gìn được tiếng của người Việt.

11


KẾT LUẬN
Như vậy, qua các luận điểm trên, chúng ta có thể chứng minh rằng văn
hóa Việt Nam là văn hóa nông nghiệp trồng lúa. Và làng xã là thành tố quan
trọng trong đặc trưng văn hóa Việt.

12



×