Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

NGHIÊN CỨU ĐỔI MỚI QUY TRÌNH GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNGKHOÁNG SẢN PHÙ HỢP VỚI XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. ÁP DỤNG THỬ NGHIỆM TẠI MỘT SỐ VÙNG THAN QUẢNG NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.21 KB, 50 trang )

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

THUYẾT MINH ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU ĐỔI MỚI QUY TRÌNH GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG
KHOÁNG SẢN PHÙ HỢP VỚI XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
ÁP DỤNG THỬ NGHIỆM TẠI MỘT SỐ VÙNG THAN
QUẢNG NINH VÀ MỘT SỐ KHU VỰC KHAI THÁC ĐÁ VÔI
TẬP TRUNG TẠI HÀ NAM
Mã số: TNMT.2017.06.11
(Kèm theo Quyết định số 2524/QĐ-BTNMT ngày 18 tháng 10 năm 2017
của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường)


HÀ NỘI, NĂM 2017

1


BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

THUYẾT MINH ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU ĐỔI MỚI QUY TRÌNH GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG
KHOÁNG SẢN PHÙ HỢP VỚI XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
ÁP DỤNG THỬ NGHIỆM TẠI MỘT SỐ VÙNG THAN
QUẢNG NINH VÀ MỘT SỐ KHU VỰC KHAI THÁC ĐÁ VÔI
TẬP TRUNG TẠI HÀ NAM
Mã số: TNMT.2017.06.11
(Kèm theo Quyết định số 2524/QĐ-BTNMT ngày 18 tháng 10 năm 2017
của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường)



CƠ QUAN CHỦ TRÌ
TRUNG TÂM KIỂM ĐỊNH
VÀ CÔNG NGHỆ ĐỊA CHẤT

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

Ths. Trịnh Minh Cương

HÀ NỘI, NĂM 2017

2


PL2-TMNV.a

05/2015/TT-BTNMT

THUYẾT MINH
NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ
(Áp dụng đối với đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ )
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1

Tên đề tài:

1a Mã số (được cấp khi Hồ

trúng
tuyển):
Nghiên cứu đổi mới quy trình giám sát hoạt động

TNMT.2017.03.11
khoáng sản phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Áp
dụng thử nghiệm tại một số vùng than Quảng Ninh và
một số khu vực khai thác đá vôi tập trung tại Hà
Nam.

2

Thời gian thực hiện: 30 tháng
(Từ tháng 01/năm 2018 đến tháng 06 /năm 2020)

3

Tổng kinh phí thực hiện: 2.207 triệu đồng, trong đó:
Nguồn
- Từ Ngân sách sự nghiệp khoa học

Kinh phí (triệu đồng)
2.207

- Từ nguồn tự có của tổ chức
- Từ nguồn khác
4

Phương thức khoán chi:
Khoán đến sản phẩm cuối cùng

Khoán từng phần, trong đó:
- Kinh phí khoán:


1.740 triệu đồng

- Kinh phí không khoán: 467 triệu đồng
5
Thuộc Chương trình khoa học và công nghệ cấp Bộ: “Nghiên cứu khoa học
công nghệ nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về địa chất và khoáng sản; điều
tra cơ bản địa chất và đánh giá khoáng sản giai đoạn 2016 -2020”, Mã số:
TNMT.03/16-20
Độc lập
Khác
6

7

Lĩnh vực khoa học
Tự nhiên;

Khoa học xã hội và nhân văn

Kỹ thuật và công nghệ;

Khác.

Chủ nhiệm đề tài

3


Họ và tên: TRỊNH MINH CƯƠNG
Ngày, tháng, năm sinh:


tháng

năm 1960

Giới tính: Nam

/ Nữ:

Học hàm, học vị/ Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ khai thác mỏ
Chức danh khoa học: Thạc sĩ khai thác mỏ

Chức vụ: Cục trưởng

Điện thoại:
Tổ chức: 043.9336341
Fax: 043.9336338

Nhà riêng: .... 043.8247439...... Mobile: 0903292099
E-mail: :

Tên tổ chức đang công tác: Cục Kiểm soát hoạt động khoáng sản miền Bắc – Tổng cục Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam.
Địa chỉ tổ chức: số 6 phố Phạm Ngũ Lão - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Địa chỉ nhà riêng: số 7 phố Nhà Thờ - Hoàn Kiếm - Hà Nội
8

Thư ký đề tài
Họ và tên: Trần Minh Sơn
Ngày, tháng, năm sinh: 17 tháng 10 năm 1978


Nam/ Nữ: Nam

Học hàm, học vị/ Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức danh khoa học: Thư ký đề tài

Chức vụ: Trưởng phòng

Điện thoại: 0989099730
Tổ chức: ............................... Nhà riêng: ............................... Mobile: 0989099730
Fax: .................................................. E-mail:
Tên tổ chức đang công tác: Trung tâm Kiểm định và Công nghệ địa chất.
Địa chỉ tổ chức: số 6- Phạm Ngũ Lão, Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội
Địa chỉ nhà riêng: Số 2B ngách 24/133 ngõ 175 đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
9

Tổ chức chủ trì đề tài
Tên tổ chức chủ trì đề tài: Trung tâm Kiểm định công nghệ địa chất
Điện thoại: 04.38.242.538

Fax: 04.38.254.734

Website: ...........................................................................................................................
Địa chỉ: 6- Phạm Ngũ Lão, Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội
Họ và tên thủ trưởng tổ chức: Nguyễn Huy Phương
Số tài khoản: .....................................................................................................................
Kho bạc nhà nước/Ngân hàng: ..........................................................................................
Tên cơ quan chủ quản đề tài: Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam
10 Các tổ chức phối hợp chính thực hiện đề tài (nếu có)
1. Tổ chức 1: Cục Kiểm soát hoạt động Khoáng sản miền Bắc

Tên cơ quan chủ quản: Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam

4


Điện thoại: 04.39.336.341

Fax: 04.39.336.338

Địa chỉ: 6- Phạm Ngũ Lão, Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội
Họ và tên thủ trưởng tổ chức: Trịnh Minh Cương
Số tài khoản: ..................................................................................................................
Ngân hàng:......................................................................................................................
2. Tổ chức 2: Cục Kiểm soát hoạt động Khoáng sản miền Trung
Tên cơ quan chủ quản: Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam
Điện thoại: (84).0435771816/38726845......... Fax: (84).0435771855/38726847..........
Địa chỉ: Thành phố Đà Nẵng.
Họ và tên thủ trưởng tổ chức: Bùi Văn Đào
Số tài khoản: ....................................................................................................................
Ngân hàng: .......................................................................................................................
11

Các cán bộ thực hiện đề tài

(Ghi những người có đóng góp khoa học và chủ trì thực hiện những nội dung chính thuộc
tổ chức chủ trì và tổ chức phối hợp tham gia thực hiện đề tài, không quá 10 người kể cả chủ
nhiệm đề tài. Những thành viên tham gia khác lập danh sách theo mẫu này và gửi kèm theo hồ
sơ khi đăng ký)
Thời
gian

làm việc

TT

Họ và tên,

Tổ chức

học hàm học vị

công tác

Nội dung,

cho đề

công việc chính tham

tài

gia

(Số
tháng
quy
2

đổi )

2


1

Ths. Trịnh Minh Cương

2

Ths. Trần Minh Sơn

Cục KSHĐ miền Bắc
Tổng Cục ĐC&KS
Việt Nam
Trung tâm Kiểm định

Chủ nhiệm đề tài

15,9

Thư ký Đề tài

7,5

Một (01) tháng quy đổi là tháng làm việc gồm 22 ngày, mỗi ngày làm việc gồm 8 tiếng

5


3

Thành viên chính


5,2

Ths. Nguyễn Đức Thu

Cục Kiểm soát hoạt
động khoáng sản
miền Bắc

Thành viên chính

15,7

KS. Phạm Khắc Mạnh

Cục Kiểm soát hoạt
động khoáng sản
miền Bắc

Thành viên chính

11,6

6

KS. Phạm Ngọc Chi

Cục Kiểm soát hoạt
động khoáng sản
miền Bắc


Thành viên chính

14,8

7

ThS. Nguyễn Đắc Sơn

Tổng cục Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam

Thành viên

6,8

Nguyên Cục trưởng
Cục Kiểm soát hoạt
động khoáng sản
miền Trung

Thành viên

TS. Quách Đức Tín

Tổng cục Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam

Thành viên


10 Ths. Nguyễn Duy Bình

Tổng cục Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam

Thành viên

ThS. Nguyễn Huy
Phương

Tổng cục Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam

Thành viên chính

Cục Viễn thám quốc
gia

Thành viên

4

5

8

9

11


ThS. Phan Bảo Trung

và Công nghệ địa chất
Cục Kiểm soát hoạt
động khoáng sản
miền Bắc

KS. Nguyên Văn Thống

12 ThS. Lê Minh Huệ

6,8

II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG KH&CN VÀ PHƯƠNG ÁN TỔ CHỨC
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
12

Mục tiêu của đề tài (Bám sát và cụ thể hoá định hướng mục tiêu theo đặt hàng)

- Có được quy trình giám sát hoạt động khoáng sản phù hợp với xu thế hội nhập
quốc tế theo hướng minh bạch hóa hoạt động khai khoáng.
- Xây dựng được những chức năng cơ bản của một hệ thống giám sát trực tuyến
hoạt động khoáng sản, bảo đảm tính thống nhất, chính xác, kịp thời trong việc giám sát
các hoạt động khoáng sản từ Trung ương tới địa phương.
- Áp dụng thử nghiệm kết quả nghiên cứu đổi mới quy trình và cơ chế giám sát

6

5,0
5,5

0,9
4,5


các hoạt động khoáng sản tại một số mỏ vùng than Quảng Ninh và một số khu vực
khai thác đá vôi tập trung tại Hà Nam.
13

Tình trạng đề tài
Mới

Kế tiếp hướng nghiên cứu của chính nhóm tác giả
Kế tiếp nghiên cứu của người khác

Mặc dù đã có các đề tài nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của việc
giám sát các hoạt động khoáng sản, song chủ yếu tập trung vào hoạt động giám
sát đã đã được quy định tại luật khoáng sản và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Hướng nghiên cứu của Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu để đề xuất đổi mới
hoạt động giám sát hoạt động khoáng sản theo xu thế hội nhập quốc tế theo
hướng minh bạch hóa ngành khai khoáng; nghiên cứu, đề xuất xây dựng một hệ
thống giám sát trực tuyến hoạt động khoáng sản, bảo đảm tính thống nhất, chính
xác, kịp thời trong việc giám sát các hoạt động khoáng sản từ Trung ương tới địa
phương. Đây là hướng nghiên cứu mới, song quá trình nghiên cứu sẽ kế thừa
các kết quả nghiên cứu của các công trình có trước liên quan.
14

Tổng quan tình hình nghiên cứu, luận giải về mục tiêu và những nội dung
nghiên cứu của đề tài

14.1 Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài

Ngoài nước (Phân tích đánh giá được những công trình nghiên cứu có liên quan và
những kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài; nêu được
những bước tiến và trình độ KH&CN của những kết quả nghiên cứu đó)
Hoạt động khoáng sản nói chung, và công tác giám sát hoạt động khoáng sản nói riêng
luôn được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Với xu thế hội nhập quốc tế thì các
thành tựu khoa học kỹ thuật, các kinh nghiệm trong hoạt động khoáng sản luôn được
áp dụng và chuyển giao, thực hiện cho từng chương trình cụ thể. Theo quy định của
luật khoáng sản năm 2010, hoạt động khoáng sản gồm hoạt động thăm dò và hoạt động
khai thác, các hoạt động này không chỉ xảy ra ở một quốc gia nào mà đang phát triển
rộng rãi trên khắp thế giới, đặc biệt là các quốc gia có tiềm năng về tài nguyên khoáng
sản. Ở các nước có ngành khai khoáng phát triển thì quy trình giám sát được lồng ghép
trong các hoạt động thăm dò, mục tiêu là để điều chỉnh và giảm thiểu rủi ro do khách
quan, không nhằm vào giám sát con người, hoặc giám sát sự minh bạch vì chính các cá
nhân và tổ chức nước ngoài đều ý thức được thăm dò là rất quan trọng, có ý nghĩa rất
lớn trong việc quyết định đầu tư khai thác chế biến sau này. Ví dụ ở các nước phát
triển như Mỹ, Canada, Đức, Astralia..., công tác giám sát chủ yếu tập trung vào giám
sát tài chính, giám sát môi trường vì họ cho rằng các nhà kỹ thuật vì quá tập trung vào
tìm kiếm phát hiện khoáng sản mà có thể bỏ qua các nguyên tắc tài chính và bảo vệ
môi trường. Thêm nữa các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đòi hỏi sự rõ
ràng rành mạch trong cả chủ trình đầu tư, lấy thông tin chính xác xây dựng các báo cáo

7


thường niên, công bố cho các cổ động. Riêng các nội dung về kỹ thuật, họ lại sử dụng
các công ty thẩm định độc lập có uy tín quốc tế, khách quan kiểm tra kỹ thuật, công
nghệ, chất lượng thăm dò. Quan điểm của các quốc gia phát triển là phát triển bền
vững. Trong các chương trình phát triển mỏ thì các công ty nước ngoài họ sử dụng các
giải pháp quản lý nhiều hơn là giám sát.
Theo Ông Hugh Borrowman- Đại sứ Australia tại Việt Nam cho biết, Australia có một

ngành công nghiệp khai thác mỏ và khoáng sản lớn mạnh với lịch sử gần 200 năm và
có bề dày kinh nghiệm đáng kể trong việc kết hợp hài hòa các vấn đề đảm bảo bền
vững môi trường, trách nhiệm xã hội và thành công trong thương mại. Việc khai thác
mỏ bền vững phụ thuộc vào sự kiểm soát tốt các vấn đề an toàn và sức khỏe cho người
lao động, cũng như tối ưu hóa việc khai thác các nguồn khoáng sản, hay còn gọi là
hiệu quả khai thác tài nguyên.
Theo TS. Ian Wilson của Mỹ, năm 2015 thì vấn đề quản lý, giám sát hoạt động mỏ
trong bối cảnh hội nhập cần phải dựa các nguyên tắc sau:
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm các tiêu chí đối
với thực thi các thỏa thuận quốc tế, quản lý nguồn tài nguyên, bảo vệ cộng đồng; minh
bạch trong phân bổ tài nguyên dựa trên các điều kiện: năng lực khai thác và địa điểm
chế biến khoáng sản, thuế tài nguyên và các loại thuế, phí khác, nghĩa vụ đối với cộng
đồng và xã hội, điều kiện an toàn lao động và vệ sinh môi trường, kết quả thực hiện
công tác bảo vệ môi trưởng, đảm bảo nguồn tài chính; kết quả thực thi, ý thức chấp
hành pháp luật. Ở nhiều nước trên thế giới, công nghiệp khai thác mỏ khoáng sản vẫn
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích, công
nghiệp khai thác mỏ là nguyên nhân gây tác đông mạnh mẽ đối với các thành phần địa
môi trường trên một diện tích rộng lớn. Trong công nghệ khai thác mỏ lộ thiên, quá
trình trình đào xẻ và chuyển dời đất đá đã tạo ra các hình thái địa hình nhân sinh
(moong khai thác, bãi thải) tồn tại vĩnh cửu trên một diện tích rộng lớn. Hậu quả rõ nét
nhất là làm biến dạng bề mặt địa hình, chiếm dụng đất trồng trọt, gây ô nhiễm môi
trường nước và không khí phá vỡ thế hài hòa vốn có của cảnh quan thiên nhiên. Với
quy mô ngày càng mở rộng, khai thác ngày càng xuống sâu, hệ số đất bóc ngày càng
lớn, mức độ tôn cao và nhân rộng của các bãi thải ngày càng tăng. Hậu quả ô nhiễm và
tai biến môi trường do nguyên nhân bãi thải ngày càng phức tạp hơn và sâu sắc hơn.
Ở các nước tiên tiến, việc giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản chủ
yếu bằng hệ thống pháp luật và chế độ thanh tra, kiểm tra với những chế tài, xử phạt
nghiêm minh. Chính sách các nước này không khuyến khích khai thác quy mô nhỏ,
công nghệ không hiện đại, không thân thiện môi trường. Công tác giám sát hoạt động
khoáng sản chủ yếu theo mô hình tự thực hiện, tự chịu trách nhiệm, áp dụng công nghệ

tiên tiến. Do vậy, hoạt động khai thác luôn đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Trong một số dự án nhạy cảm, có nguy cơ cao về ô nhiễm, nhà nước có thể đặt trạm
quan trắc môi trường tự động để theo dõi, kiểm tra, kịp thời xử lý nếu xảy ra sự cố.

8


Với sản lượng khai thác mỏ đứng hàng đầu thế giới (Năm 2015, sản lượng than của
Trung Quốc giảm nhưng vẫn đạt 3,68 tỷ tấn), các thành phần địa cơ mỏ ở Trung Quốc
ngày càng diễn biến phức tạp. Nghiên cứu sự biến động các thành phần đất đá và biến
dạng bề mặt mỏ và đề xuất các phương pháp ứng phó, giảm thiểu tác động tiêu cực là
nhiệm vụ được Tổng cục Mỏ và các Cơ quan Nhà nước Trung Quốc đặc biệt quan tâm.
Trong nước (Phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu trong nước thuộc lĩnh vực
nghiên cứu của đề tài, đặc biệt phải nêu cụ thể được những kết quả KH&CN liên quan
đến đề tài mà các cán bộ tham gia đề tài đã thực hiện. Nếu có các đề tài cùng bản
chất đã và đang được thực hiện ở cấp khác, nơi khác thì phải giải trình rõ các nội
dung kỹ thuật liên quan đến đề tài này; Nếu phát hiện có đề tài đang tiến hành mà đề
tài này có thể phối hợp nghiên cứu được thì cần ghi rõ Tên đề tài, Tên Chủ nhiệm đề
tài và cơ quan chủ trì đề tài đó).
Thuật ngữ “Hoạt động khoáng sản” đã được quy định rõ trong Luật Khoáng sản năm
2010 tại điều 2, khoản 5 như sau: “Hoạt động khoáng sản bao gồm hoạt động thăm dò
khoáng sản, hoạt động khai thác khoáng sản”, trong đó “Thăm dò khoáng sản là hoạt
động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản và các thông tin khác phục vụ
khai thác khoáng sản”; “Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng
sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động
khác có liên quan”
Giám sát hoạt động khoáng sản có hai hình thức là giám sát trực tiếp và giám
sát gián tiếp.
Giám sát trực tiếp là hình thức giám sát có sự gặp gỡ trực tiếp giữa chủ thể giám
sát và đối tượng giám sát. Giám sát trực tiếp thông qua sự gặp gỡ trực tiếp giữa các tổ

chức, cá nhân là đối tượng giám sát với người đại diện của cơ quan quản lý để quan
sát, theo dõi, nắm thông tin tình hình hoạt động của đối tượng được giám sát trong việc
tuân thủ các quy định của pháp luật.
Giám sát gián tiếp là hình thức giám sát không có sự gặp gỡ trực tiếp giữa chủ
thể giám sát với đối tượng giám sát. Giám sát gián tiếp chủ yếu thông qua việc nghiên
cứu các báo cáo, văn bản của tổ chức, cá nhân, các tổ chức nhà nước, đoàn thể chính
trị - xã hội và phản ảnh của quần chúng, cơ quan báo chí đối với lĩnh vực giám sát; qua
tổ chức điều tra xã hội học; qua trao đổi bằng điện thoại giữa chủ thể giám sát với đối
tượng giám sát.
Từ các khái niệm trên về giám sát, có thể rút ra khái niệm giám sát hoạt động
khoáng sản như sau: “Giám sát hoạt động khoáng sản là việc các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền về khoáng sản theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức,
cá nhân tham gia hoạt động khoáng sản trong việc thực hiện nội dung Giấy phép thăm
dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản; việc chấp hành các quy định của pháp
luật về khoáng sản, pháp luật khác có liên quan cũng như việc khắc phục các vi phạm,
tồn tại đã nêu trong các Kết luận thanh tra, Thông báo sau kiểm tra của Thủ trưởng cơ

9


quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành khoáng sản”.
Giám sát hoạt động khoáng sản là một trong những nội dung quan trọng của
công tác quản lý nhà nước về khoáng sản nhằm đưa hoạt động khoáng sản (thăm dò,
khai thác khoáng sản) của các tổ chức, cá nhân vào nề nếp, tuân thủ các quy định của
pháp luật. Hiệu quả của công tác này góp phần quản lý tốt hơn tài nguyên khoáng sản
theo mục tiêu: khai thác triệt để, thu hồi tối đa các loại khoáng sản trong quá trình khai
thác; sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả khoáng sản sau khai thác; bảo vệ môi
trường, đảm bảo an toàn cho người lao động trong quá trình thăm dò, khai thác khoáng
sản. Mặt khác, giám sát hoạt động khoáng sản phải đảm bảo tuân thủ đúng quy định
của pháp luật về khoáng sản, pháp luật khác có liên quan; đảm bảo tính khách quan,

minh bạch, chính xác và kịp thời.
Cùng sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, sự tăng nhanh về số lượng các tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động thăm dò, hoạt động khai thác khoáng sản, trong khi
cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản và về môi trường còn hạn chế nhiều về bộ
máy tổ chức, cán bộ có năng lực, chuyên môn còn hạn chế về số lượng cũng như chất
lượng; kinh phí đầu tư cho hoạt động giám sát chưa đáp ứng nhu cầu thực tế thì nhiều
hành vi vi phạm pháp luật về khoáng sản, hậu quả là gây lãng phí tài nguyên khoáng
sản, hủy hoại môi trường cũng tăng. Luật khoáng sản được Quốc hội khóa XII thông
qua ngày 17 tháng 11 năm 2010, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011 đã thể
chế hóa nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm quản lý chặt chẽ, có
hiệu quả tài nguyên khoáng sản. Ngày 19 tháng 02 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định số 16/ 2014/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trực thuộc Bộ Tài
nguyên và Môi trường, trong đó có giao cho Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt
Nam thực hiện chức năng giám sát hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản trên phạm
vi toàn quốc. Ngoài ra, theo các quy định hiện hành, Sở Tài nguyên và Môi trường các
tỉnh thực hiện chức năng giám sát hoạt động khoáng sản thuộc địa bàn quản lý hành
chính của tỉnh đó. Qua đó, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam chủ trì hoặc Sở
Tài nguyên và Môi trường các tỉnh được giao chủ trì kiểm tra, giám sát hoạt động thăm
dò, khai thác theo Giấy phép được Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh cấp theo thẩm quyền. Trường hợp phát hiện có vi phạm trong quá trình
kiểm tra, giám sát thì các cơ quan này sẽ xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo thẩm quyền.
Thời gian qua, công tác giám sát hoạt động khoáng sản thông qua hoạt động
thanh tra, kiểm tra công tác quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản
của Bộ Tài nguyên và Môi trường do Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam làm
đầu mối và của Ủy ban nhân dân các tỉnh do Sở Tài nguyên và Môi trường làm đầu
mối đã đạt những kết quả nhất định đưa hoạt động khoáng sản đi dần vào nề nếp; đã
phát hiện và kiến nghị xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản đối với các tổ chức, cá
nhân hoạt động thăm dò, hoạt động khai thác khoáng sản, phần nào bảo đảm kỷ cương


10


của pháp luật nói chung và pháp luật về khoáng sản, pháp luật về bảo vệ môi trường
nói riêng.
Đối với Việt Nam, để thu hút đầu tư nước ngoài, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
khai thác khoáng sản thì việc xây dựng các quy trình giám sát ở Việt Nam cũng phải
phù hợp với thông lệ quốc tế. Phương án xây dựng quy trình giám sát nên là giám sát
chung và có đặc thù cho từng đối tượng khoáng sản.
Việt Nam có hai dự án điển hình về việc khai thác mỏ được quản lý với đẳng
cấp quốc tế, đó là dự án khai thác vonfram ở mỏ Núi Pháo (Thái Nguyên) của Công ty
Khoáng sản Masan (Tập đoàn Masan) và mỏ Niken Bản Phúc vận hành bởi Công ty
Khoáng sản Châu Á (Asian Mineral Resources- AMR). Cả hai dự án Núi Pháo và Bản
Phúc đều được quản lý bởi các chuyên gia Australia, áp dụng các kinh nghiệm quản lý
mỏ bền vững, quy trình và các công nghệ khai mỏ cũng như dịch vụ phụ trợ của
Australia.
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về giám sát hoạt động khoáng sản ở Việt
Nam. Phần lớn các đề tài này do các đơn vị chức năng của Tổng cục Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam thực hiện như Trung tâm Kiểm định và Công nghệ Địa chất,
Cục Kiểm soát hoạt động Khoáng sản miền Bắc, Cục Kiểm soát hoạt động khoáng sản
miền Trung… Có thể kể đến một số đề tài như sau:
- Đề tài cấp cơ sở: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng cơ chế
kiểm soát hoạt động thăm dò khoáng sản, khai thác khoáng sản - Chủ nhiệm đề tài:
KS. Phạm Ngọc Chi, năm 2012. Đơn vị chủ trì: Cục Kiểm soát hoạt động khoáng sản
miền Bắc
- Đề tài cấp Bộ Tài nguyên và Môi trường: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
tiễn đề xuất cơ chế nâng cao hiệu quả quản trị tài nguyên khoáng sản - Chủ nhiệm đề
tài: TS Lại Hồng Thanh, năm 2013. Đơn vị chủ trì: Cục Kiểm soát hoạt động khoáng
sản miền Bắc
- Đề tài cấp cơ sở: Nghiên cứu, xác lập cơ sở khoa học xây dựng quy trình giám

sát hoạt động khoáng sản - Chủ nhiệm đề tài: KS. Phạm Ngọc Chi, năm 2015. Đơn vị
chủ trì: Cục Kiểm soát hoạt động khoáng sản miền Bắc
- Đề tài cấp cơ sở: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng cơ chế
kiểm soát sản lượng khai thác các mỏ khoáng sản rắn - Chủ nhiệm đề tài: Ths. Phan
Bảo Trung, năm 2015. Đơn vị chủ trì: Cục Kiểm soát hoạt động khoáng sản miền Bắc
- Đề tài cấp cơ sở: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng
sổ tay giám sát một số hạng mục công trình chủ yếu trong thăm dò các mỏ khoáng sản
- Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lê Quốc Thanh, năm 2015. Đơn vị chủ trì: Trung tâm Kiểm
định và Công nghệ địa chất
Qua kết quả nghiên cứu của những đề tài nói trên cũng như từ thực tế của công
tác giám sát hoạt động khoáng sản ở Việt Nam có thể chỉ ra một số tồn tại, hạn chế như

11


sau:
- Công tác giám sát sau cấp phép thăm dò/khai thác khoáng sản thực hiện chưa
thường xuyên, hiệu quả chưa cao; chưa có hệ thống thông tin hai chiều giữa doanh
nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình hoạt động, ngay cả khi không có hoạt động
giám sát.
- Việc giám sát sản lượng khoáng sản đã khai thác hàng năm gần như chưa thực
hiện được, nếu có thì số liệu thiếu chính xác.
- Chưa có cơ chế giám sát tổ chức, cá nhân trong việc khắc phục hành vi vi
phạm đã được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra, dẫn đến tình trạng có lúc, có
nơi các đối tượng vi phạm coi thường pháp luật, hiệu lực quản lý nhà nước bị giảm sút.
14.2 Luận giải về việc đặt ra mục tiêu và những nội dung cần nghiên cứu của đề tài
(Trên cơ sở đánh giá tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước, phân tích những công
trình nghiên cứu có liên quan, những kết quả mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu đề
tài, đánh giá những khác biệt về trình độ KH&CN trong nước và thế giới, những vấn
đề đã được giải quyết, cần nêu rõ những vấn đề còn tồn tại, chỉ ra những hạn chế cụ

thể, từ đó nêu được hướng giải quyết mới - luận giải và cụ thể hoá mục tiêu đặt ra
của đề tài và những nội dung cần thực hiện trong đề tài để đạt được mục tiêu)
Khai thác khoáng sản ở Việt Nam thời gian qua đã góp phần đáng kể vào phát
triển công nghiệp khai khoáng sản ở Việt Nam, đồng thời là động lực để ngành công
nghiệp khác phát triển, làm thay đổi cơ cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Ngành khai thác khoáng sản cũng đang có những bước thay đổi đáng kể; khung pháp
lý về quản lý khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả đang từng bước hoàn thiện,
chuyển từ khai thác quy mô nhỏ manh mún sang khai thác quy định công nghiệp sử
dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường, giám về số lượng nhưng nâng cao
chất lượng; chuyển từ trọng tâm quản lý khai thác vì nhu cầu trước mắt đáp ứng
nguyên, nhiên liệu cho các ngành kinh tế, phục hồi và ổn định kinh tế sau chiến tranh
chuyển sang xu thế phát triển bền vững, khai thác khoáng sản phải bảo đảm hiệu quả
kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường, tránh cạn kiệt nguồn tài nguyên.
Tuy nhiên, sự điều chỉnh chính sách về khoáng sản cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề
bất cập và tồn tại gây ra những tác động bất lợi cho nền kinh tế, môi trường sinh thái
và ổn định xã hội. Do vậy, việc điều chỉnh sửa đổi Luật khoáng sản trên quan điểm
phát triển bền vững là vấn đề cấp bách hiện nay. Vấn đề cần thiết là việc quản lý khai
thác sử dụng tài nguyên khoáng sản phải hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, hài hoà vấn đề
môi trường, giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển và bảo vệ môi trường; đồng
thời không tạo ra những nguy cơ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột xã hội, ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng.
Nhằm giảm thiểu tối đa các tác động xấu của khai thác khoáng sản đến nền kinh
tế, môi trường cũng như ảnh hưởng xấu đến an sinh xã hội, Nhà nước ta đã có nhiều

12


biện pháp, kể cả bằng những công cụ quản lý kinh tế. Đã bước đầu áp dụng cách tiếp
cận chuỗi giá trị ngành công nghiệp khai thác để có các công cụ quản trị, chính sách
hữu hiệu, nhất quán, trong đó tập trung các công cụ chính sách vào khâu quản lý và

phân bổ nguồn thu để đảm bảo tài nguyên được khai thác và sử dụng cho mục đích
phát triển kinh tế - xã hội một cách công bằng, minh bạch và bền vững.
Với mục tiêu quản lý và sử dụng tài nguyên khoáng sản hiệu quả nhất, tiết kiệm
nhất, khôn khéo nhất trên cơ sở có chiến lược thống nhất thể hiện qua các định hướng
chính sách như:
• Hạn chế khai thác và bảo vệ các loại khoáng sản chiến lược phục vụ các mục
tiêu kinh tế, an ninh, quốc phòng về dài hạn. Đặc biệt với các loại khoáng sản chiến
lược mà hiện tại trình độ khoa học công nghệ của chúng ta chưa đủ để khai thác, chế
biến, sử dụng một cách triệt để.
• Hạn chế tối đa việc khai thác những loại khoáng sản mà thị trường thế giới
còn dồi dào, có thể nhập khẩu được.
• Chỉ khuyến khích khai thác các loại khoáng sản thực sự cần cho nhu cầu
nguyên liệu sản xuất công nghiệp nội địa. Hạn chế, thậm chí cấm xuất khẩu tài nguyên
khoáng sản.
• Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các cộng đồng sinh sống xung quanh khu
vực khai thác nhằm giảm thiểu các tác động môi trường và xã hội lên chính họ. Đồng
thời, khuyến khích và tiến tới bắt buộc tất cả các doanh nghiệp khai thác và chế biến
khoáng sản phải thực thi các quy định pháp luật và tôn trọng đạo đức kinh doanh theo
các chuẩn mực doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội và môi trường.
Trên thực tế hiện nay, một số tổ chức, cá nhân chưa nghiêm túc thực hiện các
quy định về hoạt động khoáng sản; không thực hiện đầy đủ những trách nhiệm của
mình đã được quy định cụ thể trong luật và các văn bản do các cơ quan quản lý nhà
nước ban hành. Nguyên nhân chính để xảy ra tình trạng này là:
- Ý thức của đại bộ phận của người dân trong đó có một số các cán bộ trong cơ
quan quản lý nhà nước; nhiều doanh nghiệp chưa hiểu hoặc chưa ý thức được vai trò
quan trọng của việc khai thác khoáng sản luôn đi kèm với phát triển bền vững. Các
doanh nghiệp chưa thấy hết trách nhiệm của mình đối với đất nước, đối với xã hội.
- Chế tài chưa đủ mạnh, chưa mang tính răn đe. Bộ máy thanh tra, kiểm tra chưa
có cơ chế hoạt động độc lập vì theo quy định của pháp luật về thanh tra, thanh tra
chuyên ngành khoáng sản hiện nay trực thuộc thanh tra Bộ ở cấp trung ương, trực

thuộc thanh tra Sở ở cấp tỉnh
- Nhà nước chưa đầu tư xứng đáng cho công tác thanh tra, kiểm tra khoáng sản.
Lực lượng thanh tra còn yếu và thiếu, chưa đủ trang thiết bị phục vụ công tác thanh tra.
- Công tác thanh tra chưa được thực hiện một cách thường xuyên. Mỗi lần tiến
hành thanh tra chưa xử lý triệt để

13


- Công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường trong khai thác ở các cấp, cho
mọi đối tượng liên quan chưa được chú trọng.
- Vai trò giám sát của chính quyền địa phương, tổ chức xã hội, cộng đồng dân
cư còn yếu.
Như trên đã đề cập, công tác giám sát các hoạt động khoáng sản đã được thực
hiện từ nhiều năm nay ở Việt Nam. Đã có một số công trình nghiên cứu về giám sát
hoạt động khoáng sản được triển khai và đã có những kết quả ban đầu. Mặc dù vậy,
đến nay chưa có một nghiên cứu cụ thể trên cơ sở khoa học và xuất phát từ thực tiễn để
xây dựng quy trình giám sát hoạt động khoáng sản phù hợp với đặc thù của lĩnh vực
chuyên ngành khoáng sản như là một “cẩm nang chuyên ngành” cho các cán bộ quản
lý, cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra làm việc tại cơ quan quản lý nhà nước ở
Trung ương và Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện thống nhất, nhằm nâng cao
hiệu quả công tác này.
Phần lớn các công trình nghiên cứu trước đây về giám sát các hoạt động khoáng
sản được đầu tư với một kinh phí khá eo hẹp, mới chỉ dừng lại ở các đề tài cấp cơ sở
nên vẫn còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu một cách triệt để, chưa xây dựng
được một cách có hệ thống quy trình giám sát hoạt động khoáng sản. Việc liên kết các
quá trình giám sát từ thăm dò, khai thác, chế biến, đóng cửa mỏ, hoàn nguyên môi
trường chưa được xây dựng dẫn đến sự thiếu đồng bộ, thiếu thông tin tổng hợp, gây
khó khăn trong quá trình phân tích, ra quyết định của các nhà quy hoạch, nhà quản lý.
Mặt khác, dữ liệu, tài liệu của các hoạt động giám sát khoáng sản chưa được quản lý

có hệ thống, chưa áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin cũng làm cho công tác quản
lý khoáng sản gặp nhiều khó khăn.
Đặc biệt, phần lớn các đề tài chưa cập nhật được các thành quả nghiên cứu
trong công tác giám sát hoạt động khoáng sản trên thế giới, chưa đáp ứng được xu thế
hội nhập quốc tế hiện nay.
Vì vậy, việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu đổi mới quy trình giám sát hoạt động
khoáng sản phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Áp dụng thử nghiệm tại một số vùng
than Quảng Ninh và một số khu vực khai thác đá vôi tập trung tại Hà Nam” là rất cần
thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
15

Liệt kê danh mục các công trình nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến đề tài
đã trích dẫn khi đánh giá tổng quan

(Tên công trình, tác giả, nơi và năm công bố, chỉ nêu những danh mục đã được trích
dẫn để luận giải cho sự cần thiết nghiên cứu đề tài).
1. Luật khoáng sản số 60/2010/QH12;
2. Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày 26/2/2012 của Chính phủ Quy định chi tiết về
đấu giá quyền khai thác khoáng sản; Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày 28/11/2013
của Chính phủ Quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác

14


khoáng sản;
3. Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật Khoáng sản;
4. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng cơ chế kiểm soát hoạt động thăm
dò khoáng sản, khai thác khoáng sản - Chủ nhiệm đề tài: KS. Phạm Ngọc Chi, năm
2012.

5. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất cơ chế nâng cao hiệu quả quản trị
tài nguyên khoáng sản - Chủ nhiệm đề tài: TS Lại Hồng Thanh, năm 2013.
6. Nghiên cứu, xác lập cơ sở khoa học xây dựng quy trình giám sát hoạt động khoáng
sản - Chủ nhiệm đề tài: KS. Phạm Ngọc Chi, năm 2015.
7. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng cơ chế kiểm soát sản lượng khai
thác các mỏ khoáng sản rắn - Chủ nhiệm đề tài: Ths. Phan Bảo Trung, năm 2015.
8. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng sổ tay giám sát một số
hạng mục công trình chủ yếu trong thăm dò các mỏ khoáng sản - Chủ nhiệm đề tài:
ThS. Lê Quốc Thanh, năm 2015.
16

Nội dung nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm của đề tài và
phương án thực hiện

(Liệt kê và mô tả chi tiết những nội dung nghiên cứu và triển khai thực nghiệm phù
hợp cần thực hiện để giải quyết vấn đề đặt ra, trong đó cần thể hiện rõ những vấn đề
sau: Các công việc cụ thể của từng nội dung, kèm theo khối lượng công việc và nhu
cầu về nhân lực, tài chính và nguyên vật liệu; Sản phẩm chính đạt được; Chỉ rõ những
nội dung mới những nội dung kế thừa kết quả nghiên cứu của các đề tài trước đó;
* Nội dung nghiên cứu khoa học:
Nội dung 1. Nghiên cứu, đánh giá các quy định, kinh nghiệm quốc tế về
giám sát các hoạt động khoáng sản
- Thu thập các luật, tài liệu, tư liệu liên quan về giám sát hoạt động khoáng sản
của các nước.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định, kinh nghiệm quốc tế trong giám sát hoạt
động thăm dò khoáng sản.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định, kinh nghiệm quốc tế trong giám sát hoạt
động khai thác khoáng sản.
* Người thực hiện:
KS. Phạm Ngọc Chi - Thành viên chính, chủ trì

ThS. Nguyễn Duy Bình - Thành viên, tham gia

15


TS. Quách Đức Tín - Thành viên, tham gia
* Sản phẩm hoàn thành: Báo cáo kết quả nghiên cứu các quy định, kinh nghiệm
quốc tế trong giám sát thăm dò, khai thác khoáng sản.
Nội dung 2. Nghiên cứu, đánh giá các quy định, kinh nghiệm, hiện trạng
công tác giám sát hoạt động khoáng sản của Việt Nam hiện nay
- Công việc 1: Đánh giá hiện trạng hoạt động khoáng sản
+ Thăm dò
+ Khai thác
* Người thực hiện:
- KS. Phạm Ngọc Chi - Thành viên chính, chủ trì
- ThS. Nguyễn Đức Thu - Thành viên chính, tham gia
- Công việc 2: Đánh giá hiện trạng quy trình giám sát các hoạt động khoáng
sản
+ Thăm dò
+ Khai thác
* Người thực hiện:
- KS. Phạm Phạm Khắc Mạnh - Thành viên chính, chủ trì
- KS. Nguyễn Văn Thống - Thành viên chính, tham gia
* Sản phẩm hoàn thành: Báo cáo tổng hợp, đánh giá hiện trạng công tác giám
sát hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản ở Việt Nam hiện nay, so sánh với quy
định của một số nước; đề xuất định hướng thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nội dung 3. Nghiên cứu đổi mới quy trình giám sát hoạt động khoáng sản
phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế
- Nghiên cứu, đề xuất đổi mới quy trình giám sát thông qua chính sách, quy
hoạch khai thác khoáng sản

+ Giám sát thực hiện chính sách phát triển bền vững trong khai thác khoáng sản
+ Giám sát thực hiện theo thiết kế và báo cáo đầu tư xây dựng công trình mỏ
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
+ Giám sát hoạt động khai thác áp dụng các biện pháp sử dụng hợp lý, tiết
kiệm, hiệu quả tài nguyên khoáng sản
* Người thực hiện:
- ThS. Nguyễn Đắc Sơn - Thành viên, chủ trì
- ThS. Trần Minh Sơn - Thành viên chính, tham gia
- Công việc 1: Nghiên cứu đổi mới quy trình giám sát hoạt động thăm dò
khoáng sản
+ Giám sát việc thực hiện các điều kiện hành nghề thăm dò khoáng sản,
+ Giám sát thực hiện các quy định về khu vực thăm dò khoáng sản
+ Giám sát thực hiện các quy định về thăm dò khoáng sản độc hại
+ Giám sát thực hiện các quy định về thông báo kế hoạch thăm dò
+ Giám sát trong quá trình thi công hệ phương pháp kỹ thuật và các hạng mục
theo đề án thăm dò được duyệt và các nội dung quy định tại Giấy phép thăm dò được
cấp.

16


+ Giám sát quy trình thi công đề án được phê duyệt
+ Giám sát thi công các công trình thăm dò theo hệ phương pháp kỹ thuật và
các hạng mục công việc được ghi trong Giấy phép thăm dò để đảm bảo độ tin cậy xác
định trữ lượng và tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản;
+ Giám sát báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản, các điều kiện thi công đề án
thăm dò, các nghĩa vụ thực hiện khi đề án thăm dò khi giấy phép chấm dứt hiệu lực..
+ Giám sát công tác truyền thông và cộng đồng về bảo vệ môi trường trong
thăm dò
- Công việc 2: Nghiên cứu đổi mới quy trình giám sát hoạt động khai thác

khoáng sản
Đối với Việt Nam, để thu hút đầu tư nước ngoài, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
khai thác khoáng sản thì việc xây dựng các quy trình giám sát ở Việt Nam cũng phải
phù hợp với thông lệ quốc tế.
* Người thực hiện:
- ThS. Trịnh Minh Cương - Chủ nhiệm đề tài, chủ trì
- ThS. Phan Bảo Trung - Thành viên chính, tham gia
* Đoàn ra:
Nhằm mục đích tham quan học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong
việc giám sát hoạt động khoáng sản, đề tài dự kiến lựa chọn địa điểm tham quan học
hỏi kinh nghiệm tại Ba Lan là một nước có ngành công nghiệp khai khoáng lớn, có
nhiều kinh nghiệm trong quản lý hoạt động khoáng sản.
Ngành khai thác mỏ ở Việt Nam đã có mối quan hệ truyền thống với các doanh
nghiệp sản xuất thiết bị và máy móc mỏ Ba Lan, các sản phẩm do các Công ty Ba Lan
sản xuất đã có mặt tại các hầm mỏ Việt Nam từ lâu và được các nhà chuyên môn đánh
giá cao về chất lượng, tính năng kỹ thuật và kiểu dáng công nghiệp…
Kế hoạch tổ chức đoàn ra dự kiến như sau:
- Thời gian: 5 ngày trong năm 2018
- Thành phần đoàn ra: 5 người
+ Lãnh đạo hoặc chuyên viên Vụ Khoa học Công nghệ Bộ Tài nguyên và Môi
trường: 01 người.
+ Lãnh đạo Tổng cục, chuyên viên Vụ Khoa học Công nghệ Tổng cục Địa chất
và Khoáng sản Việt Nam: 02 người.
+ Lãnh đạo đơn vị chủ trì đề tài: 01 người
+ Chủ nhiệm đề tài: 01 người
* Sản phẩm hoàn thành: Dự thảo quy trình giám sát hoạt động khoáng sản mới
phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế
Nội dung 4. Nghiên cứu đề xuất cơ chế giám sát đảm bảo tính hiệu lực, hiệu
quả, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, góp phần minh bạch hóa ngành
khai khoáng

- Nghiên cứu đề xuất cơ chế giám sát hoạt động khoáng sản của cơ quan quản lý
nhà nước với doanh nghiệp hoạt động khoáng sản
- Nghiên cứu đề xuất cơ chế quản lý, phối hợp, giám sát hoạt động khoáng sản
của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương

17


- Nghiên cứu đề xuất cơ chế tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong giám
sát hoạt động khoáng sản
* Người thực hiện:
ThS. Trịnh Minh Cương - Chủ nhiệm đề tài, chủ trì
ThS. Nguyễn Đức Thu - Thành viên chính, tham gia
KS. Phạm Khắc Mạnh - Thành viên chính, tham gia
KS. Phạm Ngọc Chi - Thành viên chính, tham gia
KS. Nguyễn Văn Thống - Thành viên, tham gia
* Sản phẩm hoàn thành: Bản đề xuất cơ chế giám sát thống nhất từ Trung ương
tới địa phương.
Nội dung 5. Nghiên cứu công nghệ giám sát trong và ngoài nước và đề xuất
áp dụng trong giám sát hoạt động khoáng sản
Hiện nay, công nghệ viễn thám là công nghệ hiện đại, đang được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực và được phổ biến rộng rãi ở các nước phát triển. Công nghệ viễn thám
đã trở thành phương tiện chủ đạo phục vụ hiệu quả cho công tác giám sát tài nguyên
thiên nhiên và môi trường nói chung, giám sát tài nguyên khoáng sản và hoạt động
khoáng sản nói riêng. Tùy theo trình độ phát triển ở mỗi quốc gia mà mức độ, khả
năng ứng dụng công nghệ viễn thám có khác nhau. Tuy nhiên, do ưu điểm của công
nghệ này mà mức mức độ, khả năng áp dụng ngày càng được nâng cao, phổ cập trong
công tác giám sát tài nguyên và môi trường.
Viễn thám là khoa học thu nhận, xử lý và suy giải các hình ảnh thu nhận từ trên
không của trái đất để nhận biết được các thông tin về đối tượng trên bề mặt trái đất mà

không cần tiếp xúc nó. Như vậy, viễn thám là phương pháp thu nhận thông tin khách
quan về bề mặt trái đất và các hiện tượng trong khí quyển nhờ các máy thu (sensor)
được đặt trên máy bay, vệ tinh nhân tạo, tầu vũ trụ hoặc đặt trên các trạm quỹ đạo.
Công nghệ viễn thám có những ưu việt cơ bản sau:
- Độ phủ trùm không gian của tư liệu bao gồm các thông tin về tài nguyên, môi
trường trên diện tích lớn của trái đất gồm cả những khu vực rất khó đến được như rừng
nguyên sinh, đầm lầy và hải đảo;
- Có khả năng giám sát sự biến đổi của tài nguyên, môi trường trái đất do chu
kỳ quan trắc lặp và liên tục trên cùng một đối tượng trên mặt đất của các máy thu viễn
thám. Khả năng này cho phép công nghệ viễn thám ghi lại được các biến đổi của tài
nguyên, môi truờng giúp công tác giám sát, kiểm kê tài nguyên thiên nhiên và môi
trường;
- Sử dụng các dải phổ đặc biệt khác nhau để quan trắc các đối tượng (ghi nhận
đối tượng), nhờ khả năng này mà tư liệu viễn thám được ứng dụng cho nhiều mục
đích, trong đó có nghiên cứu về khí hậu, nhiệt độ của trái đất;
- Cung cấp nhanh các tư liệu ảnh số có độ phân giải cao và siêu cao, là dữ liệu
cơ bản cho việc thành lập và hiện chỉnh hệ thống bản đồ quốc gia và hệ thống CSDL
địa lý quốc gia.
Hiện nay, ở Việt Nam các cơ quan ứng dụng viễn thám sử dụng nhiều loại tư
liệu ảnh vệ tinh. Các tư liệu này mới được ứng dụng cho việc điều tra nghiên cứu các
đối tượng trên đất liền như để hiện chỉnh bản đồ tại Trung tâm Viễn thám, lập bản đồ
địa chất tại Tổng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam và Viện Khoa học Địa chất và
Khoáng sản, sử dụng trong quản lý tổng hợp vùng bờ ở Tổng cục Môi trường. Tại các
cơ quan ngoài Bộ, các tư liệu viễn thám được sử dụng tại các Viện nghiên cứu và một
số Trường Đại học. Tuy nhiên, việc ứng dụng các tư liệu này chủ yếu cho việc quan sát

18


sử dụng đất, môi trường, đô thị. Cũng có một số thí nghiệm ảnh viễn thám nghiên cứu

về biển nhưng lẻ tẻ, chủ yếu tập trung ở một số địa điểm ven bờ như Hải Phòng,
Quảng Ninh, Nha Trang, Vũng Tàu.
a) Sử dụng ảnh vệ tinh để điều tra, giám sát tài nguyên đất
Cho đến nay, ảnh vệ tinh đã được nhiều cơ quan ở nước ta sử dụng để thành lập
bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Những bản đồ này phủ trùm các vùng lãnh thổ khác
nhau, từ khu vực hẹp đến tỉnh, vùng và toàn quốc.
Hiện nay nhiều cơ quan ở nước ta đã sử dụng ảnh vệ tinh để thành lập bản đồ
hiện trạng sử dụng đất nhằm phục vụ các mục đích khác nhau. Kế hoạch sử dụng ảnh
vệ tinh để điều tra, thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất một cách hệ thống theo quy
định của tổng kiểm kê đất thuộc ngành địa chính cũng như để giám sát và cập nhật
biến động về sử dụng đất đai, trong đó có sử dụng đất đai cho hoạt động thăm dò, khai
thác khoáng sản.
b) Sử dụng ảnh vệ tinh để điều tra, giám sát tài nguyên nước
Từ góc độ chức năng và nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, khái niệm
tài nguyên nước bao hàm nước mặt và nước ngầm. Để phục vụ các mục đích quản lí và
khai thác tài nguyên nước phải điều tra và giám sát sự phân bố các đối tượng thủy văn
và các nguồn nước ngầm, khối lượng và chất lượng cũng như diễn biến theo mùa, theo
thời gian của chúng, các hiện tượng thuỷ văn có liên quan như lũ lụt, nhiễm mặn, biến
động lòng sông, lòng hồ,…Nước mặt phải được giám sát trong quá trình khai thác để
tránh hiện tượng nước mưa chảy tràn dẫn đến nguy cơ sạt lở, nhất là sạt lở bãi thải như
đã từng diễn ra cuối tháng 7 đầu tháng 8 như đã diễn ra ở vùng than Quảng Ninh.
Ngày nay, ảnh vệ tinh có thể đem lại nhiều thông tin trực tiếp và gián tiếp về
các nguồn nước mặt cũng như nước ngầm. Các thông tin về chất lượng nước và về
nước ngầm cũng cần được nghiên cứu áp dụng, khai thác từ ảnh vệ tinh. Khả năng sử
dụng ảnh vệ tinh để điều tra, giám sát tài nguyên nước là một phương pháp cho kết quả
nhanh và kịp thời nhất, từ kết quả này sẽ đưa ra giải pháp phủ hợp trong việc sử dụng
nguồn nước có hiệu quả trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản tránh cạn kiệt
nguồn nước trong tương lai.
c) Sử dụng ảnh vệ tinh để điều tra, giám sát môi trường
Điều tra, giám sát môi trường để phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường, trong

đó có bảo vệ môi trường trong khai thác, chế biến khoáng sản là một lĩnh vực rất lớn,
rất khó khăn, trong đó có những vấn đề có thể sử dụng ảnh vệ tinh như một công cụ
hữu hiệu. Xét về góc độ công nghệ viễn thám, việc phân tích, suy giải phổ cho phép
phát hiện những thay đổi của môi trường ở mức độ tổng thể, việc nghiên cứu môi
trường ở mức độ chi tiết cần có các nghiên cứu, đo đạc của nhiều bộ môn khác. Điều
tra, giám sát môi trường là nhiệm vụ liên quan đến nhiều ngành. Vì vậy, trong những
năm qua, ngoài cơ quan quản lý môi trường, nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, điều
tra cơ bản của nhiều ngành cũng như một số Trường Đại học ở nước ta đã quan tâm
đến ứng dụng công nghệ viễn thám để thực hiện nhiệm vụ này như các Viện Địa lý,
Địa chất, Vật lý, Nghiên cứu biển thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
Quốc gia, Trung tâm Viễn thám, Liên đoàn Bản đồ Địa chất thuộc Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Viện Điều tra và Quy hoạch rừng thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội),… Các cơ
quan này đã tiến hành nhiều thử nghiệm, dưới dạng các đề tài nghiên cứu, các dự án về
sử dụng ảnh vệ tinh để điều tra khảo sát các đối tượng, hiện tượng liên quan đến môi
trường (hoặc từ góc độ môi trường) và đã thu được những kết quả ban đầu quan trọng.
d) Sử dụng công nghệ viễn thám trong giám sát khai thác khoáng sản

19


KS. Vũ Đình Thảo thuộc Trung tâm Viễn thám quốc gia (nay là Cục Viễn thám
quốc gia) “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám trong việc giám sát môi trường
sinh thái tại các khu vực khai thác mỏ lộ thiên”.
Phương pháp nghiên cứu chính của đề tài là dựa vào những đặc tính ưu việt của
ảnh viễn thám và bằng các giải pháp kỹ thuật xử lý, phân tích, giải đoán ảnh để phát
hiện những đối tượng môi trường sinh thái bị tác động do việc khai thác khoáng sản
gây ra cùng với sự biến động của chúng. Thông qua nghiên cứu thử nghiệm, việc giám
sát về một số đối tượng có tính nhạy cảm cao với những hoạt động khai thác khoáng
sản như bề mặt địa hình, cảnh quan, thảm thực vật, mạng lưới thủy văn, tài nguyên đất.

Đồng thời, với việc sử dụng kết hợp ảnh viễn thám với mô hình số độ cao để ước tính
diện tích, khối lượng các bãi thải, bãi chứa quặng tại các khu vực khai thác khoáng
sản, phục vụ cho công tác hoàn thổ và hoàn nguyên môi trường. Đề tài này đã thực
hiện theo hướng nghiên cứu ứng dụng phương pháp giám sát mới ở Việt Nam, đảm
bảo khả năng có thể giám sát trên một phạm vi lãnh thổ rộng trong cùng một thời
điểm, khách quan và có khả năng cập nhật, xử lý thông tin nhanh. Ngoài ra, Tổng cục
Địa chất và khoáng sản Việt Nam đã triển khai thực hiện một số đề tài cấp Bộ có liên
quan đến lĩnh vực địa chất, khoáng sản như:
- “Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp phân tích xử lý hiện đại để phân tích
luận giải tài liệu địa vật lý khu vực nhằm khoanh định các diện tích triển vọng khoáng
sản ẩn sâu lãnh thổ Việt Nam (phần đất liền)”. Đề tài này đã xây dựng, hoàn thiện bản
đồ tỷ lệ 1:1.000.000 với các diện tích triển vọng khoáng sản ẩn sâu được đưa ra trên cơ
sở xử lý phân tích tổng hợp tài liệu địa vật lý trong khu vực với các tiền đề cấu trúc sâu
(hệ thống đứt gãy, magma sâu).
- “Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp địa vật lý hiện đại trong đo vẽ địa
chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 và áp dụng thử nghiệm cho nhóm tờ Tân
Biên”. Đề tài đã thu thập, xử lý tổng hợp tài liệu địa vật lý trên cả nước trong thời gian
từ năm 2000 đến nay. Kết quả tổng hợp tài liệu cho phép đánh giá việc áp dụng từng
phương pháp địa vật lý trong các nhóm tờ và rút ra những vấn đề tồn tại của các
phương pháp địa vật lý đã ứng dụng. Đề tài đã xây dựng 7 quy trình ứng dụng tổ hợp
phương pháp địa vật lý hiệu quả cho 7 nhóm đối tượng địa chất, khoáng sản, môi
trường, tìm hiểu nguyên nhân gây tai biến địa chất trong đo vẽ địa chất và điều tra
khoáng sản tỷ lệ 1:50.000.
Hiện nay, ảnh viễn thám với ưu điểm nổi bật là cho thông tin với diện tích bao
phủ rộng lớn, tiết kiệm thời gian và kinh phí cho việc giám sát, kiểm soát thường
xuyên cũng như định kỳ có độ phân giải cao.
Ảnh Landsat đã được thu nhận từ năm 1972 đến náy, với ảnh Landsat 8 có độ
phân giải tới 15 m với diện tích phủ mặt đất của một cảnh ảnh là 185 km x 185 km và
thời gian chụp lặp tại một vị trí trên trái đất là 16 ngày một lần thì tính hữu dụng trong
nhận biết biến động các khu vực khai thác khoáng sản là rất cao.

Đặc biệt, ảnh SPOT 5, 6, 7 và ảnh VNREDSat – 1 với khả năng chụp lặp
(revisit time) và khả năng chụp lập thể là cơ sở hữu hiệu để chiết tách thông tin, xác
định chính xác các dấu hiệu và khoanh định các khu vực khai thác khoáng sản với độ
chính xác cao về các hoạt động khai thác khoáng sản một cách nhanh chóng. Hiện nay,
ảnh VNRESat-1 là ảnh viễn thám được thu nhận tại Cục Viễn thám quốc gia có khả
năng chụp lặp tại một vị trí trên trái đất có thể đạt được 3 ngày một lần, có thể chủ
động theo dõi, giám sát một cách thường xuyên và liên tục tại những vị trí cần giám sát
với tần suất cao và cho kết quả chính xác. Với việc chủ động như vậy thì việc giám sát
diễn biến khai thác khoáng sản sẽ được thực hiện một cách khách quan, phạm vi rộng,

20


chính xác và kịp thời.
Từ năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cho phép triển khai thực hiện đề
tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám theo dõi, kiểm soát hoạt động khai
thác khoáng sản. Thử nghiệm phát hiện hoạt động khai thác khoáng sản trái ở một số
vùng” do Cục Viễn thám Quốc gia chủ trì, thực hiện.
Đến thời điểm hiện nay, phần lớn những nội dung của đề tài trên đã được tập
thể tác giả thực hiện và có những kết quả đáng ghi nhận.
Chúng tôi sẽ tiến hành thu thập những kết quả của các đề tài nêu trên, lựa chọn
những giải pháp để đề xuất nhằm cải thiện và tăng cường hiệu quả của công tác giám
sát hoạt động khai thác khoáng sản.
Trong phạm vi đề tài này, tập thể tác giả sẽ sử dụng kết quả nghiên cứu về công
nghệ giám sát của các đề tài trên đây và một số nghiên cứu trên thế giới để từ đó đề
xuất áp dụng công nghệ giám sát phù hợp với Việt Nam hiện nay.
* Người thực hiện:
ThS. Nguyễn Đức Thu - Thành viên chính, chủ trì
ThS. Nguyễn Duy Bình - Thành viên, tham gia
ThS. Lê Minh Huệ - Thành viên, tham gia

TS. Quách Đức Tín - Thành viên, tham gia
* Sản phẩm hoàn thành: Báo cáo kết quả nghiên cứu công nghệ giám sát tiên
tiến và đề xuất áp dụng
Nội dung 6. Nghiên cứu xây dựng những chức năng cơ bản của hệ thống
giám sát trực tuyến phục vụ quản lý, giám sát hoạt động khai thác khoáng sản
Trong điều kiện hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước được giao nhiệm vụ giám
sát hoạt động khoáng sản có số lượng hạn chế về nhân sự, kinh phí cấp cho hoạt động
thanh tra, kiểm tra (hình thức thực hiện công tác giám sát) còn hạn chế, các mỏ khai
thác chủ yếu nằm ở vùng sâu vùng xa, điều kiện đi lại không thuận tiện, việc chuyển từ
hình thức giám sát trực tiếp sang hình thức giám sát gián tiếp sẽ nâng cao năng lực
kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động khoáng sản. Để phục vụ
cho việc chuyển đổi hình thức giám sát, trong phạm vi của đề tài này sẽ nghiên cứu
xây dựng những chức năng cơ bản của hệ thống giám sát trực tuyến phục vụ quản lý,
giám sát hoạt động khai thác khoáng sản. Chức năng cơ bản của hệ thống giám sát trực
tuyến là một hệ thống phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu các giấy phép hoạt động
khoáng sản; các loại bản đồ qui hoạch khoáng sản; các bản đồ hiện trạng khai thác
khoáng sản; các ảnh vệ tinh mua hoặc thu thập được; các báo cáo liên quan đến hoạt
động thăm dò, khai thác khoáng sản các Doanh nghiệp khai thác khoáng sản phải nộp
theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước qua môi trường mạng....
- Thu thập, tổng hợp, nghiên cứu nhu cầu quản lý nhằm xây dựng cấu trúc
CSDL của hệ thống giám sát trực tuyến
- Xây dựng CSLD: thiết kế cấu trúc hệ thống, các trường dữ liệu, cấu trúc dữ
liệu, liên kết dữ liệu, siêu dữ liệu.
- Chuẩn bị dữ liệu chuẩn (mẫu), nhập dữ liệu mẫu (bao gồm dữ liệu không gian
và phi không gian)
- Xác định các yêu cầu của hệ thống, các trường hợp sử dụng CSDL
- Thiết kế hệ thống
- Xây dựng phần mềm quản lý CSDL
- Kiểm thử


21


- Biên tập dữ liệu
- Nhập dữ liệu
Hệ thống giám sát trực tuyến hoạt động khoáng sản phải được xây dựng cho
phép quản lý đa cấp và thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Hệ thống có các
nhóm đối tượng tham gia gồm:
+ Nhóm quản trị nội dung: Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam phụ
trách (Cục Kiểm soát Hoạt động khoáng sản miền Bắc) là đơn vị quản lý hệ thống. Có
toàn quyền tổng hợp và xử lý các thông tin dữ liệu được cập nhật vào hệ thống.
+ Nhóm tổng hợp, cập nhật dữ liệu: Các cơ quan quản lý khoáng sản tại địa
phương, các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản
+ Nhóm khai thác: Ngoài các đối tượng thuộc 2 nhóm trên, các tổ chức, cá nhân
có nhu cầu cũng sẽ được khai thác dữ liệu khi được cấp quyền.
Hệ thống cơ sở dữ liệu phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản như sau:
- Hệ thống phải được thiết lập trên nền tảng hệ quản trị CSDL lớn, đa người
dùng, hỗ trợ mạng và có tính ổn định cao.
- Hệ thống phải có tính mềm dẻo để có thể đáp ứng được những biến động về
thông tin số liệu, về ranh giới hành chính.
- Hệ thống phải được thiết lập để đảm bảo tính an toàn của dữ liệu, có tính ổn
định cao và tốc độ tổng hợp nhanh, hệ thống phải được thiết kế tránh các bước chuyển
đổi CSDL trung gian nhằm đảm bảo thống nhất về cấu trúc CSDL.
- Hệ thống phải có giao diện đẹp, thiết kế trong sáng và dễ sử dụng.
- Sự liên kết giữa các module trong hệ thống phải rõ ràng, tương tác dễ sử dụng.
- Đảm bảo việc bảo mật hệ thống thông qua các phương pháp phân quyền và mã
hóa thông tin.
- Việc cài đặt, vận hành phần mềm phải dễ dàng
- Các máy trạm thao tác thông qua các trình duyệt web.
- Về tài liệu: Đầy đủ và dễ dùng.

* Người thực hiện:
ThS. Nguyễn Huy Phương - Thành viên chính, chủ trì
ThS. Nguyễn Duy Bình - Thành viên, tham gia
TS. Quách Đức Tín - Thành viên, tham gia
Cộng tác viên lập trình
* Sản phẩm hoàn thành: Cơ sở dữ liệu và phần mềm phục vụ công tác giám sát
trực tuyến
Nội dung 7. Áp dụng thử nghiệm quy trình và hệ thống cơ sở dữ liệu tại
một số vùng than Quảng Ninh và khu vực khai thác đá vôi tập trung tại Hà Nam
Sau khi xây dựng CSDL và phần mềm quản lý CSDL, đề tài sẽ tiến hành thống
kê, cập nhật các dữ liệu đối với một số vùng than ở Quảng Ninh và khu vực khai thác
đá vôi tập trung tại Hà Nam; phối hợp với các doanh nghiệp trong địa bàn và phạm vi
nghiên cứu tiến hành thử nghiệm nhằm đánh giá hiệu quả của quy trình quản lý, giám

22


sát hoạt động khoáng sản trước khi đưa vào sử dụng một cách phổ biến.
Kế hoạch công tác phục vụ áp dụng thử nghiệm hệ thống giám sát trực tuyến và
quy trình quản lý, hoạt động khoáng sản dự kiến như sau:
- Đi công tác tại Quảng Ninh: 02 đợt
+ Thành phần: 5 người là tác giả đề tài
+ Thời gian: 7 ngày/đợt
+ Thuê ô tô khảo sát (đi, về, phục vụ khảo sát): 600 km x 12.000 đ/km
+ Công tác phí: 5 người x 15 ngày = 75 người/ngày
+ Nghỉ trọ: 6 ngày/1 đợt x 5 người = 30 người/ngày.
- Đi công tác tại Hà Nam: 02 đợt
+ Thành phần: 5 người là tác giả đề tài
+ Thời gian: 7 ngày/đợt
+ Thuê ô tô khảo sát (đi, về, phục vụ khảo sát): 300 km x 12.000 đ/km

+ Công tác phí: 5 người x 15 ngày = 75 người/ngày
+ Nghỉ trọ: 6 ngày/1 đợt x 5 người = 30 người/ngày.
* Người thực hiện:
KS. Phạm Khắc Mạnh - Thành viên chính, chủ trì
KS. Phạm Ngọc Chi - Thành viên chính, tham gia
ThS. Nguyễn Đức Thu - Thành viên chính, tham gia
Cộng tác viên lập trình
* Sản phẩm hoàn thành: Báo cáo kết quả áp dụng thử nghiệm tại một số vùng
than Quảng Ninh và khu vực khai thác đá vôi tập trung tại Hà Nam
17
Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
(Luận cứ rõ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, phương pháp nghiên
cứu, kỹ thuật sẽ sử dụng gắn với từng nội dung chính của đề tài;
17.1 Cách tiếp cận:
(Luận cứ rõ việc lựa chọn cách tiếp cận phù hợp đối tượng nghiên cứu để đạt mục tiêu
đặt ra)
Để đạt được mục tiêu của đề tài, chúng tôi lựa chọn những cách tiếp cận sau:
1. Tiếp cận hệ thống

23


Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, tiếp cận hệ thống là “cách xem xét đối
tượng trong hệ thống như một hệ toàn vẹn phát triển động, trong quá trình sinh thành
thông qua giải quyết những mâu thuẫn bên trong, do những tương tác hợp quy luật
giữa các thành tố của hệ. Vạch ra được bản chất toàn vẹn của hệ thống qua việc phát
hiện ra được: a) cấu trúc của hệ, b) quy luật tương tác giữa các thành tố của hệ, c) tính
toàn vẹn (tính tích hợp).”
Chúng ta có thể xem các quá trình hoạt động khoáng sản là một hệ thống toàn
diện, có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Ngoài ra, cần phải thấy rằng, giám sát các hoạt

động khai thác khoáng sản là một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Trên cơ sở tiếp cận hệ thống, chúng ta có thể xác định được mối quan hệ của
các quá trình hoạt động khoáng sản, sự tương quan của chúng cũng như quy luật biến
đổi của từng yếu tố trong hệ thống hoạt động khoáng sản.
2. Tiếp cận tích hợp
Sự phát triển của khoa học theo chiều hướng phân khoa và chuyên khoa giúp cho nhân
loại ngày càng hiểu một cách tỉ mỉ về vũ trụ bao quanh. Song, hướng phát triển này
làm cho các chuyên gia chuyên sâu một lĩnh vực quá hẹp nên ngày càng mất đi khả
năng bao quát, liên kết và nhìn nhận các sự vật và hiện tượng trong mối liên hệ qua lại
vốn tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội. Để xác định cơ sở khoa học cũng như
thực tiễn trong việc đổi mới quy trình giám sát các hoạt động khoáng sản, chúng ta cần
phải có cách tiếp cận tích hợp, có sự tham gia nghiên cứu của các chuyên gia từ nhiều
chuyên ngành khác nhau, đặc biệt là chuyên ngành địa chất khoáng sản, khai thác mỏ,
môi trường, pháp luật, kinh tế, công nghệ thông tin…
3. Kết hợp nghiên cứu diện với nghiên cứu điểm và thử nghiệm
Đây là cách tiếp cận cần thiết cho đề tài. Trên cơ sở nghiên cứu một cách tổng quan
các hoạt động khoáng sản cũng như ảnh hưởng của chúng đến kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng, môi trường (nghiên cứu diện) nhằm xây dựng được cơ sở khoa học và
thực tiễn cho việc đổi mới quy trình giám sát các hoạt động khoáng sản, đề tài sẽ chọn
một số vùng có trọng điểm (nghiên cứu điểm) để thử nghiệm áp dụng quy trình mới
được xây
17.2 Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng:

.

- Phương pháp kế thừa: Thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các tài liệu từ các
nghiên cứu trước, kế thừa có chọn lọc những tài liệu này.
Các phương pháp nghiên cứu thực hiện đề tài
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa
- Phương pháp điều tra

- Phương pháp kế thừa

24


- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp chuyên gia, hội thảo khoa học
- Các phương pháp công nghệ thông tin: GIS, lập trình, WEB…
- Phương pháp thử nghiệm
17.3. Tính mới, tính độc đáo, tính sáng tạo: (Phân tích, so sánh với các phương pháp
giải quyết tương tự khác và các nghiên cứu trước đây để làm rõ được tính mới, tính
độc đáo, tính sáng tạo của đề tài)
Giám sát là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà nước thông qua
việc theo dõi kiểm tra, đánh giá mức độ, ý thức chấp hành các quy định pháp luật.
Giám sát trước đây được thực hiện thông qua hình thức truyền thống là giám sát gián
tiếp và giám sát trực tiếp. Nội dung giám sát chủ yếu là việc chấp hành các quy định
của Luật khoáng sản như vi phạm về diện tích cấp phép, thiết kế mỏ, bảo đảm các yêu
cầu về an toàn lao động, trách nhiệm đưa mỏ vào khai thác,…..
Với mục tiêu nghiên cứu của mình, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện
nay, dự kiến kết quả của đề tài sẽ góp phẩn chuyển từ cơ chế giám sát bị động sang cơ
chế giám sát chủ động, chủ đầu tư phải tăng cường cập nhật thông tin và định kỳ gửi
về cơ quan quản lý nhà nước thông qua môi trường mạng (online). Thời gian định kỳ
gửi thông tin phải được quy định. Tổ chức, cá nhân tự khai báo những thông tin của
hoạt động thăm dò, khai thác theo hướng dẫn cụ thể và thông qua báo cáo kết quả giám
sát. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tự khai báo và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về thông tin khai báo, giảm sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của doanh
nghiệp.
Trong hoàn cảnh cơ quan quản lý nhà nước được giao nhiệm vụ giám sát hoạt

động khoáng sản có số lượng hạn chế về nhân sự, kinh phí cấp cho hoạt động thanh
tra, kiểm tra (hình thức thực hiện công tác giám sát) còn hạn chế, các mỏ khai thác chủ
yếu nằm ở vùng sâu vùng xa, điều kiện đi lại không thuận tiện, việc chuyển từ hình
thức giám sát trực tiếp sang hình thức giám sát gián tiếp sẽ nâng cao năng lực kiểm
soát của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động khoáng sản, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước, bảo đảm kỷ cương của pháp luật. Tuy
nhiên, để đạt được mực tiêu như mong muốn, cần có cơ chế nhằm nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân, tạo điều kiện cho họ chủ động và tự giác
thực hiện. Ngoài ra, phải có cơ chế khuyến khích để nâng cao vai trò giám sát của
người dân địa phương nơi có khoáng sản.
Kết quả của đề tài sẽ góp phần khuyến khích nhà đầu tư áp dụng công nghệ tiên

25


×