Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG về mối LIÊN hệ PHỐ BIẾN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mối LIÊN hệ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH tế và bảo vệ môi TRƯỜNG SINH THÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.82 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một xã hội với nhiều mối liên hệ không thể tách rời,
những mối liên hệ với con người, với công việc, và đặc biệt là với môi trường sống
xung quanh. Chúng ta tác động vào thế giới tự nhiên, hình thành nên thế giới tự nhiên
mới qua các hoạt động sản xuất, lao động, nghiên cứu khoa học hay sinh hoạt. Có thể
nói rằng, con người không thế tách biệt và cô lập mình ra khỏi môi trường xung
quanh. Con người và thiên nhiên có những mối quan hệ chặt chẽ, đặc biệt trên lĩnh
vực kinh tế khi mà nhu cầu tăng trưởng trở nên cấp thiết với mỗi quốc gia. Nhưng, sự
tăng trưởng quá nhanh của các ngành kinh tế, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa ở
các nước đang phát triển đã để lại những hậu quả không nhỏ tác động lên môi trường
sống. Những vụ phá rừng, khai thác tài nguyên cạn kiệt, xả thải,… đã để lại những nỗi
đau khó có thể hàn gắn lên “Mẹ thiên nhiên”. Những hậu quả của việc tàn phá môi
trường để phát triển kinh tế đã bắt đầu hiện diện trong cuộc sống của mỗi con người và
nó dần trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Vấn đề môi trường đã thực sự trở thành
một vấn đề toàn cầu, tác động đến mọi quốc gia trên thế giới, trong đó một trong
những nước có thể chịu hậu quả nghiêm trọng nhất là Việt Nam. Nói cách khác, để có
được sự phát triển kinh tế trong thời gian ngắn hạn, chúng ta đã phải trả một cái giá
quá đắt bằng chính sự mất đi tính bền vững của nguồn tài nguyên thiên nhiên trong
thời gian dài hạn.
Đó chính là mâu thuẫn cơ bản giữa phát triển kinh tế và môi trường sống. Mặc dù
đó là hai mâu thuẫn đối lập nhau nhưng mâu thuẫn đó nếu được giải quyết tốt sẽ là
1


động lực để phát triển xã hội. Để giải quyết vấn đề này, một trong những biện pháp
được đưa ra là phát triển kinh tế dài hạn đồng thời chú trọng việc bảo vệ môi trường.
Đó là lý do em chọn đề tài: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỐ BIẾN
VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI.
Bài tiểu luận của em sẽ cố gắng phân tích và làm rõ được mối liên hệ phổ biến
giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường sinh thái, đặc biệt là trong xã hội Việt Nam


hiện nay.
Bài tiểu luận của em được chia thành các nội dung chính như sau:
Chương I: Khái quát phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.
Chương II: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Chương III: Thực trạng mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái và các biện pháp giải quyết.
Với đề tài rộng và không đơn giản như thế này, bài viết của em không tránh khỏi
những sai sót và hạn chế. Rất mong được sự đóng góp ý kiến và chỉnh sửa từ các
giảng viên.

2


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ
MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
I.

Khái quát về phép biện chứng
1. Khái niệm
Biện chứng (hay phương pháp biện chứng, phép biện chứng) là một phương pháp

luận, đây là phương pháp chủ yếu của cả nền triết học phương Đông và phương Tây
trong thời cổ đại. Từ biện chứng ("dialectic") có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ, và trở
nên phổ biến qua những cuộc đối thoại kiểu Socrates của Plato. Phương pháp biện
chứng có nền tảng từ những cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều người với những ý kiến,
tư tưởng khác nhau và cùng mong muốn thuyết phục người khác. Phương pháp này
khác với hùng biện, trong đó một bài diễn thuyết tương đối dài do một người đưa ra một phương pháp được những người ngụy biện ủng hộ. Nhiều dạng khác nhau của
biện chứng nổi lên ở phương Đông và phương Tây theo những thời kỳ lịch sử khác
nhau. Những trường phái chính theo phương pháp biện chứng là trường phái Socrates,
đạo Hindu, đạo Phật, biện chứng Trung cổ, trường phái Hegel và chủ nghĩa Marx.

“ Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” –
Ph. Ăngghen (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002, t.20, tr.20).

3


2. Phép biện chứng duy vật
Phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là một bộ
phận của học thuyết triết học do Karl Marx đề xướng. Đặc trưng của phương pháp duy
vật biện chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và
xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Cốt lõi của chủ nghĩa
duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng.
Marx đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm
Friedrich Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von Feuerbach
và phát triển nên phương pháp luận này. Các nhà triết học Marx-Lenin cho rằng
phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ.
Phép biện chứng đã phát triển qua ba giai đoạn, ba hình thức cơ bản, trong đó giai
đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sang tạo nên phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phép biện chứng duy vật được xem là khoa học nhất, là
học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị , sâu sắc nhất và không phiến diện.
Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật
phổ biến của các quá trình vận động phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật cung cấp những nguyên tắc, phương
pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Ph.Ăngghen đã định
nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” để nhấn mạnh vai trò
của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

4



II.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lí là những điều căn bản nhất của một học thuyết. Phép biện chứng duy

vật có hai nguyên lí cơ bản là nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự
phát triển. Trong đó ở bất kì giai đoạn nào của phép biện chứng, nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến được xem là nguyên lí có ý nghĩa khái quát nhất.
Theo chủ nghĩa Mác -Lênin thì các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện
sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính
quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các
mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác.
Đồng thời cũng qua đó phê phán cách xem xét của các nhà siêu hình học.
“Đối với những nhà siêu hình học thì những sự vật và phản ánh của chúng vào
trong tư duy, tức là những khái niệm đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố
định, cứng đờ vĩnh viễn, phải xem xét từng cái một, cái này sau cái kia, cái này độc
lập với cái kia”— Ăng-ghen
“Quan điểm siêu hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ
giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự hình hành và
tiêu vong của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật và không thấy trạng thái động
của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”— Ăng-ghen
1. Khái niệm
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố
5


của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để

chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời
cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong
đó những mối liên hệ phố biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện
tương của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối
liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái
riêng, bản chất và hiện tượng, v.v… Như vật, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới
vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những
phạm vi nhất định. Đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó
những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều
kiện nhất định.
Vì vậy, có thể nói rằng giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những
mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất
định. Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối
liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất
định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong
tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong
giới tự hiên, xã hội và tư duy.
3. Nội dung và tính chất của mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác-Lênin là
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự
vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú,
6


có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều này
“Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được
chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự
phát triển lâu dài và khó khăn của Triết học và khoa học tự nhiên”— Ăng-ghen
Theo Hồ Chí Minh thì: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, là một nguyên tắc

căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ
bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
 Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự
vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
 Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở
bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những
sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một
thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần,
những yếu tố khác.
 Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện
tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ
biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ
bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v..
Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động
của sự vật, hiện tượng.
7


Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn
tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính
trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới

CHƯƠNG II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

I.

Tăng trưởng kinh tế và những điều cần biết

1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu
người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao
động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là
trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách
chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên
thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế.
8


4. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước
đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển
kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là
nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở
mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.
 Nguồn nhân lực:
Chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ
lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác
như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng
nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi
đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế

nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc
dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn
có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức,
"một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai,
tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ
năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn
nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."[2]

 Nguồn tài nguyên thiên nhiên
9


Là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là
đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên
có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một
trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó
như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy
luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc
gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên
nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ
cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.

 Tư bản
Là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động
được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động)
và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy
sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn,
những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao
và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho
sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương

mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như
không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do
chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện
quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....

 Công nghệ
10


Trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao
chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá
trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng
một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản
xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như
vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không
chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một
cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho
phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.

III.

Môi trường sinh thái
1. Khái niệm môi trường sinh thái
Sinh thái được hiểu là nhà ở, nơi cư trú, sinh sống trong khi môi trường là một tổ

hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của một hệ thống nào đó. Qua
đó có thể hiểu môi trường sinh thái là “bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh có
liên quan đến sự sống”. Đối với con người, môi trường sinh thái là toàn bộ các điều
kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ, có mối liên hệ tới sự sống của con người,

sự tồn tại và phát triển của xã hội.
5. Vai trò của môi trường sinh thái
Môi trường cung cấp cho ta không gian để sống, nguồn tài nguyên để sản xuất và
cũng chính là nơi chứa đựng rác thải. Vì vậy, bảo vệ môi trường cũng là bảo vệ sự
11


sống của chúng ta. Bảo vệ môi trường sinh thái là giữ cho môi trường luôn trong lành,
sạch đẹp, đảm bảo cân bằng sinh thái, cải thiện môi trường, đồng thời ngăn chặn khắc
phục hậu quả xấu do con người và thiên nhiên tạo ra, khai thác và sử dụng hợp lí
nguồn tài nguyên. Đây chính là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách của mỗi quốc gia, là sự
nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của bất kì tổ chức cá nhân nào. Có bảo vệ tốt thì
cuộc sống chúng ta mới phát triển tốt đẹp bền vững và lâu dài.
Thứ hai, như đã nói ở trên, môi trường sinh thái hay các nguồn tài nguyên thiên
nhiên đóng vai trò là một trong những yếu tố then chốt và quyết định ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế.
6. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái qua
pháp biện chứng
Môi trường sinh thái là toàn bộ các điều kiện vô cơ, hữu cơ của các hệ sinh thái
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội loài người. Nó là
những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát
triển trong quan hệ với con người. Nhưng ngược lại, tăng trưởng kinh tế chỉ nhằm cải
thiện và phát triển đời sống con người . Chính vì vậy, giữa môi trường sinh thái và
tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ :

Tăng trưởng kinh tế
(tồn tại chủ quan)

Tác động qua lại


Môi trường sinh thái
(Tồn tại khách quan

Tác động qua lại

12


Để giải thích hình vẽ trên, như chúng ta đã biết, môi trường sống được sinh ra và
vốn đã tồn tại trong tự nhiên, không thể phủ nhận điều đó, chính vì vậy mà có thể nói
nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Tuy nhiên, sự phát triển của
môi trường lại hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của con người, con người làm chủ sự
phát triển, tác động đến sự vận động, sự thay đổi của môi trường sinh thái. Hay nói
cách khác, chính con người là thứ quyết định đến chiều hướng vận động của môi
trường (tốt hoặc xấu) . Tăng trưởng kinh tế lại được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn
toàn phụ thuộc vào con người nên có thể nói rằng nó tồn tại chủ quan. Môi trường chịu
sự tác động trực tiếp của con người, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào con người
=>> môi trường cũng chịu tác động của tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Hai yếu tố
này thống nhất với nhau về mục đích trong quá trình phát triển một chỉnh thể là tự
nhiên-xã hội. Điều đó được thể hiện qua một số khía cạnh như sau:
 Về tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên: nước giàu và nghèo có một sự
chênh lệch về việc nhìn nhận mức độ tiêu dùng nguồn tài nguyên. Cụ thể, đối
với nước giàu thì sự phát triển kinh tế bền vững phải gắn với cắt giảm đáng kể
mức độ tiêu dùng lãng phí về năng lượng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên
trong khi nước nghèo chỉ chú tâm vào việc khai thác để xuất thô một cách cạn
kiệt. Phát triển kinh tế giúp nâng cao đời sống người dân đồng thời cũng nâng
cao nhận thức con người, ý thức bảo vệ môi trường tăng lên.
 Về bầu khí quyển: tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho con người tạo nên
những máy móc, công cụ sản xuất ít gây ảnh hưởng đến môi trường. Các khu
13



công nghiệp đang dần cố gắng giảm thiểu lượng khí thải bay vào bầu khí quyển.
Nhiều nhà máy, khu xử lí rác thải được xây dựng cũng góp phần không nhỏ vào
công cuộc bảo vệ môi trường.
 Về môi trường nước: kinh tế càng phát triển, hệ thống xử lí nước sạch càng hiện
đại, máy móc xử lí rác thải giúp giảm lượng rác đổ ra biển, hồ, sông…Kinh tế
phát triển nguồn nước cũng được bảo vệ an toàn.
Như vậy, xét về một khía cạnh nào đó thì phát triển kinh tế đã tác động tích cực
đến bảo vệ môi trường.
Ngược lại, môi trường sinh thái trong lành, ổn định cũng là điều kiện, cơ sở và
động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế vì:
 Môi trường sinh thái trong lành giúp con người cảm thấy thoải mái, hưng phấn
trong cuộc sống, đảm bảo sức khoẻ tốt cũng là cách để làm việc hiệu quả.
 Bảo vệ môi trường sinh thái tạo nên môi trường sống ổn định, phát triển bền
vững nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chính là phát triển nền kinh tế lâu dài.
Từ đó, có thể thấy sự phát triển kinh tế xã hội một cách tiến bộ khi có sự kết hợp
hài hoà giữa hai mục tiêu là phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
Mặc dù vậy, thực trạng đang dần chứng tỏ mặt mâu thuẫn trong mối liên hệ của
hai vấn đề trên. Trên thế giới, nền kinh tế đang phát triển chóng mặt, chính điều đó kéo
theo nhiều hệ luỵ xấu và mối hiểm hoạ đến môi trường. Tài nguyên không phải là vô
hạn, nếu chỉ tăng trưởng kinh tế mà không cải tạo môi trường thì sẽ đến lúc tăng
trưởng phải dừng lại do sự suy thoái của môi trường. Đó cũng là lúc con người phải
gánh chịu hậu quả do chính họ gây ra. Ngược lại nếu tăng trưởng kinh tế đồng
14


hành với bảo vệ môi trường thì không những đời sống con người ngày càng được
cải thiện mà chính môi trường cũng được cải thiện do khi nền kinh tế phát triển ngân
sách cho những dự án bảo vệ sinh thái tăng lên, nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dần

được thay thế bằng những nguồn tài nguyên mới do con người tự tạo nên.

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT
I.

Thực trạng môi trường sinh thái hiện nay
Sau công cuộc cách mạng công nghiệp nền kinh tế thế giới như được thay da đổi

thịt với tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kì của nhiều nước. Nhưng mọi vấn đề đều luôn
có mặt trái của nó. Con người đã phá hỏng sự cân bằng của trái đất.
Trên hành tinh Xanh của chúng ta, ở đâu ta cũng dễ dàng nhận thấy dấu hiệu của
sự ô nhiễm môi trường: từ những biến đổi của khí hậu khiến thời tiết trở nên khắc
nghiệt bất thường, những cơn mưa axit phá hủy các công trình kiến trúc có giá trị, gây
tổn thương hệ sinh thái, đến sự suy giảm tầng ôzôn khiến tăng cường bức xạ tia cực
tớm…
Chúng ta đang phải đối mặt với 3 vấn đề phổ biến đó là sự nóng lên của Trái Đất,
sự ô nhiễm biển và đại dương cùng với sự hoang mạc hóa:
 Nhiệt độ trung bình của Trái Đất hiện nay nóng hơn gần 40 độ C so với nhiệt độ
trong kỷ băng hà gần nhất, khoảng 13. 000 năm trước. Tuy nhiên trong vòng
100 năm qua, nhiệt độ trung bình bề mặt Trái Đất tăng khoảng 0, 6-0, 7 độ C và
dự báo sẽ tăng 1, 4-5, 8 độ C trong 100 năm tới.

15


 Ấm lên toàn cầu có những tác động sâu sắc đến môi trường và xã hội. Một trong
những hệ quả tất yếu của sự gia tăng nhiệt độ của trái đất là sự gia tăng mực
nước biển, gia tăng cường độ các cơn bão và các hiện tượng thời tiết cực
đoan,suy giảm tầng ụzôn, thay đổi ngành nông nghiệp, và làm suy giảm ụxy
trong đại dương.Tốc độ ấm lên toàn cầu ở thế kỷ XXI nhanh hơn so với sự thích

ứng của các loài sinh vật, vì vậy một số loài có khả năng tuyệt chủng.
 Biển và đại dương đang ngày đêm kêu cứu vì ô nhiễm trầm trọng. Hàng năm,
khoảng 50 triệu tấn chất thải rắn đổ ra biển gồm đất, cát, rác thải, phế liệu xây
dựng, chất phóng xạ... Bên cạnh đó, rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu của các tàu thuyền
thường chiếm 50% nguồn ô nhiễm dầu trên biển.
Thông qua những con số biết nói sau đây, ta có thể thấy được hiện trạng ô nhiễm
ở Việt Nam do phát triển kinh tế
 Hàng năm có khoảng 100.000 tấn hoá chất bảo vệ thực vật được sử dụng, nhưng
khoảng 80% sử dụng không đúng quy định, như việc thu gom, lưu giữ và xử lý
bao bì chưa tốt, nhiều nơi thải bỏ ngay tại đồng ruộng gây ảnh hưởng môi
trường.
 Hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000 mét khối nước thải/ngày đêm và
615 cụm công nghiệp, trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải
tập trung; các cụm công nghiệp còn lại, hoặc các cơ sở sản xuất tự xử lý nước
thải hoặc xả trực tiếp ra môi trường.
 Cùng với đó là hơn nửa triệu cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất
ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu; hơn 13.500 cơ sở y tế hàng
ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 mét khối nước thải y tế;
16


787 đô thị với 3 triệu mét khối nước thải ngày/đêm nhưng hầu hết chưa được xử
lý; lưu hành gần 43 triệu mô tô và trên 2 triệu ô tô tạo ra nguồn phát thải lớn đến
môi trường không khí.
 Ngoài ra, còn có hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, 7 triệu tấn chất thải rắn công
nghiệp, hơn 630 nghìn tấn chất thải nguy hại. Hiện có 458 bãi chôn lấp rác thải,
trong đó có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt
công suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí dioxin, furan…
Những con số đó dẫn đến điều gì?
 1000000 chim biển, 100. 000 thú biển và rựa biển bị chết do bị vướng hay bị

nghẹt thở bởi các loại rác plastic.
 30-50% lượng CO2 thải ra từ quá trình đốt các nhiên liệu hóa thạch bị đại
dương hấp thụ, việc thay đổi nhiệt độ sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu
CO2 của các phiêu sinh thực vật và sau đó làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái.
 60% các rạn san hô đang bị đe dọa bởi việc ô nhiễm.
 60% bờ biển Thái Bình Dương và 35% bờ biển Đại Tây Dương đang bị xói mòn
với tốc độ 1m/ năm
 Nếu con người cũn xem biển cả là một bói rác khổng lồ có thể chứa đủ thứ chất
thải, môi trường đại dương sẽ còn bị hủy hoại trầm trọng hơn nữa chứ không chỉ
như tình trạng hiện nay.
 Mỗi năm, sa mạc Sahara tiến dần về phía Nam với tốc độ 45 km/ năm. Cao
nguyên Madagasca - nơi được xem là kho báu về đa dạng sinh học nhưng giờ
đây 7% đất đai là đất cằn đồi trọc. Tại Kazakhstan, kể từ năm 1980, 50% diện
tích đất trồng trọt đã bị bỏ hoang vì quá cằn trong tiến trình hoang mạc hóa.
 Đa dạng sinh thái bị suy giảm, đất đai trở nên bạc màu không thể canh tác là hai
ảnh hưởng chủ yếu của quá trình hoang mạc hóa. Tình trạng này đang đe dọa
17


cuộc sống của gần 1 tỉ người trên Trái Đất. Châu Phi có thể chỉ nuôi được 25%
dân số vào năm 2025 nếu tốc độ hoang mạc húa ở lục địa đen tiếp tục như hiện
nay.

IV.

Giải pháp khắc phục
Ngày nay, người ta chấp nhận rằng tăng trưởng trong nền kinh tế thế giới là cách

khả thi duy nhất để đối phó với vấn đề đói nghèo, đồng thời thừa nhận việc tiếp tục đi
theo các mô hình tăng trưởng kinh tế trước đây - quá chú trọng đến phát triển kinh tế

đơn thuần sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường trầm trọng và quay lại ảnh hưởng
trực tiếp đến triển vọng kinh tế trong tương lai. Một mô hình tăng trưởng mới luôn coi
trọng sự phụ thuộc và tương tác lẫn nhau của nền kinh tế với môi trường mà không
làm giảm triển vọng kinh tế trong tương lai gọi là phát triển bền vững. Phát triển bền
vững phụ thuộc vào tình hình phát triển quy mô dân số của con người, các hình thức
tiêu dùng, và các công nghệ được sử dụng trong sản xuất.
Vì vậy , đảm bảo một sự cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế với đòi hỏi
bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tái tạo môi trường, vừa đáp ứng được nhu
cầu sử dụng của thế hệ hiện tại trong tăng trưởng và phát triển, vừa không làm phương
hại gì đến nhu cầu và khả năng ứng dụng các nguồn tài nguyên của các thế hệ tương
lai là một yêu cầu bức thiết. Thực hiện sự phát triển “bình đẳng và cân đối” về tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sẽ chấm dứt tình trạng đi kèm với lợi nhuận tăng
cao là cái giá phải trả bằng tính mệnh của người dân bị đe doạ do ô nhiễm môi trường
từ tăng trưởng kinh tế. Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ về pháp luật của các
cơ sở công nghiệp
18


Cụ thể, nhất là đối với những nước đang phát triển, chúng ta cần có nhiều biện
pháp thắt chặt quản lí và thực hiện nghiêm túc luật môi trường trong hoạt động kinh tế.
 Khuyến khích sử dụng công nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng lượng,
nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải.
 Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng và vận
hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
 Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển công
nghiệp
 Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thoát nước, xử lí nước thải công
 nghiệp trước khi thải ra môi trường.
 Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công nghiệp,
chất thải y tế và các loại chất thải khác.

 Thực hiện chủ chương xanh hoá đô thị và khu công nghiệp, xây dựng hành lang
xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân cư.
 Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các mặt hàng
nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, nguyên vật liệu, các giống
mới…
 Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo sự phát
triển bền vững.
 Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho người sử
dụng cũng như cho đất trồng.
 Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái
Ngoài ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước, chúng ta cần:





Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khoán rừng
Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép
Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật
Khai thác gỗ hợp lí
19


 Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để công tác kiểm lâm
được chặt chẽ hơn, ngoài ra cán bộ kiểm lâm cần có những chính sách ưu đãi
hơn
 Khai thác dầu hợp lí
 Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường

20



KẾT LUẬN
Việt Nam đang đi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục tiêu cơ bản nhất của
mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống
người dân. Vấn đề cấp bách được đặt ra là sự cân bằng tăng trưởng kinh tế với việc
bảo vệ môi trường, không thể đánh đối sự phát triển kinh tế trong ngắn hạn với tương
lai dài hạn. Mối liên hệ phổ biển và thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường được đặt ra nhằm để mọi người có được những định hướng đúng đắn trong
nhận thức và hành động để bảo vệ môi trường sống của chúng ta. Tất cả các bài học
kinh nghiệm đã rút ra trong quá trình quy hoạch phát triển trước đây cần phải được
vận dụng triệt để cho quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh được những hậu
quả có thể xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất cho quá trình phát triển kinh tế. Do đó,
bảo vệ môi trường và tăng trưởng kinh tế có sự thống nhất. Có phát triển mới có kinh
phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ môi trường và có bảo vệ môi trường mới đảm bảo sự
phát triển lâu dài và ổn định.
Bài tiểu luận của em còn nhiều vấn đề thiếu sót, mong các giảng viên và các bạn
đóng góp để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

21



×