Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.33 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới khách quan không chỉ là một tập hợp của các thành tố đơn lẻ, rời rạc
mà là một chỉnh thể thống nhất với vô số những mối liên kết,ảnh hưởng lẫn nhau của
các bộ phận cấu thành lên chỉnh thể ấy. Môi trường với tư cách là nơi tiến hành mọi
sự vận động của sự sống, dĩ nhiên cũng là đầu mối quan trọng của rất nhiều mối liên
hệ mang quyết định sự tồn vong của loài người. Con người không ngừng cải tạo
thiên nhiên nhằm phục vụ những nhu cầu của mình. Hoạt động đó phát triển ở bậc
cao được gọi là hoạt động kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một mặt
nó nâng cao đời sống của người dân nhưng mặt khác nó đang gây một sức ép mạnh
mẽ lên môi trường tự nhiên (không gian và thời gian cũng là đối tượng của hoạt
động kinh tế). Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, đi kèm những kết quả về
kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi sự bền vững của các
nguồn tài nguyên về lâu dài. Hai thập kỷ phát triển nhanh chóng ở Việt Nam cũng là
khoảng thời gian của sự gia tăng ô nhiễm đất, không khí, nước, nạn phá rừng,… Hậu
quả là gia tăng của các dịch bệnh, thiên tai… Làm thế nào để đảm bảo một tương lai
phát triển bền vững đã trở thành vấn đề bức thiết hiện nay. Chính vì vậy tôi quyết
chọn đề tài này để nghiên cứu.
Với nghiên cứu " Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích
mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam ", tôi muốn
góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc tìm kiếm con đường phát triển của
Việt Nam trong những năm tới nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển
trong khu vực và trên thế giới.

1


I. KHÁI QUÁT PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Sự ra đời của phép biện chứng
Phép biện chứng ra đời ngay từ khi triết học ra đời. Phép biện chứng có ba
hình thức cơ bản trong quá trình phát triển của triết học, đó là phép biện chứng chất
phác, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.


Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển,
nên các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, mang tính trực quan, cảm
tính để khái quát bức tranh chung của thế giới và đưa ra phép biện chứng chất phác.
Do thiếu căn cứ khoa học, phép biện chứng này đã bị phép siêu hình, xuất hiện từ
nửa cuối thế kỉ XV thay thế.
Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong
triết học của Hêghen - một đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức ở cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX. Với một hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật cơ bản,
Hêghen đã là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm. Tính
chất duy tâm trong phép biện chứng của Hêghen thể hiện ở chỗ: Ông coi “ý niệm
tuyệt đối” có trước và trong quá trình vận động phát triển, “ý niệm tuyệt đối” tha hóa
thành giới tự nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần.
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó, dựa trên
cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử
loài người cũng như thực tiễn xã hội vào giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, về sau được
V.I.Lênin phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện
chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau trong phép biện chứng ấy. Chính vì vậy
nó đã khắc phục được những hạn chế, thiếu sót của phép biện chứng chất phác thời
cổ đại và phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng
2


đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện
thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên
lý khái quát nhất. Theo định nghĩa của Ph.Ăngghen: “phép biện chứng chẳng qua chỉ
là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự

nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Cũng trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các
mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên
hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới,
nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
2.2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau,
tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong
bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của
con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt
3


động thực tiễn của mình.
Cũng theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay
quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác.
Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc
hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó,
tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Đó chính là
tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật và hiện tượng.
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ khẳng định tính
khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa

dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện
ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ
thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt
khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Quan điểm về tính phong phú, đa dạnh của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên
hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều
kiện không gian và thời gian cụ thể.

2.3. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với
các sự vật hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận
thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm
4


phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản
chất hay về tính quy luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn
cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó
với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý
có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
Đồng thời, từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng
thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình
huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối

tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác
định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống
cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý
các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải
tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục
quan điểm chiết trung, ngụy biện.

5


II. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI
1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Môi trường sinh thái là toàn bộ các điều kiện vô cơ, hữu cơ của các hệ sinh
thái ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội loài người.
Nó là những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại,
phát triển trong quan hệ với con người. Còn tăng trưởng kinh tế nhằm cải thiện và
phát triển đời sống của con người.
Vì vậy giữa môi trường sinh thái và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ biện
chứng chặt chẽ. Như chúng ta đã biết môi trường sống được sinh ra và tồn tại trong
tự nhiên, vì vậy có thể nói nó tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức con
người.
Tuy nhiên sự phát triển của môi trường lại hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của
con người, con người có thể tác động làm cho môi trường tốt lên hoặc xấu đi. Tăng
trưởng kinh tế lại được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn toàn phụ thuộc vào con
người nên nó tồn tại chủ quan. Môi trường chịu tác động trực tiếp của con người,
tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào con người từ đó ta có thể thấy môi trường cũng
chịu tác động của tăng trưởng kinh tế và ngược lại, mối quan hệ giữa chúng được
thông qua một thực thể đó là con người.
Môi trường là địa bàn để tăng trưởng kinh tế hoạt động vì tăng trưởng kinh tế

diễn ra trên diện rộng và cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho lợi
ích của con người. Nhưng tài nguyên của môi trường không phải là vô hạn.
Nếu chỉ tăng trưởng kinh tế mà không nghĩ đến việc cải tạo môi trường thì
một ngày nào đó tăng trưởng kinh tế phải dừng lại do môi trường bị suy thoái. Lúc
đó con người phải gánh chịu hậu quả do chính con người gây ra. Một sản phẩm do
con người tạo ra lại phá huỷ cái mà con người chịu tác động trực tiếp vì con người
6


không thể sống mà không chịu sự tác động của môi trường. Ngược lại, nếu tăng
trưởng kinh tế gắn với việc bảo vệ môi trường thì không những nó làm cho đời sống
của con người ngày càng được cải thiện mà nó còn làm cải thiện cả môi trường do
kinh tế phát triển nhà nước có ngân sách cho những dự án bảo vệ môi trường, nguồn
tài nguyên bị khai thác được thay thế dần bởi các nguồn tài nguyên tự tạo.

2. Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với môi trường sinh thái.
2.1. Trong nông nghiệp
Nước ta là một nước có nền kinh tế xuất phát điểm là nông nghiệp và cho đến
nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên, nông sản và
hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản và hàng hoá nông lâm, thuỷ hải sản
chiếm tới 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Nước ta đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này hứa hẹn nhiều cơ
hội cho Việt Nam đẩy mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của thị trường
quốc tế.Tuy nhiên đi đôi với sự gia tăng này của các hoạt động sản xuất là khả năng
gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ngày càng lớn.
Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài nguyên không tái tạo được và
việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhằm phục vụ xuất khẩu
có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta trong tương lai. Mặt khác, các
ngành nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cũng có nhiều cơ hội để thâm canh, gia
tăng sản lượng dẫn đến việc phá huỷ tài nguyên thiên nhiên do khai thác, trồng trọt

và chăn nuôi không hợp lí. Để tăng sản lượng các loại rau, củ, quả… người nông dân
thường phun các loại chất kích thích, phân bón, thuốc trừ sâu…

7


Trình độ nhận thức và chuyên môn của người dân còn thấp, thêm vào đó đội
ngũ cán bộ nông nghiệp còn chưa nhiều vì vậy người nông dân chưa ý thức được
hành động của họ sẽ dẫn đến hậu quả gì. Việc sử dụng các loại hoá chất và sau đó
vứt ngay các loại vỏ, bao đựng trên ruộng trước tiên gây ô nhiễm nguồn nước sau là
gây nguy hiểm cho những người sử dụng các loại rau, củ, quả đó.
Thực tế là trong năm 2002, ở miền Bắc, giá nhãn và vải đã mất giá nghiêm
trọng do Trung Quốc không nhập khẩu vì hàng chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất
lượng… Sử dụng hoá chất không được phép trước tiên là gây ô nhiễm nguồn nước,
không tiêu thụ được hàng hoá, sau cùng là gây ra thoái hoá đất- một sự mất mát rất
lớn.

2.2. Trong công nghiệp
Thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, kể từ năm 1986 Việt
Nam bước vào công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới này được tiến hành toàn diện,
trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như đổi mới tư duy, hệ thống kinh tế,
chính sách, thể chế quản lí hành chính… Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam chuyển từ
nền kinh tế chỉ huy, tập chung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong gần hai thập kỷ qua, thực hiện chủ trương và đường lối đổi mới nền
kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to lớn. Chính sách đổi mới đã mang
lại những thay đổi, tạo ra một nền kinh tế năng động, một xã hội văn minh, công
bằng và dân chủ. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trung bình hơn 7%/năm.
Đặc biệt trong công nghiệp, tăng trưởng công nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có

0,6% năm 1980 tăng lên đến 6,07% năm 1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung
8


bình 12,9%/năm, trong đó thời kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt
17%/năm. Tỷ trọng công nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng công
nghiệp hoá, từ mức 22,7% GDP năm 1991 tăng lên 36,6% năm 2000.
Sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá trong những năm qua một mặt là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân nhưng mặt
khác nó đã ít nhiều bộc lộ những mặt trái của nó mà nếu không có biện pháp bảo vệ
cụ thể thì trong tương lai không xa chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả
nghiêm trọng do chính chúng ta gây ra.
Theo ước tính hiện nay nước ta có khoảng trên 60.000 công ty và doanh
nghiệp tư nhân, hơn 4.500 hợp tác xã phi nông nghiệp và trên 2 triệu hộ kinh doanh
cá thể. Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh đó,
hiện nay trên cả nước tổng lượng chất thải rắn ước tính khoảng 49.000 tấn/ngày,
trong đó chất thải rắn công nghiệp chiếm khoảng 27.000tấn/ngày.
Việc quản lý chặt chẽ chất thải rắn nguy hại đang gặp nhiều khó khăn, không
có đủ kho chứa đủ tiêu chuẩn để lưu giữ các chất thải độc hại trước khi xử lí, không
có nhà máy xử lí chất thải độc. Phần lớn chất thải rắn nguy hại này thuần tuý chỉ
được chôn chung lẫn lộn với rác thải sinh hoạt hay thậm chí đổ ngay tại nhà máy gây
mối nguy hại rất lớn đối với môi trường sống.
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các cơ sở doanh nghiệp thường
thải ra một lượng nước thải khá lớn. Đặc biệt là khoảng hơn 90% cơ sở sản xuất cũ
chưa có thiết bị xử lí nước thải. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp nếu có tiến hành xử
lí thì chỉ xử lí sơ bộ rồi thải thẳng ra nguồn nước mặt, gây ô nhiễm trầm trọng đối
với nhiều dòng sông. Tiêu biểu cho trường hợp này là trong năm 2009, nhà máy sán
xuất tinh bột Vedan đã thải hàng nghìn tấn nước thải chưa qua xử lí ra sông Thị Vài,
gây ô nhiễm nguồn nước sông nghiêm trọng và làm ảnh hưởng đến sức khỏe của
người dân sống trong khu vực gần con sông này.

9


Trong nhiều trường hợp, nuớc thải ứ đọng lâu ngày còn gây ô nhiễm không
khí, mất mỹ quan, lan truyền bệnh dịch và nhiều tác động tiêu cực khác. Nước thải
công nghiệp chính là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm cho môi trường đô
thị.
Khí thải của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất cũng là vấn đề cần bàn tới. Ô
nhiễm môi trường không khí chủ yếu do các ngành nhiệt điện, công ngiệp hoá chất
gây nên. Ví dụ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung bình tại các điểm đo
đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần.
Tại nhà máy nhiệt điện Uông Bí, nồng độ bụi đo trong 1 giờ từ 4 đến 4,7
mg/m3, gấp 13 đến 16 lần trị số cho phép. Nồng độ các chất khí độc hại khác như
CO2, NO2, SO2… trong không khí xung quanh nhiều nhà máy và khu công nghiệp
đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Điều này đã gây tác động xấu đối
với mùa màng và sức khoẻ của nhân dân của cả một vùng rộng lớn xung quanh các
khu vực nhà máy.
Tuy trong thời gian qua, phần lớn các nhà máy đã trang bị thiết bị xử lí bụi
nhưng số lượng các nhà máy có thiết bị xử lí khí độc hại cón rất ít mà chủ yếu được
thải thẳng ra ngoài không khí, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng phát triển thì nhu cầu khai thác các
thành phần môi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất ngày
càng tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát triển và môi trường
đồng thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài nguyên, mất cân bằng sinh thái và
suy giảm chất lượng môi trường. Nạn khai thác gỗ trái phép gây ra sự suy giảm
nghiêm trọng độ che phủ của rừng. Nếu như năm 1945 độ che phủ nước ta đạt 43%
thì tính đến tháng 12 năm 2000 độ che phủ rừng chỉ còn 29, 8% và đang ngày càng
bị thu hẹp.
10



Còn nhiều nhiều vấn đề ô nhiễm do công nghiệp gây ra như việc nhập khẩu
các thiết bị lạc hậu từ nước ngoài, hay tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất… mà trong
phạm vi bài tiểu luận triết học của mình em không thể trình bày hết được, trên đây là
những vấn đề mà theo em là cấp thiết và cần có hướng giải quyết kịp thời.

2.3. Trong dịch vụ
Trước tình hình tăng trưởng kinh tế, các phương tiện thông tin, giao thông vận
tải ngày càng dễ dàng và thuận tiện. Đây là điều kiện để hoạt động du lịch phát triển
trở nên nhanh chóng. Ngành du lịch nước ta hãy còn rất nhỏ bé so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên trong 10 năm qua, cùng với quá trình đổi
mới và chuẩn bị hội nhập nền kinh tế thế giới, du lịch nước ta cũng đã có những
bước phát triển ban đầu.
Năm 2001 toàn ngành đón 2,33 triệu lượt khách quốc tế, tăng gần 9% so với
năm 2000, vượt kế hoạch 6% so với năm 2000. Du lịch phát triển tạo nhiều công ăn
việc làm cho dân cư và thu được một lượng ngoại tệ lớn cho ngân sách quốc gia. Tuy
nhiên cũng như sự phát triển trong công nghiệp và nông nghiệp, hoạt động du lịch
cũng đang tác động đến môi trường về nhiều mặt.
Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diện tích đất đai bị khai phá để xây dựng
cơ sở hạ tầng như làm đường giao thông khách sạn, các công trình thể thao, các khu
vui chơi giải trí. Điều đó gây phá hoại hoặc tổn thất tới cảnh quan thiên nhiên, các hệ
sinh thái.
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước, đặc biệt là
các chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn, nhà hàng, các hoạt động vận tải
thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta, tình trạng rác thải bừa bãi tại các
điểm du lịch, vui chơi giải trí còn phổ biến, điều đó không những ảnh hưởng tới vệ
11



sinh công cộng và môi trường mà còn gây cảm giác khó chịu cho du khách.
Khi hoạt động du lịch nhộn nhịp lên thì đó cũng là điều đe doạ tới chất lượng
không khí. Trước hết là ô nhiễm không khí do giao thông vận tải. Du khách có thể đi
bằng đường bộ hoặc máy bay. Tuy nhiên không giống như ô tô, xe máy… ô nhiễm
do máy bay ít được nhận thấy trực tiếp. Thế nhưng đây lại là phương tiện gây ô
nhiễm trực tiếp lên tầng ôzôn.
Sự phát triển du lịch còn tạo nên mối đe doạ tới các hệ sinh thái như phá
những khu rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mất hoặc chia cắt nơi cư
trú của các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để sản xuất các
sản phẩm phục vụ khách du lịch như tiêu bản các loại thú rừng, hoa lan rừng, tắc kè,
đồi mồi, san hô… tại nhiều điểm du lịch của nước ta.
Ngoài ra việc khai thác hải sản biển cũng đang ở mức báo động. Đánh cá ven
bờ giảm một cách đáng kể và số thuyền đánh cá đã tăng lên một cách nhanh chóng
do có sự khuyến khích của chính phủ. Việc khai thác dầu không hợp lí cũng là một
trong những nguyên nhân gây ô nhiễm biển.

3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường
Thực tế cho thấy, đi kèm với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta
đang phải gánh chịu những hậu quả do chính chúng ta gây ra.
Trong vòng 7 năm trở lại đây, các thảm hoạ tự nhiên như bão xoáy, lụt lội, hạn
hán…ngày càng tăng nhanh cả về tần suất lẫn cường độ như bão lụt ở miền Trung,
cháy rừng ở U Minh… đã cướp đi sinh mạng của nhiều người, thâm hụt vào ngân
sách quốc gia hàng trăm tỷ đồng - một con số không nhỏ đối với một quốc gia còn
nghèo như Việt Nam.
12


Ngoài ra, đi đôi với sự suy giảm môi trường, các bệnh về thời tiết cũng gia
tăng, thiệt hại người do các bệnh về đường nước tăng như sốt rét, tiêu chảy... Các
bệnh liên quan đến đường ruột như bệnh giun, bệnh sán máng, giun trong máu… các

bệnh về hô hấp như viêm phổi, ung thư phổi… Cuộc sống của con người đang bị đe
doạ nghiêm trọng.

4. Giải pháp giải quyết
Trong nhiều năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nhất định trên bước
đường hội nhập: Việt Nam là thành viên của Tố chức Liên Hợp Quốc, thành viên
ASEAN, APEC và mới đây đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Đây là cơ
hội lớn để chúng ta khẳng định thực lực của đất nước, đồng thời cũng là thách thức
đối với nước nhà đặc biệt trong vấn đề bảo vệ môi trường. Để khắc phục được điều
này, chúng ta cần phải:
- Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ về pháp luật của các cơ sở công
nghiệp.
- Khuyến khích sử dụng công nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng
lượng, nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải.
- Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng và
vận hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
- Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển công
nghiệp.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thoát nước, xử lí nước thải công nghiệp
trước khi thải ra môi trường.
- Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công
nghiệp, chất thải y tế và các loại chất thải khác.
- Thực hiện chủ chương xanh hoá đô thị và khu công nghiệp, xây dựng hành
13


lang xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân cư.
- Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các mặt
hàng nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, nguyên vật liệu, các giống
mới…

- Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo sự phát
triển bền vững.
- Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho người
sử dụng cũng như cho đất trồng.
- Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái.
- Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khoán rừng.
- Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép.
- Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật.
- Khai thác gỗ hợp lí.
- Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để công tác kiểm
lâm được chặt chẽ hơn, ngoài ra cán bộ kiểm lâm cần được hưởng những chính sách
ưu đãi hơn.
- Khai thác dầu hợp lí.
- Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm.
- Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường.

14


KẾT LUẬN
Công cuộc CNH-HĐH đất nước là nhiệm vụ chiến lược của dân tộc ta nhằm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa với bản chất là một
bước phát triển về hình thái kinh tế xã hội phải chứng tỏ sự vượt trội của mình trong
việc cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo sự sống trường tồn bền
vững. Do đó sự gắn bó thống nhất hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan thể hiện bản chất của quá trình CNH HĐH ở nước ta. Nhận thức đày đủ và đúng đắn mối liên hệ biện chứng này là đòi hỏi
bức thiết trong từng khâu từ hoạch định chủ trương chính sách phát triển kinh tế- xã
hội, tổ chức thực hiện lẫn kiểm tra giám sát. Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra
trong quá trình quy hoạch phát triển trước đây cần phải được vận dụng triệt để cho
quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh được những hậu quả có thể xảy ra và

đảm bảo hiệu quả cao nhất cho quá trình phát triển kinh tế. Bảo vệ môi trường không
bao giờ đồng nghĩa với từ bỏ phát triển kinh tế mà trái lại là để đảm bảo sự phát triển
bền vững dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý có hiệu quả tài nguyên, nguồn lực của đất
nước. Ngược lai phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất để bảo vệ tốt hơn môi
trường sống. Bảo vệ môi trường không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực và nguyên
tắc của phát triển kinh tế. Đây là một biểu hiện sinh động của mối liên hệ phổ biến
trong thế giới khách quan.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2009
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, năm 2004
3. T.s Trần Thanh Lâm, Một tiếp cận mới trong quản lý thương mại và bảo vệ
môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Xây dựng, số 3, 2002.
4. Nhiều tác giả, Bảo vệ môi trường trên quan triển điểm phát bền vững, Tạp chí
Bảo vệ môi trường, số 6, 2002.
5. Trang web: />
16



×