Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.36 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển là một xu thế chung của từng cá nhân và của cả loài người trong quá trình sống. Kinh tế
và xã hội phát triển, một mặt khiến cho đời sống của người dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt, nhưng
mặt khác đang trực tiếp gây sức ép nghiêm trọng lên vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Có thể nói, ô
nhiễm môi trường, gia tăng mức tiêu thụ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên,… chính là những
chi phí cơ hội cho sự phát triển của quá trình phát triển kinh tế.
Môi trường và hệ sinh thái đóng vai trò vô cùng quan trọng, cần thiết và không thể phủ nhận
trong sự sống và phát triển của chúng ta. Và chính yếu tố con người tạo nên nền kinh tế cùng những hoạt
động cho sự phát triển; con người cũng đóng vai trò tác động vào tự nhiên theo hai chiều hướng tích cực
và tiêu cực. Như vậy, nếu chúng ta quá chú trọng đến phát triển kinh tế đơn thuần sẽ làm nảy sinh nhiều
vấn đề môi trường trầm trọng và quay lại ảnh hưởng trực tiếp đến triển vọng kinh tế trong tương lai. Nói
cách khác, tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ mội trường là hai phạm trù khác nhau nhưng có mối liên
hệ tác động qua lại mật thiết và đều hướng về lợi ích chung là con người.
Xuất phát từ thực tế khách quan đó, việc cân bằng giữa hoạt động phát triển kinh tế và bảo vệ hệ
sinh thái tự nhiên là vô cùng quan trọng và cần được nghiên cứu chính xác. Đã nhiều lần câu hỏi này
xuất hiện trong tôi: “Chẳng lẽ để nền kinh tế một quốc gia phát triển buộc phải đánh đổi bằng sự suy
giảm nghiêm trọng của tài nguyên và môi trường sinh thái?” Và tôi quyết định chọn đề tài "Phép biện
chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái". Tôi muốn đưa vấn đề tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái vào
quan điểm triết học của phép biện chứng duy vật và nguyên lý mối liên hệ phổ biến để chúng ta có cái
nhìn khái quát hơn về vấn đề này. Tôi hy vọng rằng bằng nghiên cứu của tôi nói riêng và những nghiên
cứu đóng góp triển vọng khác sẽ giúp ích cho sự phát triển nhanh chóng, vững bền của nền kinh tế Việt
Nam, phục vụ cho nhu cầu, quyền sống và phát triển của con người.
Trong quá trình làm tiểu luận sẽ không tránh khỏi những thiếu xót về nội dung và ngôn từ, rất
mong quý thầy cô và bạn bè giúp đỡ. Tôi xin chân thành cảm ơn!


PHẦN NỘI DUNG
I.

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN



1. Phép biện chứng và hình thức cơ bản của phép biện chứng
1.1. Khái niệm biện chứng và phép biện chứng
Trong chủ nghĩa Marx - Lenin, biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ,
tương tác, chuyển hóa, vận động và phát triển theo quy luật của sự vật hiện tượng trong tự
nhiên xã hội và tư duy. Biện chứng bao gồm: biện chứng khách quan (biện chứng của thế
giới vật chất) và biện chứng chủ quan (phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý
thức con người).
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới (cả
thế giới vật chất và tinh thần) thành hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù khoa học
nhằm xác định hệ thống phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
1.2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Triết học ra đời từ thời cổ đại đã đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng và trải qua
ba trình độ cơ bản.
Khởi đầu là phép biện chứng chất phác cổ đại, như là học thuyết “biến dịch luận”,
“âm – dương” của Trung Quốc (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến
trong vũ trụ), “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của
các tố chất bản thể trong xã hội) của Âm dương gia, hay trong triết học đạo Phật với các
phạm trù “vô ngã”, “vô thường” của triết học Ấn Độ,… và trong rất nhiều các học thuyết
Hy Lạp cổ đại khác.
Từ thế kỷ XVIII, khi khoa học tự nhiên chuyển mình từ việc nghiên cứu đối tượng
riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối liên hệ thì
phép biện chứng mới ra đời. Đó là phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức do Kant khởi
đầu, sau đó được hoàn thiện bởi Hegel. Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những
tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống; và họ, mà đỉnh
cao nhất là Hegel, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật
chung, có logic chặt chẽ của ý thức và tinh thần.
Ngày nay, phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng duy
vật. K.Marx và F.Engel đã khắc phục tính chất duy tâm để sáng tạo nên phép biện chứng
duy vật - được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý, những quy luật

được khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ,
sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc phục được
những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh
thể thống nhất, giữa các bộ phận của nó có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác
động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không
2


ngừng vận động và phát triển. Hơn nữa phép biện chứng duy vật còn sửa được sai lầm của
phép biện chứng duy tâm khách quan thời cổ đại mà đại biểu là Hegel – đại diện lỗi lạc
của phép biện chứng. Hegel cho rằng sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là
sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Phép biện chứng duy vật đã
chứng minh rằng: những ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua là sự phản ánh của
các sự vật hiện thực khách quan, do đó bản thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn thuần là
sự phản ánh có ý thức của sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan. Như
vậy phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và
sự phát triển chung nhất của thế giới.
Phương pháp biện chứng khác biệt hoàn toàn với siêu hình khi nhìn sự vật hiện
tượng riêng biệt hay toàn thể khi so sánh với các sự vật hiện tượng khác, trong trạng thái
vận động hay đứng im tương đối và trong quá trình tồn tại, phát triển và diệt vong. Là
phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học, có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện
chứng duy vật) nên không dừng lại ở giải thích mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo
thế giới; phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung quan trọng trong thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Marx – Lenin, đồng thời là thế giới
quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực nghiên cứu
khoa học.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Khái niệm về mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động

và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi
sự vật, hiện tượng trong thế giới. Còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối liên
hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.
2.2. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật khẳng định các mối liên hệ có ba tính chất cơ bản đó là
tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của mối liên hệ.
Đầu tiên, tính khách quan: quan điểm biện chứng duy vật cho rằng các sự vật, hiện
tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại,
thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Trong đó liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, là
điều kiện tiền quyết để tồn tại cho nhau, là sự quy định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau
của các mặt, các yếu tố, các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan. Nó tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chỉ của con người; con người chỉ có thể
nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn.
Tính chất thứ hai là tính phổ biến. Những người theo quan điểm duy vật biện chứng
khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng chính là tính thống
nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, không có sự vật, hiện tượng nào hay quá
3


trình nào tồn tại biệt lập với các sự vật hiện tượng này hay quá trình khác; dù có đa dạng,
khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau
của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật,
giữa các sự vật với nhau, trong toàn bộ vũ trụ, trong mọi không gian và thời gian. Và các
sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất khi đạt đến nguyên lý đồng nghĩa với việc sẽ xảy
ra ở tất cả các sự vật, hiện tượng.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ
biến của sự liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa
dạng, phong phú của sự liên hệ qua lại đó. Tính chất này của mối liên hệ thể hiện ở chỗ:
các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau,
giữ vị trí và vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một

mối liên hệ nhưng trong những điều kiện khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác
nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định.
2.3. Ý nghĩa của phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó phản ánh
tính thống nhất của vật chất và thế giới. Các sinh vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa
dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng khác nhau
của một thế giới duy nhất đó là thế giới vật chất.
Xét dưới góc độ nhận thức lí luận, nó là cơ sơ lí luận của quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải
xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với
các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu
quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến
diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật vẫn có thể là phiến diện, nếu chúng ta đánh giá ngang nhau
những thuộc tính, những tính quy định khác nhau của sự vật được thẻ hiện trong những
mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự
tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Và phương pháp luận cần tôn trọng
khách quan và xem xét sự vật đúng như nó tồn tại trên thực tế. Nhưng quan điểm toàn
diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những quy định khác nhau của sự
vật hay hiện tượng đó, nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, cái quan trọng nhất của
sự vật hay hiện tượng đó. Phương pháp luận cần phát huy tính năng động chủ quan của ý
thức con người.
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết
hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể. Sự vật, hiện tượng nào cũng có quá trình hình thành
4



tồn tại, biến đổi và phát triển, mỗi giai đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ
riêng đặc trưng cho nó. Cho nên khi xem xét sự vật vừa phải xem xét quá trình phát triển
của nó, vừa phải xem xét trong từng điều kiện quá trình. Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu
cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét
đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác
nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể
trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả
trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những
cần tránh và khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục
quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Quan điểm lịch sử là khi xem xét một sự vật hiện tượng cần đánh giá, xét xem nó
mang tính vĩnh viễn hay lịch sử, và nếu nó mang tính lịch sử, thì đâu là những điều kiện đã
khiến nó phát sinh, phát triển rồi tiêu vong (ngôn ngữ biện chứng gọi các điều kiện đó là
các “tính quy định lịch sử”). Cùng với đó, quan điểm cụ thể là khi đề cập tới một sự vật,
hiện tượng nào đó, thì không được nói chung chung, mà phải chỉ rõ: sự vật, hiện tượng đó
đang ở mức độ phát triển nào, trong điều kiện cụ thể nào, với những thuộc tính cụ thể nào.
Như vậy, quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động
vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự
vật sinh ra tồn tại và phát triển.

5


II. VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI
1. Các khái niệm
1.1. Tăng trưởng kinh tế

Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội
liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với
một nguồn lực có giới hạn. Nói cách khác, kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều
kiện sống của con người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái hiện sản xuất.
Tăng trưởng kinh tế là là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định. Trong đó, tổng sản phẩm quốc nội là giá trị thị
trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh
thổ nhất định trong một thời kỳ nhất định. Còn tổng sản phẩm quốc gia là tổng giá trị bằng
tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một
khoảng thời gian nhất định, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước).
1.2. Môi trường sinh thái
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh
hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: ánh sáng,
không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. Môi trường là nơi cung
cấp các nhu cầu về tài nguyên cho con người như đất, đá, tre, nứa, tài nguyên sinh vật. Tất
cả các tài nguyên này đều do môi trường cung cấp và giá trị của tài nguyên phụ thuộc và
mức độ khan hiếm và giá trị của nó trong xã hội. Môi trường cũng là nơi chứa đựng, đồng
hóa các chất thải của con người trong quá trình sử dụng các tài nguyên thải vào môi
trường.
Môi trường sinh thái là không gian sống của con người và sinh vật. Trong quá trình
tồn tại và phát triển con người cần có các nhu cầu tối thiểu về không khí, độ ẩm, nước, nhà
ở cũng như các hoạt động vui chơi giải trí khác. Tất cả các nhu cầu này đều do môi trường
cung cấp. Tuy nhiên khả năng cung cấp các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và
phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia và ở từng thời kì.
2. Phân tích mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Môi trường sinh thái là những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay
một sinh vật tồn tại, phát triển trong quan hệ với con người. Còn tăng trưởng kinh tế nhằm
6



cải thiện và phát triển đời sống của con người. Vì vậy giữa môi trường sinh thái và tăng
trưởng kinh tế có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ.
2.1. Tác động của môi trường sinh thái đến tăng trưởng kinh tế
Môi trường sống của con người được hình thành trước khi con người xuất hiện, tồn
tại trong tự nhiên và như vậy độc lập hoàn toàn với ý thức của con người. Môi trường là
không gian sống cho con người và thế giới sinh vật. Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi một
người đều cần một không gian nhất định để phục vụ cho các hoạt động sống như: nhà ở,
nơi nghỉ, nơi để sản xuất... Như vậy chức năng này đòi hỏi môi trường phải có một phạm
vi không gian thích hợp cho mỗi con người. Không gian này lại đòi hỏi phải đạt đủ những
tiêu chuẩn nhất định về các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, cảnh quan và xã hội. Yêu cầu
về không gian sống của con người thay đổi tuỳ theo trình độ khoa học và công nghệ. Tuy
nhiên, trong việc sử dụng không gian sống và quan hệ với thế giới tự nhiên, có 2 tính chất
mà con người cần chú ý là tính chất tự cân bằng, nghĩa là khả năng của các hệ sinh thái có
thể gánh chịu trong điều kiện khó khăn nhất và tính bền vững của hệ sinh thái.
Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản
xuất của con người. Trong lịch sử phát triển, loài người đã trải qua nhiều giai đoạn: bắt
đầu từ khi con người biết canh tác cách đây khoảng 14 - 15 nghìn năm, vào thời kỳ đồ đá
cho đến khi phát minh ra máy hơi nước vào thế kỷ thứ XVII, đánh dấu sự khởi đầu của
công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực. Nhu cầu của con người về các
nguồn tài nguyên không ngừng tăng lên về cả số lượng, chất lượng và mức độ phức tạp
theo trình độ phát triển của xã hội. Chức năng này của môi trường còn gọi là nhóm chức
năng sản xuất tự nhiên gồm:
 Rừng tự nhiên: có chức năng cung cấp nước, bảo tồn tính đa dạng sinh học và độ
phì nhiêu của đất, nguồn gỗ củi, dược liệu và cải thiện điều kiện sinh thái.
 Các thuỷ vực: có chức năng cung cấp nước, dinh dưỡng, nơi vui chơi giải trí và các
nguồn thuỷ hải sản.
 Động - thực vật: cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguồn gen quý hiếm.
 Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, nước, gió: có chức năng duy trì các hoạt

động trao đổi chất.
 Các loại khoáng sản: cung cấp năng lượng và nguyên liệu cho các hoạt động sản
xuất...
Một chức năng khác của môi trường là chứa đựng các chất phế thải do con người
tạo ra trong quá trình sống. Các chất thải dưới tác động của vi sinh vật và các yếu tố môi
trường khác sẽ bị phân huỷ, biến đổi từ phức tạp thành đơn giản và tham gia vào hàng loạt
các quá trình sinh địa hoá phức tạp. Trong thời kỳ sơ khai, khi dân số của nhân loại còn ít,
chủ yếu do các quá trình phân huỷ tự nhiên làm cho chất thải sau một thời gian biến đổi
nhất định lại trở lại trạng thái nguyên liệu của tự nhiên. Sự gia tăng dân số thế giới nhanh
chóng, quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá làm số lượng chất thải tăng lên không ngừng
dẫn đến chức năng này nhiều nơi, nhiều chổ trở nên quá tải, gây ô nhiễm môi trường. Khả
năng tiếp nhận và phân huỷ chất thải trong một khu vực nhất định gọi là khả năng đệm của
khu vực đó. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng đệm, hoặc thành phần chất thải có nhiều
chất độc, vi sinh vật gặp nhiều khó khăn trong quá trình phân huỷ thì chất lượng môi
trường sẽ giảm và môi trường có thể bị ô nhiễm. Chức năng này có thể phân loại chi tiết
như sau:
7


 Chức năng biến đổi lý - hoá học: phân huỷ hoá học nhờ ánh sáng, hấp thụ, tách
chiết các vật thải và độc tố
 Chức năng biến đổi sinh hoá: hấp thụ các chất dư thừa, chu trình nitro và carbon,
khử các chất độc bằng con đường sinh hoá
 Chức năng biến đổi sinh học: khoáng hoá các chất thải hữu cơ, mùn hoá, amol hoá,
nitrate hoá và phản nitrate hoá.
Môi trường trái đất cũng được xem là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con
người. Bởi vì chính môi trường trái đất là nơi:
 Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử trái đất, lịch sử tiến hoá của vật chất và sinh
vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.
 Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tín chất tín hiệu và báo động

sớm các hiểm hoạ đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như phản ứng
sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiện tượng tai
biến tự nhiên, đặc biệt như bão, động đất, núi lửa…
 Cung cấp và lưu giữ cho con người các nguồn gen, các loài động thực vật, các hệ
sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có giá trị thẩm mỹ để thưởng
ngoạn, tôn giáo và văn hoá khác.
 Bảo vệ con người và sinh vật khỏi những tác động từ bên ngoài. Các thành phần
trong môi trường còn có vai trò trong việc bảo vệ cho đời sống của con người và
sinh vật tránh khỏi những tác động từ bên ngoài như: tầng ozon trong khí quyển có
nhiệm vụ hấp thụ và phản xạ trở lại các tia cực tím từ năng lượng mặt trời.
Tuy nhiên xã hội loài người càng phát triển thì sự phát triển của môi trường lại càng
phụ thuộc nhiều hơn vào ý thức của con người. Con người thay đổi môi trường để phù hợp
với điều kiện sống của mình, một mặt có thể làm tốt lên mặt khác lại có thể vô tình hay cố
ý phá hoại môi trường. Kinh tế được tạo ra, duy trì và phát triển bởi con người nên sự tăng
trưởng kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của con người nên tăng trưởng kinh tế
tồn tại chủ quan. Môi trường chịu tác động trực tiếp của con người, tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc vào con người nên từ đó ta thấy tăng trưởng kinh tế và môi trường sinh thái tác
động qua lại với nhau thông qua một thực thể trung gian đó là con người. Môi trường là
địa bàn để tăng trưởng kinh tế hoạt động vì tăng trưởng kinh tế diễn ra trên diện rộng và
cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho lợi ích của con người. Nhưng tài
nguyên của môi trường không phải là vô hạn. Nếu chỉ tăng trưởng kinh tế mà không nghĩ
đến việc cải tạo môi trường thì một ngày nào đó tăng trưởng kinh tế phải dừng lại do môi
trường bị suy thoái. Lúc đó con người phải gánh chịu hậu quả do chính con người gây ra.
Con người tạo ra sản phẩm từ những tài nguyên từ thiên nhiên, nên khi con người khai
thác tài nguyên làm phá hủy môi trường thì chính môi trường sống của con người bị phá
hoại, tức là con người chịu tác động trực tiếp. Ngược lại, nếu tăng trưởng kinh tế gắn với
việc bảo vệ môi trường một cách hợp lý thì không những nó làm cho đời sống của con
người ngày càng được cải thiện mà nó còn làm cải thiện cả môi trường do kinh tế phát
triển nhà nước có ngân sách cho những dự án bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên bị khai
thác được thay thế dần bởi các nguồn tài nguyên tự tạo.

2.2. Tác động của tăng trưởng kinh tế đến bảo vệ môi trường sinh thái

8


Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ là nguồn động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, tăng năng suất lao động và làm việc có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, các
vấn đề cải tạo môi trường, sử dụng nguồn nước sạch cũng được chú trọng và đẩy nhanh để
giúp ích cho quá trình lao động sản xuất trong thời gian lâu dài. Tăng trưởng kinh tế giúp
tăng cao mức thu nhập và chất lượng cuộc sống của dân cư được cải thiện rõ rệt, giảm tỉ lệ
mắc các loại bệnh tật cũng là yếu tố quan trọng giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Chất
lượng giáo dục từ đó cũng đi lên, con người được nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường,
thúc đẩy nghiên cứu các biện pháp bảo vệ môi trường, sử dụng nguyên liệu sạch; xây
dựng các khu xử lý chất thải; đầu tư phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên, động thực vật
quý hiếm,…
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích của việc tăng trưởng kinh tế mang lại cho hệ
sinh thái còn tồn tại những vấn đề nghiêm trọng. Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở vô cùng
quan trọng để phát triển kinh tế nhưng đang bị khai thác quá mức và hết sức bừa bãi. Các
loại tài nguyên như: khoáng sản, rừng, đất, nước, năng lượng,… đều bị sử dụng dẫn đến
tình trạng cạn kiệt suy thoái, làm mất cân bằng sinh thái, giảm cân bằng sinh học và ảnh
hưởng xấu đến môi trường. Chẳng hạn như khai thác dầu mỏ với các thiết bị không đảm
bảo chất lượng sẽ dẫn đến tình trạng tràn dầu gây lãng phí tài nguyên thiên nhiên và ô
nhiễm môi trường nước.
Sự xuất hiện của các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp đang hàng ngày hàng giờ
thải ra môi trường hàng tấn chất thải độc hại chưa qua xử lý, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường đất, nước, không khí,… và sức khỏe của con người, gây ra các bệnh về
đường hô hấp, tiêu hóa, thần kinh, các loài sinh vật sống trong môi trường ô nhiễm sẽ
không thể thích nghi và mất dần đi, dẫn tới mất cân bằng sinh thái.
Tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình sản xuất và năng suất lao động đồng
nghĩa với việc sử dụng thêm nhiều phân bón, thuốc trừ sau, chất hóa học,.. gây hại cho

môi trường, đặc biệt là môi trường đất rất khó để cải tạo. Kinh tế phát triển đi đôi với dịch
vụ du lịch mở rộng, đất nông nghiệp, đất trồng rừng bị cắt xén để làm các khu vui chơi
giải trí, bên cạnh đó lượng khách du lịch đổ về các địa điểm danh lam thắng cảnh cùng
khu di tích lịch sử đông đúc thiếu sự quản lý chặt chẽ gây ra việc xả rác làm ô nhiễm môi
trường.
Cuối cùng, tăng trưởng kinh tế gây sức ép lên vấn đề đô thị hóa, gia tăng dân số
cùng sự tăng nhanh về số lượng của các phương tiện giao thông khiến môi trường trở nên
quá tải và ô nhiễm nặng nề.
3. Một số giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề nêu ra
Để tránh việc sản xuất tràn lan chất lượng thấp phá hủy môi trường và để cân bằng
giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:
 Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ về pháp luật của các cơ sở công nghiệp,
đồng thời đẩy mạnh việc hoàn thiện, cập nhật về luật bảo vệ môi trường của chính
phủ, đưa vấn đề môi trường vào hiến pháp.
9


 Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên rừng: đẩy mạnh trồng rừng, giảm nguy cơ
cháy rừng, săn bắn trộm, quản lý bền vững các vùng đệm; tài nguyên đất: cải tạo
các vùng đất bị suy thoái, huấn luyện người dân bảo vệ đất; tài nguyên biển: có các
hình thức xử phạt nặng khi khai thác trái phép hoặc tổ chức gây ô nhiễm môi
trường, nâng cao chất lượng đời sống cho người dân vùng biển, phát triển nuôi
trồng thủy sản, giảm lãng phí trong đánh bắt; tài nguyên nước ngọt: có các tiêu
chuẩn về nước thải thành phố, giảm thiểu việc sử dụng hóa chất gây ô nhiêm;…
 Duy trì, bảo vệ đa dạng sinh học
 Khuyến khích sử dụng công nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng lượng,
nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải.
 Bắt buộc các nhà máy đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng và vận hành hệ
thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
 Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển công nghiệp.

 Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thoát nước, xử lí nước thải công nghiệp trước
khi thải ra môi trường.
 Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công nghiệp, chất
thải y tế và các loại chất thải khác.
 Thực hiện chủ chương xanh hoá đô thị và khu công nghiệp, xây dựng hành lang
xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân cư.
 Lực lượng hải quan cần làm tốt khâu kiểm tra quản lý các phương tiện máy móc cũ
nhập về từ nước ngoài trong khâu bảo đảm về môi trường.
 Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo sự phát triển
bền vững.
 Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho người sử
dụng cũng như cho đất trồng, đề ra quy định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
 Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái.
Ngoài ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước của chúng ta cần:












Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khoán rừng.
Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép.
Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật, các hệ sinh thái nguyên sinh còn sót lại.
Lực lượng kiểm lâm cần được tăng cường và không ngừng đổi mới trang bị để có

thể đối phó với các tình trạng chặt phá rừng bừa bãi góp phần bảo vệ diện tích rừng
hiện có.
Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm.
Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp
truyền thông, giáo dục hoặc cưỡng ép.
Lập các quỹ hoạt động vì môi trường nhằm khắc phục, phòng tránh và xử lý các
vấn đề về môi trường.
Đề ra các quy định về khí thải cho phương tiện giao thông, quy định về bảo vệ môi
trường với các công trình xây dựng.
Sử dụng công nghệ mới dần thay thế các nhà máy nhiệt điện.
Quản lý lượng khí thải, đánh thuế vào lượng khí thải thải ra của mỗi doanh nghiệp,
dừng hoặc thu hồi giấy phép hoạt động của các công ty vi phạm.
10


 Hợp tác với các tổ chức quốc tế về môi trường nhằm cải thiện và nâng cao chất
lượng môi trường, chủ động tham gia các hiệp định, thỏa thuận về bảo vệ môi
trường.

11


LỜI KẾT
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá về phép biện chứng và nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến để vận dụng vào phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
môi trường sinh thái, ta thấy rõ việc tìm ra giải pháp để cân bằng hai yếu tố này là vô cùng
cần thiết. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, cần đặt vấn đề môi trường lên hàng đầu và
đáng lưu tâm để hướng tới phát triển bền vững và vững bền.
Việt Nam đang bước những bước nhanh và mạnh trên con đường công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu của chúng ta là phát triển kinh tế xã hội, ổn định chính trị – xã hội, bảo đảm an
ninh quốc phòng, nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy vậy, việc phát triển kinh tế cần
phải có sự bền vững và lâu dài, không nên vội vàng. Lấy bài học của Trung Quốc làm ví
dụ: Tốc độ phát triển thần kỳ của Trung Quốc đưa quốc gia 1,6 tỷ dân này lên đứng vị trí
thứ 2 thế giới. Thế nhưng để đánh đổi lại, Trung Quốc là quốc gia có mức độ ô nhiễm môi
trường nặng nề trên thế giới. Việc kiểm soát môi trường không được chặt chẽ khiến môi
trường ở đây vô cùng ô nhiễm đặc biệt là ở các thành phố lớn, khiến bệnh hô hấp, da liễu,
… bùng phát. Từ những bài học kinh nghiệm như thế, chúng ta cần phải phát triển kinh tế
theo hướng bền vững, phát triển một nền kinh tế xanh, sạch, thân thiện với môi trường.
Chúng ta bảo vệ môi trường không phải để kìm hãm phát triển kinh tế mà là để chúng
song song đồng hành, bảo đảm hiệu quả kinh tế, vì cho dù đây là hai mặt đối lập nhau
những chúng luôn bổ sung cho nhau theo quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bảo
vệ môi trường là con đường bền vững và lâu dài duy nhất giúp nền kinh tế chúng ta phát
triển.
Giới trẻ ngày nay, đặc biệt là sinh viên cần có nhận thức đứng đắn về vấn đề này.
Ngay khi ngồi trên giảng đường cần chủ động tìm tòi và cập nhập những xu thế phát triển
và các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, tham gia nghiên cứu khoa học
và tích cực tuyên truyền, thực hiện các chiến dịch bảo vệ môi trường. Mỗi sinh viên mang
trong mình một tiếng nói sẽ góp phần đẩy mạnh, nâng cao ý thức người dân giữ gìn môi
trường trong lành, xanh sạch đẹp hơn.Sinh viên sẽ là một trong những lực lượng lao động
chủ chốt trong nền kinh tế thị trường của đất nước ta sau này nên việc nhận thức được tầm
quan trọng của môi trường sinh thái là vô cùng cần thiết, gắn liền với sự phát triển bền
vững của xã hội trong tương lai.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010 - Tổng quan

môi trường Việt Nam, 27/12/2011.
2. TS. Danh Sơn, Các lợi ích về bảo vệ môi trường ở nước ta, Tạp chí Bảo vệ môi trường,
số 2 năm 2001.
3. PGS TS. Nguyễn Viết Thông, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
Lê-nin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – 2010.
4. Craig Leisher, Môi trường Việt Nam những điều cần làm, Tạp chí Bảo vệ môi trường, số
7, 2001.
5. Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh Hùng, Một vài giải pháp môi trường cho các cơ sở sản
xuất vừa và nhỏ, Tạp chí Bảo vệ môi trường, số 7, 2001.
6. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Quyết định 1739/QĐ-BNN-TCLN năm 2013
về công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2012.
7. Tổng cục Thống kê Việt Nam, Thông cáo báo chí Tình hình kinh tế - xã hội năm 9
tháng cuối năm 2015.
8. Các trang web:
 />%C3%A1o-m%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-qu%E1%BB%91c-gia-n
%C4%83m-2010-T%E1%BB%95ng-quan-m%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB
%9Dng-Vi%E1%BB%87t-Nam-.aspx
 /> /> /> /> />9. Tham khảo thêm tiểu luận về Mối liên hệ phổ biến, Phát triển kinh tế, Bảo vệ môi
trường, mối liên hệ Phát triển kinh tế, vai trò của tăng trưởng kinh tế, vai trò của hệ sinh
thái và Môi trường của nhiều tác giả.

13



×