Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Học thuyết giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.42 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Học thuyết đã vạch trần thực chất
bóc lột tư bản chủ nghĩa và cội nguồn đối lập kinh tế giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản, vũ trang cho giai cấp vô sản lý luận sắc bén trong cuộc
đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa tư bản. Song, ý nghĩa thực tiễn của
học thuyết giá trị thặng dư không dừng lại ở đó.
Trước đây, do đối lập một cách máy móc giữa chủ nghĩa xã hội với
chủ nghĩa tư bản, đã hình thành một quan niệm cho rằng trong chủ nghĩa xã
hội, thậm chí cả trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không còn kinh
tế hàng hóa, càng không còn kinh tế thị trường (trình độ phát triển cao của
kinh tế hàng hóa), do đó cũng không còn phạm trù giá trị và giá trị thặng
dư.
Trên thực tế, học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên
cơ sở nghiên cứu nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hoá tư
bản chủ nghĩa. Cho nên, chính Mác chứ không phải ai khác, là một trong
những người nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Thực chất của nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Nước ta
đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
hiện nay gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền
kinh tế thị trường ở nước ta có tính đặc thù của nó, song đã là sản xuất hàng
hoá thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá
trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế
khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì
vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, nghiên cứu những phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng

1



trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận
của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Lênin đã từng đánh giá: “Giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong học
thuyết kinh tế của Mác”, lời đánh giá này cho thấy nghiên cứu về giá trị
thặng dư là một vấn đề lớn. Với kiến thức còn hạn hẹp, bài tiểu luận với đề
tài: “Học thuyết giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với việc xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay” dưới đây chỉ nêu ra những nội dung cơ bản của học
thuyết giá trị thặng dư, cùng một vài ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi
nghiên cứu vấn đề này và một số ý kiến để vận dụng học thuyết giá trị
thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Bài viết được chia thành hai phần:
I. Học thuyết giá trị thặng dư
II. Ý nghĩa thực tiễn của học thuyết giá trị thặng dư đối với việc xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay.

2


NỘI DUNG
I. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác đồng nghĩa với việc
ta đi nghiên cứu học thuyết giữ vị trí “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận
kinh tế của C.Mác, một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác, làm sáng
tỏ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình nghiên
cứu, những vấn đề sau đây được xem xét:
- Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản
- Hàng hóa sức lao động và hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

- Quá trình sản xuất giá trị thặng dư và bản chất của tư bản
1. Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản
Trước hết, ta đi so sánh hai công thức của lưu thông hàng hóa giản
đơn và công thức chung của tư bản. Trong lưu thông hàng hóa giản đơn,
tiền vận động theo công thức: H-T-H (hàng-tiền-hàng), nghĩa là sự chuyển
hóa của hàng hóa thành tiền, rồi lại chuyển hóa thành hàng hóa. Ở đây, tiền
chỉ là tiền theo đúng nghĩa của nó. Còn tiền được coi là tư bản, thì vận
động theo công thức: T-H-T (tiền-hàng-tiền), tức là sự chuyển hóa của tiền
thành hàng hóa, rồi lại chuyển hóa ngược lại thành tiền.
Bỏ qua những điểm giống nhau dễ nhận thấy về mặt hình thức giữa
hai công thức, ta đi tìm hiểu điểm khác nhau giữa chúng. Khác nhau về mặt
biểu hiện bên ngoài và cả bản chất bên trong: Trong lưu thông hàng hóa
giản đơn, công thức bắt đầu bằng hàng và kết thúc cũng là hàng, tiền chỉ
đóng vai trò trung gian, mục đích cuối cùng của người lao động là thu được
giá trị sử dụng mà mình cần; trong khi đó, trong công thức chung của tư
bản, bắt đầu là tiền và kết thúc cũng là tiền, hàng hóa chỉ làm trung gian,
tiền nếu có được bỏ ra thì cũng chỉ là ứng trước để thu lại sau này, mục
đích cuối cùng là thu được giá trị lớn hơn, khi đó, số tiền ứng ra ban đầu đã
chuyển hóa thành tư bản và công thức chính xác hơn phải là T-H-T’.
3


Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của tư bản
chính là sản xuất ra giá trị thặng dư, nên sự lớn lên của tư bản là không có
giới hạn, vì giá trị là không có giới hạn.
Trong công thức chung T-H-T’ trong đó T’=T+AT. Vậy, giá trị thặng
dư (AT) từ đâu mà có?
C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng
dư, rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư
liệu sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc

phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một
số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho
người chiếm hữu tư liệu sản xuất" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr 23). Giai cấp tư sản bước lên vũ đài
lịch sử cũng là giai cấp độc chiếm tư nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột trong hai hình thái kinh tế – xã hội
trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa
dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ trao đổi những vật ngang
giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này che dấu sự bóc lột trong
một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và bình đẳng, chính vì vậy
mà các nhà kinh tế học trước C. Mác đã không thành công trong việc lý
giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
A. Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài
rằng, mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên
cả hai ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và
nguồn gốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải
được kết tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán
lao động; lao động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể
tự lấy nó để đo lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao
động mà trao đổi ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận,
nhưng thực tế lợi nhuận tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách
4


giải thích đó, quy luật giá trị mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận
và ngược lại.
2. Hàng hóa sức lao động và hai thuộc tính của hàng hóa sức lao
động
Sự vĩ đại của C. Mác là ở chỗ đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán
giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là

mua bán một loại hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động.
Sức lao động của con người chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những
điều liên lịch sử nhất định sau đây:
Thứ nhất, người lao động phải hoàn toàn tự do về thân thể và có
quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa;
Thứ hai, người lao động phải bị tước hết mọi tư liệu sản xuất, buộc
anh ta phải bán sức lao động để sống.
Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông
thường.
Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt tối
thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công nhân và bao hàm
những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… Giá trị sử dụng của hàng hóa
này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một
lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó, dù nhà tư
bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá
thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi nhuận. Như vậy, quy luật
giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau mà song
song tồn tại: Trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang
giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dôi
ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác gọi là giá trị
thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị
thặng dư là quy luật bóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
5


3. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư và bản chất của tư bản
Từ sự nghiên cứu về việc sản xuất ra giá trị thặng dư với ví dụ về nhà
máy sợi, C.Mác rút ra được những kết luận sau:
- Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra do lao động trừu tượng của

người lao động tạo thành và bị tư bản chiếm không;
- Ngày làm việc của người công nhân chia làm hai phần: thời gian lao
động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, việc lao động cũng
tương ứng chia thành lao động tất yếu và lao động thặng dư;
- Việc nghiên cứu về giá trị thặng dư phần nào vạch rõ bộ mặt bóc lột
của tư bản.
Qua nghiên cứu giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác tư bản là
giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công
của công nhân làm thuê. Như vậy, bản chất của tư bản là phản ánh quan hệ
sản xuất xã hội trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai
cấp công nhân sáng tạo ra.
Ngày nay ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển mức sống của đa số
công nhân đã được nâng cao hơn trước rất nhiều, không ít người lao động
đã mua cổ phiếu, xuất hiện tầng lớp trung lưu đông đảo…đã tạo điều kiện
thực tiễn cho nhiều quan điểm phê phán học thuyết giá trị thặng dư của
C.Mác. Họ cho rằng lý luận giá trị thặng dư của C.Mác chỉ đúng trong thời
đại công nghiệp cơ khí với lao động thủ công là chủ yếu là lao động thể
lực, sử dụng cơ bắp là chính, hàng hóa chỉ là hàng hóa vật thể, sản phẩm
của các ngành sản xuất vật chất như công nghiệp, nông nghiệp… Ngày nay
lao động trí tuệ, lao động quản lý trở thành những hình thức lao động có vai
trò lớn; khu vực dịch vụ, các hàng hóa phi vật thể, vô hình chiếm tỷ trọng
lớn trong nền kinh tế thì lý luận giá trị thặng dư của C.Mác không còn đúng
nữa.
Khi nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư tương đối ta thấy rõ nhờ ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng sức sản xuất của lao động trước hết trong những
6


ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, với độ
dài ngày lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu rút ngắn lại, thời

gian lao động thặng dư tăng lên, nhờ đó tăng khối lượng giá trị thặng dư
tương đối, thậm chí còn có thể rút ngắn ngày lao động mà vẫn thu được
khối lượng giá trị thặng dư nhiều hơn trước. Từ đó, đời sống của người lao
động được cải thiện, nhưng mức độ bóc lột lao động không công lại tăng
hơn trước. C.Mác cũng đã từng dự báo, khoa học sẽ trở thành lực lựơng sản
xuất trực tiếp, nhờ khoa học kỹ thuật con người sẽ ngày càng được giải
phóng khỏi những lĩnh vực trực tiếp sản xuất mà sẽ làm chức năng điều
khiển quá trình sản xuất.
Những dự báo đó đã được thời đại ngày nay xác nhận cùng với lao
động thể lực, lao động trí tuệ, lao động quản lý thì đều là nguồn gốc tạo ra
giá trị thặng dư. Hiện tượng người lao động có cổ phiếu, người lao động
nhận được một phần giá trị thặng dư do họ tạo ra thông qua chính sách xã
hội của nhà nước là những hiện tượng vượt ra ngoài quan hệ giữa tư bản và
lao động, mầm mống của những quan hệ kinh tế mới. Tuy nhiên ngày nay
những quan hệ đó vẫn chưa thể làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Trong xã hội tư bản hiện nay, theo đuổi lợi nhuận vẫn là mục tiêu và động
lực của tư bản vẫn thu được những khối lượng lợi nhuận khổng lồ là giá trị
thặng dư do lao động làm thuê tạo ra.
Như vậy, dù đời sống công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển được nâng cao hơn trước rất nhiều, quan hệ bóc lột giá trị thặng dư
vẫn còn tồn tại.

7


II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
Để tìm hiểu ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư trong việc xây

dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các vấn đề sau
được xem xét:
- Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư đối với phát triển kinh tế
nước ta
1. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được lựa chọn bởi nhiều quốc
gia để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ. Mặc dù vẫn mang những đặc thù của kinh tế thị trường nói chung,
nhưng kinh tế thị trường của nước ta có những đặc thù riêng, là kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phân biệt và bản chất so với kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Trước hết, ta đi tìm hiểu về kinh tế thị trường. Có thể hiểu, kinh tế thị
trường là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc và tuân thủ
những quy luật của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế
mở trong đó coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều tiết của thị
trường, tôn trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, mở rộng giao lưu thương
mại, tạo cơ hội cho mọi chủ thể kinh tế tham gia thị trường, tìm kiếm lợi
nhuận, ...
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường
từ Đại hội VI khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, tuy nhiên phải đến Đại hội IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được sử dụng trong
Văn kiện của Đảng.
8


Đại hội Đảng XI đã đưa vào cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm
về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối” , “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”,
“Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước
được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường,
vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”. (ĐCSVN Văn kiện Đại
hội toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.73, 7374, 74.)
Từ quan điểm của Đảng có thể thấy những đặc thù của nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đó là mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa vận hành theo
cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Vẫn là nền kinh tế thị trường nhưng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
không phải là nền kinh tế thị trường tự do mà có sự quản lí, điều tiết của
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thông qua những chính sách kinh tế, những
biện pháp tài chính cần thiết, nhà nước phát huy cao độ những mặt tích cực,
những ưu thế của nền kinh tế thị trường, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển mạnh mẽ hơn
và lành mạnh hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Thứ hai, là mô hình kinh tế thị trường với đa dạng các hình thức sở
hữu và đa dạng các thành phần kinh tế; đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Sự lựa chọn đa dạng các hình thức sở hữu là phù hợp với trình độ phát
triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay nhằm khai
9


thác tối đa thế mạnh của mọi nguồn lực kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng.
Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế được phát
triển tự do, bình đẳng. Kinh tế nhà nước đóng vai trò then chốt, là công cụ

để nhà nước điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế
tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế và được tạo mọi điều kiện
để phát triển, sao cho dung hòa giữa lợi ích riêng và lợi ích toàn dân tộc.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa theo chế độ công
hữu và tư liệu sản xuất, nghĩa là đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân
do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu.
Thứ ba, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam được thực hiện trên nguyên tắc “chủ yếu theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội” (Nghị quyết số 11-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII, , ngày 9-6-2017).
Nền kinh tế thị trường ở nước ta với đa dạng hình thức sở hữu, đa
dạng thành phần kinh tế, đa dạng phương thức sản xuất kinh doanh… do đó
cần đa dạng các hình thức phân phối. Trong nền kinh tế đó, lao động trở
thành cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người.
Vì vậy, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là hình thức phân
phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất, phù hợp
với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta.
Thứ tư, là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước
XHCN Việt Nam, được định hướng cao về mặt xã hội, có mục đích đảm
bảo tối đa lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất
10


nước; tôn trọng và tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tự do phát triển

đồng thời thực hiện các biện pháp hữu hiệu để hạn chế những khuyết tật
của tính tự phát thị trường. Đây chính là tính nhân văn, ưu việt riêng có của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh một số thành tựu đã đạt được sau hơn 30 đổi mới
nền kinh tế như việc cải cách doanh nghiệp nhà nước với một số doanh
nghiệp bắt đầu được cổ phần hóa, nền kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn
tồn tại một số bất cập như:
Hiệu quả kinh tế thấp, năng suất lao động thấp dẫn đến năng lực cạnh
tranh thấp là những bất cập trong hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam.
Các chỉ tiêu hiệu quả về tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp đều ở mức
thấp và có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Đi tìm những nguyên
nhân của tình hình cho thấy: Còn nhiều vấn đề đặt ra trong quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước khiến cho quá trình này diễn ra chậm
chạp (mới chỉ tiến hành ở các doanh nghiệp quy mô nhỏ); trình độ tổ chức,
quản lý, quản trị doanh nghiệp; vấn đề tiền công và thu nhập… trong các
doanh nghiệp đều ở mức thấp. Đặc biệt, tình trạng lãng phí nguồn lực kinh
tế cả về vật chất và yếu tố con người trong hầu hết các doanh nghiệp là
những vấn đề doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm. Năng suất lao
động thấp do nhiều nguyên nhân: Tỉ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam
dù đã được cải thiện, nhưng còn ở mức thấp, cơ cấu lao động còn nhiều bất
hợp lý, trình độ khoa học công nghệ và sự kết hợp xã hội của sản xuất còn
hạn chế.
Hiện nay, nguồn nhân lực trên thị trường lao động của Việt Nam được
đánh giá có chất lượng không cao. Nhận thức được vấn đề này, trong Văn
kiện Đại hội XII đã ghi: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài” và “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh

11



tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ, yêu
cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói
chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây,
mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa
tư bản cổ điển và xu hướng thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội tốt
đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn có mục
đích nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ
thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận dụng
vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.
2. Ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư với việc phát triển kinh
tế ở nước ta
Việt Nam xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm
6,5 - 7%, mục tiêu đến năm 2020, GDP bình quân đầu người đạt 3200$3500$ thì vấn đề phải đặt ra là phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh
tế, từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, theo đó,
nền kinh tế phải tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư và giá trị thặng
dư cho xã hội.
Ngày nay, học thuyết giá trị thặng dư vẫn có ý nghĩa quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta trở thành một việc làm
cần thiết, theo các hướng sau đây:
Một là, khi phân tích sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, Mác cho
rằng mọi hoạt động của tư bản đều xoay quanh việc tận dụng phương tiện
bóc lột nhằm khai thác tối đa sức lao động để tăng thêm lao động thặng dư.
Do đó, dẫn đến tất yếu kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động hay
cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới, tăng năng suất lao động để có
12



thêm điều kiện thu hút nhiều hơn nữa giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu
của giai cấp tư sản. Trong hai yếu tố của sản xuất hàng hóa, thì sức lao
động là yếu tố cơ bản nhất, còn tư liệu sản xuất là phương tiện cần thiết cho
sản xuất. Yếu tố tư liệu sản xuất là yếu tố được tận dụng để đạt năng suất
lao động cao - quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Yếu tố thực sự
tạo ra của cải, tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm là người lao động. Do đó,
lao động và chiến lược con người là vấn đề quan trọng để tạo được bước
phát triển nhảy vọt trong lực lượng sản xuất đáp ứng được yêu cầu phát
triển của đất nước.
Hai là, khai thác những luận điểm của C. Mác nói về quá trình sản
xuất, thực hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng
những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các
nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế nước ta sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng
thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Điều đó đòi
hỏi cần có chính sách thích đáng và có hiệu lực để thúc đẩy các thành phần
kinh tế phát triển với nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, qua đó thu hút
nhiều lao động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản
phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Đó là con đường để thoát khỏi nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế và bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và
công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, khai thác di sản lý luận của C. Mác nói về quá trình tổ chức sản
xuất và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn
gắn với quá trình xã hội hóa sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng
giá trị thặng dư ngày càng lớn. Khi phân tích giá trị thặng dư tương đối,
Mác đã trình bày rõ các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong
công nghiệp với các đặc điểm, ưu thế và vị trí lịch sử của từng giai đọan.

Việc nghiên cứu các giai đoạn đó giúp chúng ta nhiều bài học bổ ích trong
13


quá trình tổ chức sản xuất ở một đất nước mà sản xuất nhỏ còn phổ biến.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta phải coi trọng phân công lao động,
phân công phải thích ứng với kỹ thuật mới phù hợp với từng đơn vị, từng
ngành và toàn xã hội, mở rộng hợp tác phân công lao động quốc tế. Phân
công lao động phải đảm bảo thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển hợp
lý của các ngành, nghề trong xã hội, đảm bảo chuyên môn hóa và năng suất
lao động cao trong từng đơn vị nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ trở thành nền
sản xuất lớn hiện đại.
Bốn là, thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dư. Điều này đã được V.I.Lênin
trình bày qua lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước Nga Xô Viết.

14


KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác và vận dụng
lý luận này trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Một là, học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và
địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận
thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học thuyết đó có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá
độ ở Việt Nam.
Hai là, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế nước ta trong

một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể xóa bỏ ngay. Chừng nào
quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó nước ta còn phải chấp nhận sự hiện
diện của nó.
Ba là, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải
được thể chế hóa thành luật để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phát triển, góp phần xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bốn là, phát triển kinh tế thị trường nhưng phải bảo vệ được quyền lợi
chính đáng của cả người lao động và các chủ doanh nghiệp bằng luật và
bằng chế tài cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2008.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1993.
3. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2011.
4. Ths. Nguyễn Văn Thành - Trưởng khoa Lí luận Mác Lê-nin, TTHCM:
Bài viết “Nghiên cứu và học tập lý luận giá trị thặng dư trong điều kiện
nước ta hiện nay”, đăng trên Trang thông tin điện tử trường chính trị
Nghệ An. ( />_Article_ID=451)
5. Trung úy Nguyễn Huyền Trang-BM LLCT&KHXHNV, Đại úy Vũ
Trọng Đại- BM QSVT&TDTT: Bài viết “Học thuyết giá trị thặng dư

của Marx và sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”, đăng trên trang web Cảnh sát nhân dân, ngày
29/04/2018.
( />6. Lê thu Hường - Gv khoa Kinh tế: Bài viết “Nhận thức mới về giá trị
thặng dư trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”, đăng trên Trang thông tin điện tử trường chính trị Nghệ
An.
( />
16


7. ThS. Bùi Thị Huyền - Giảng viên khoa LLMLN, TTHCM: Bài viết
“Vận dụng lý luận giá trị thặng dư của Các Mác đối với sự phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, đăng
trên Trang web Trường chính trị tỉnh Phú Thọ, ngày 29/09/2017.
( />8. GS.TS. Bùi Ngọc Chưởng – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
Bài viết “Ý nghĩa ngày nay của học thuyết về giá trị thặng dư của
C.Mác”, đăng trên trang web Thông tin pháp luật dân sự, ngày
13/06/2009. ( />9. TS. Phùng Danh Cường, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, TS.
Hoàng Thị Kim Oanh, Học viện Chính trị quốc gia TPHCM: Bài viết
“Tính đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”, đăng trên Tạp chí Tài chính, ngày 10/09/2018.
( />
17



×