Đề tài :
Vai trò của kinh tế nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đề cương:
1. LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Quan niệm về kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm kinh tế thị trường
1.1.2 Kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.2 Quan niệm về kinh tế nhà nước ở nước ta
1.2.1 Khái niệm kinh tế nhà nước
1.2.2 Vai trò của kinh tế nhà nước
2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY.
2.1 Thực trạng vai trò mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác.
2.2 Thực trạng vai trò đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã
hội.
2.2 Thực trạng là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô
3. PHƯƠNG HƯỚNG CẢI CÁCH NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ ĐẠO
CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1 Nắm giữ lĩnh vực then chốt trọng yếu của nền kinh tế
3.2 Nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước
3.3 Tổ chức, sắp xếp lại kinh tế nhà nước
3.4 Đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước
1. LÝ LUẬN CHUNG
1.1Quan niệm về kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó q
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thơng
qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là
"phương tiện" để phát triển kinh tế – xã hội, mà cịn là những quan hệ kinh
tế – xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn
cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ khơng có và khơng thể
có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời
khỏi hình thái kinh tế – xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị – xã hội của
một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước
hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà nhà nước
và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của
nền kinh tế đó.
1.1.2 Kinh tế thị trường định hướng XHCN
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế – xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của
kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa
xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm
nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó
là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới
đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển
nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trị "hướng dẫn", "chế định" sự vận
động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt
tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hồn thiện mơ hình chủ
nghĩa xã hội.Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa
mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh
tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở
nước ta với các nước khác.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba
điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm
nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết
hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã
hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản
lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có
thể luận giải ba điểm trên như sau:
Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Cốt lõi của kinh
tế thị trường là sản xuất hàng hóa, trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường theo quy luật thị trường. Sản xuất và trao đổi chỉ xảy ra khi mọi
chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường độc lập với nhau, và vì vậy
muốn thỏa mãn nhu cầu xã hội thì phải trao đổi sản phẩm gọi là hàng hóa.
Các chủ thể, bởi thế, phải ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng
như lợi ích từ việc trao đổi đó. Người lao động có thể là một người lao động
cá thể hay một người lao động tổng thể. Xét trên phạm vi cả xã hội thì chỉ
thơng qua trao đổi lao động tư nhân mới biểu hiện thành lao động xã hội,
mới chứng tỏ lao động tư nhân đó được xã hội thừa nhận.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều hình
thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu cơng
cộng (cơng hữu, tồn dân) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trị nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều
thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng,
đan xen, hỗn hợp.
Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa
nguồn lực bên trong và bên ngồi để đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả
năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở
các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết
cũng như an ninh – quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác khơng có
lợi thế hoặc đầu tư khơng có hiệu quả. Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị
làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng
xã hội ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách
xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện cơng bằng xã hội, thì
Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể
như:
Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết
hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị
trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận
cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho
sự phát triển kinh tế.
Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã
hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao
động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã
hội… trong đó, phải làm sao để quan hệ phân phối theo lao động
đóng vai trị chủ đạo. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức
thuê mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng
không để chúng biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng
khơng kiểm sốt được sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập.
Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách
chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để
diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc
và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.
Mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính
đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến khích người có tài năng.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân
phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm bảo đảm cơng bằng xã hội; thị
trường có những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu nhập. Chế độ
phân phối trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý,
điều tiết của Nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc
thực hiện công bằng xã hội khơng thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và
phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà cịn phải thực hiện tốt
các chính sách phát triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã
hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối tượng của các chính sách xã hội là tồn thể nhân dân, bởi vậy các
chính sách ấy bao gồm:
Chính sách lao động và việc làm là chính sách xã hội cơ bản. Nó có
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức, kỹ năng và lương
tâm nghề nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiều việc làm mới, đồng thời sử
dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm,
vươn tới tồn dụng lao động xã hội. Đó chính là biện pháp quan trọng để
vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa "phát triển sự phong phú của bản chất
con người" trong lao động sáng tạo ra mọi của cải có giá trị cho bản thân,
gia đình và xã hội.
Chính sách xóa đói, giảm nghèo khơng đơn thuần chỉ là một chính
sách từ thiện, mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, chính
trị và mơi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nguyên nhân
cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người. Đó là các
chính sách giao quyền sử dụng đất, tạo vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ
trợ về giáo dục và y tế, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, phát huy
quyền làm chủ cho người nghèo và cộng đồng nghèo để giúp họ tự vươn lên
thoát nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về thu nhập và
mức sống giữa các tầng lớp dân cư, các thành phần dân tộc, các vùng miền
trong cả nước.
Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra "mạng lưới" gồm
nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo hiểm xã hội, cứu
trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho những
người về hưu, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người gặp rủi
ro bất hạnh và đặc biệt là những người có cơng với nước.
Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội phải kết hợp sử dụng
nhiều biện pháp giáo dục, hành chính và pháp luật để giữ vững sự ổn định,
an toàn của một xã hội có kỷ cương; xây dựng lối sống lành mạnh theo quy
phạm đạo đức và chuẩn mực xã hội tiến bộ, văn minh, có tác dụng cảm hóa
những người lầm lỗi, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế
đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường
hướng dẫn doanh nghiệp.
1.2Quan niệm về kinh tế nhà nước ở nước ta
1.2.1 Khái niệm kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà
nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,
các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản thuộc sở
hữu của nhà nước có thể dựa vào chu chuyển kinh tế
1.2.2 Vai trò của kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vai trị đó được thể hiện như sau:
Một là, kinh tế nhà nước có vai trị mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác . Kinh tế Nhà nước kiểm soát các thị trường của
hoạt động vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ
mô của Nhà nước. Các cơng cụ tài chính tiền tệ, tín dụng là cơng cụ chính
yếu của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Thành phần kinh tế Nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo chi phối các
thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc
tính của mình, tạo cơ sở hạ tầng cho mỗi kinh tế hàng hóa, chiếm giữ các
ngành then chốt và trọng yếu xã hội, làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế
gắn với cơng bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của toàn xã hội.
Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, vùng, sản phẩm của bản thân kinh
tế nhà nước cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, các
thành phần kinh tế khác có thêm luận cứ để xây dựng chiến lược kinh doanh
của mình.
Cung cấp cơ sở hạ tầng và những dịch vụ công cộng với chất lượng
cao, giá cả rẻ cho các thành phần kinh tế khác ở những lĩnh vực mà Nhà
nước muốn khuyến khích họ đầu tư. .
Hai là, Làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những
vấn đề xã hội
Để nền kinh tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng thì cần phải
có những bước tăng trưởng. Do vậy, cần có một lực lượng có sức mạnh kinh
tế làm địn bẩy để thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển. Doanh
nghiệp Nhà nước hiện nay chưa đủ khả năng chi phối tồn bộ nền kinh tế
nhưng có một thực lực to lớn nên chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới có thể
thực hiện được chức năng địn bẩy.
Những vấn đề xã hội đang là một vấn đề hạn chế của nước ta. Muốn
phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước phải giải quyết triệt để những vấn đề
đó. Để thực hiện được điều này chúng ta cần có thực lực về kinh tế. Trong
điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần như hiện nay thì chỉ có thành phần
kinh tế Nhà nước mới có thể đảm nhận được vai trò làm lực lượng chủ đạo
cho Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội.
Ba là, Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều
tiết và quản lý vĩ mô
Nhà nước sử dụng chung tất cả các biện pháp có thể can thiệp vào
kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi
trường kinh doanh lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hịa phù hợp với giá trị truyền
thống và văn hóa đất nước.
Trong kinh tế, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể kinh tế, trực tiếp
đối mặt với thị trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái
gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận. Điều này tất yếu là dẫn đến kết cục là ở đâu, khi nào, đối với mặt
hàng nào có thể đem lại lợi nhuận cao thì ở đó, khi đó các doanh nghiệp có
khả năng sẽ đổ xơ vào sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Ngược lại, nếu
ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào khơng có lời hoặc lỗ vốn thì ở đó,
khi đó sẽ có nhiều doanh nghiệp có khả năng sẽ rút khỏi thị trường sản xuất
và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế của mỗi dịch vụ về việc thu thập
cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị trường để quyết định có tham
gia hay rút bớt khỏi một thị trường nào đó, tất cả sẽ dẫn đến nguy cơ có thể
phát sinh mâu thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc, mọi nơi và đối với mọi mặt
hàng. Để chống lại nguy cơ đó Nhà nước phải thực hiện chức năng điều tiết
bằng nhiều công cụ khác nhau. Trong đó doanh nghiệp Nhà nước được coi
là một công cụ.
Với tư cách là công cụ điều tiết luôn được Nhà nước thực hiện theo
phương châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang được mở rộng sản
xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân
doanh hoặc khơng có đủ sức kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần
sự có mặt của doanh nghiệp Nhà nước. Đến lúc nào đó, khi các doanh
nghiệp dân doanh đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, doanh nghiệp Nhà
nước có thể rút khỏi thị trường đó, nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân
doanh. Quá trình diễn ra liên tục, lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc
dân hình thành vai trị điều tiết của doanh nghiệp Nhà nước. Chức năng này
còn thể hiện ở trong phạm vi từng vùng, đặc biệt quan trọng với các vùng
sâu, vùng xa.
Như vậy, chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước
phải sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ cần thiết bảo đảm
cho nền kinh tế hoạt động một cách thông suốt, đảm bảo lợi ích xã hội.
2.
THỰC TRẠNG VAI TRỊ CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY.
2.1 Thực trạng vai trò mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh
tế khác.
Để thực hiện vai trò mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định
hướng bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất
lượng trên cơ sở tơn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho
các chủ thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô…;
- Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thơng qua cơ chế, chính
sách và các công cụ kinh tế;
- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự
can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp;
- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng
quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”;
- Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống các cơ quan đơn vị hoạt
động sự nghiệp;
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế như : Những hướng dẫn này nhiều
khi không rõ ràng khiến cho việc áp dụng chúng gặp nhiều khó khăn và đôi
khi hướng dẫn trên giấy tờ là một chuyện cịn khi thực hiện lại khơng như đã
nói.Bên cạnh đó các doanh nghiệp nhà nước giờ đây khơng cịn c chỉ hoạt
động trong lĩnh vực then chốt của mình mà thay vào đó là mở rộng ra các
lĩnh vực bất động sản, xây dựng cơ bản, ngân hàng tài chính, chứng khốn,
… Tuy nhiên, một câu hỏi cần được đặt ra là liệu các Tập đồn có đủ mạnh
để có thể vươn rộng cánh tay của mình như thế không khi bản thân các công
việc cốt lõi khơng thực hiện được.
Trong năm 2009, Tập đồn Điện lực Việt Nam (EVN) đã buộc phải
tuyên bố ngưng đầu tư 13 dự án phát triển điện do khơng bố trí được vốn
vay, hay việc Tập đồn Cơng nghiệp Tàu thủy (Vinashin) với vấn đề sử
dụng nguồn vốn trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ,…
Cũng khơng ít các đơn vị trong nhóm này đã thành lập mới các cơng
ty con và cơng ty liên kết nhằm hồn chỉnh các khâu trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, từ đầu tư xây dựng đến sản xuất, vận hành và kinh doanh.
Khi mà kinh tế nhà nước khơng có sự tập trung nhất định cho lĩnh vực then
chốt của mình thì việc giúp đỡ cũng như định hướng cho các thành phần
kinh tế khác cũng ít nhiều ảnh hưởng khơng tốt.
2.2 Thực trạng vai trò đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
xã hội.
KTNN đã và đang thực hiện vai trò này của mình bằng các biện pháp
chính sách nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần
kinh tế khác cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hôi như:
- Ưu đãi về vay vốn, lãi suất, thuế, tiền thuê đất cho hoạt động của
các thành phần kinh tế.
- Tìm kiếm và mở rộng thị trường, bao gồm cả thị trường đầu vào lẫn
thị trường đầu ra cho các thành phần kinh tế.
- Trợ giá hàng xuất khẩu cho các thành phần kinh tế khác khi cần
thiết.
- Hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới công nghệ và
đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 20 năm đổi mới cho
thấy, Nhà nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng
bước hồn thiện hệ thống chính sách về chế độ sở hữu và cơ cấu thành phần
kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch theo hướng tạo động lực và điều
kiện thuận lợi hơn cho khai thác các tiềm năng trong và ngoài nước để phát
triển kinh tế- xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, khơng
ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 – 1990, tăng trưởng GDP bình quân đạt
4,5%/năm; 1996 – 2000: 7%/năm; 2001 – 2005: 7,5%/năm; năm 2007 đạt
8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với khơng ít khó khăn, nhưng Việt Nam
vẫn đạt mức tăng trưởng GDP là 6,23 kích thích cạnh tranh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế.
Bên canh các kết quả đạt được thì KTNN vẫn cịn những yếu kém khi
thực hiện vai trị này đó là:
Tài sản cố định
Về giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp, tổng giá trị tài sản cố định
của doanh nghiệp đã tăng lên 3,51 lần trong thời kỳ 2000-2006, trong đó
DNNN tăng hơn 3,53 lần, doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng hơn 8,8 lần
và doanh nghiệp FDI tăng gần 2,3 lần. Tuy vậy, giá trị tăng thêm về tài sản
cố định của DNNN trong thời kỳ nói trên vẫn chiếm hơn hơn một nửa số giá
trị tăng thêm về tài sản cố định của các doanh nghiệp và cao gấp hơn 2 lần
so với doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Về cơ cấu giá trị tài sản cố định, trong thời kỳ 2000-2006, tỷ trọng của
DNNN giảm nhẹ sau đó lại tăng lên nhưng hầu như khơng thay đổi; trong
khi đó, tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân trong nước đã tăng mạnh từ 8,3%
năm 2000 lên 20,7% năm 2006; và tỷ trọng của doanh nghiệp FDI giảm
tương ứng từ 35,9% xuống còn 23,3% trong cùng thời kỳ.
Đóng góp cho GDP
Theo số liệu thống kê suốt từ năm 1999 – 2007, kinh tế nhà nước
đóng góp gần 40%. Nhưng từ năm 2008 tới nay sự đóng góp đã giảm xuống
dưới 35%. Có thể thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước
không tương xứng với nguồn lực mà nó sử dụng. Khu vực tư nhân nói
chung đã tạo ra gần 2/3 GDP. Sự đóng góp của kinh tế nhà nước cho GDP
đang có sự giảm sút.
Đóng góp của kinh tế nhà nước cho GDP, theo thống kê, bao gồm cả
đóng góp của nhà nước trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, an ninh quốc
phịng (đóng góp 3,28% năm 1998 và 2,77% năm 2008); giáo dục đào tạo
(3,66% năm 1998 và 2.61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn hóa thể thao, đảng
và tồn thể (2,11% năm 1998 và 1.8% năm 2008) tổng cộng là 9,05% năm
1998 và 7,18% năm 2008.
Cơng ăn việc làm
Có thể nhận thấy rằng, nguồn tạo ra công ăn việc làm cho người lao
động Việt Nam là những công ty tư nhân chứ không phải là nhờ vào khu
vực kinh tế nhà nước.
Thành tích tạo cơng ăn việc làm là một chỉ số quan trọng. Theo báo
cáo đã nhắc tới của CIEM, tổng số lao động làm việc tại các doanh nghiệp
năm 2006 là 6722,2 nghìn người, tăng 3184,7 nghìn người so với năm 2000.
Trong đó, số lao động làm việc trong DNNN đã giảm mất 181,5 ngàn người;
trong doanh nghiệp tư nhân tăng thêm 2329 ngàn người và trong các doanh
nghiệp FDI tăng thêm 1037,7 ngàn người. Như vậy, DNNN trong những
năm qua không tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động; mà
ngược lại, đã mất đi hơn 181 nghìn chỗ làm việc. Như vậy, số lao động làm
việc trong doanh nghiệp tư nhân trong nước đã tăng hơn 3 lần trong những
năm 2000-2006, từ hơn 1 triệu lên hơn 3 triệu người. Tương tự, số lao động
làm việc trong các doanh nghiệp FDI đã tăng hơn 3 lần, từ hơn 407 ngàn
người năm 2000 đã tăng lên hơn 1,4 triệu người năm 2006. Số lao động làm
việc trong các DNNN chỉ còn chiếm 28% tổng số lao động trong doanh
nghiệp; giảm hơn một nửa (59,1%) so với năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng
lao động của doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp FDI đã tăng
lên tương ứng từ 29,4 và 11,5% năm 2000 lên 50,1 và 21,5% vào năm 2006.
Có thể thấy, thành tích về cơng ăn việc làm của các doanh nghiệp nhà nước
rất tồi và hồn tồn khơng tương xứng với với những nguồn lực to lớn mà
nó sử dụng.
2.3 Thực trạng là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô
KTNN những năm vừa qua đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm
điều tiết nền kinh tế vĩ mơ như: Điều tiết bình ổn giá cả,chính sách tài chính
tiền tệ ,thuế và các cơng cụ khác những gói kích cầu được chính phủ đưa ra
trong năm 2009 nhằm kích thích tiêu dùng là một ví dụ. Vai trò của Nhà
nước ta đối với kinh tế càng bộc lộ rõ nét trong ban hành, thực thi các chính
sách khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế gần đây. Trên cơ sở tiên định
những diễn biến xấu có thể xảy ra, nhà nước đã đưa ra 8 nhóm giải pháp cấp
bách, và bằng việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp đó, nhà nước
đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng không
ngừng giảm: tháng 9-2008 tăng 0,18%, tháng 10 giảm 0,19%, tháng 11 giảm
0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế vĩ mô ổn định: thu chi ngân sách được
cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cả năm, tăng 26,3%
so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt kế hoạch đề
ra; kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ USD, tăng 28% so với năm 2007.
Những thành tựu này có vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội,
tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng
còn những hạn chế đáng kể: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý nhà
nước về kinh tế cịn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang tầm đột phá để
kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh
tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp;
chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ mơi
trường…
Chỉ trong vịng một thời gian ngắn, việc tăng giá các mặt hàng liên
tục đã tạo một sức ép lớn lên chỉ số tiêu dùng (CPI), tuy nhiên chúng ta thấy
không nhiều những nỗ lực của các DNNN trong việc bình ổn giá. Đơn cử
một vài trường hợp:
Chúng ta nghe đến việc các doanh nghiệp xăng dầu kêu lỗ nhưng
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam khi báo cáo lại có kết quả kinh doanh lãi
đến vài trăm tỷ đồng.
Chúng ta nghe đến chuyện Tổng công ty Hàng không Việt Nam đề
nghị tăng giá vé để bù đắp chi phí nhưng theo thống kê thì tiền lương của
các nhân viên trong doanh nghiệp này thuộc loại cao nhất trong các lĩnh vực
kinh tế.
Hay chuyện Tập đồn Than Khống sản đề nghị tăng giá than vì hiện
tại đang bán với giá thấp hơn giá thế giới nhiều nhưng nhiều cơng ty than
niêm yết báo cáo có mức lợi nhuận lên đến 100% vốn điều lệ.
Rồi chuyện Tổng công ty Điện lực Việt Nam đề nghị tăng giá để bù
lỗ và có nguồn vốn đề đầu tư phát triển dự án điện nhưng lại đề nghị trích
một khoản tiền khổng lồ để thưởng cho nhân viên trong khi thu nhập trung
bình của ngành điện thuộc loại cao trong nền kinh tế.
Mới đây nhất, Tập đồn dầu khí (PV) lại đề nghị tăng giá 47% sản
lượng khí Gaz từ 1/4/2010 cho theo kịp cơ chế thị trường, tăng lợi nhuận
cho Công ty con trước khi cổ phần hóa.
Trong khi Chính phủ kêu gọi các doanh nghiệp bình ổn giá, nỗ lực
kìm chế lạm phát … thì chính giá bán hàng và sản phẩm dịch vụ của các
Tập đồn, Tổng cơng ty Nhà nước lại “tiên phong” xin hoặc thông báo tăng
giá.
3. PHƯƠNG HƯỚNG CẢI CÁCH NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ ĐẠO
CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi kinh tế nhà nước cần có
những cải cách cơ bản như sau:
3.1 Nắm giữ lĩnh vực then chốt trọng yếu của nền kinh tế.
Để đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và điều tiết kinh tế
tị trường nhà nước cũng cần tiếp tục nắm giữ các lĩnh vực then chốt như: kết
cấu hạ tầng,điện lực, xăng dầu, xi măng …nhưng cũng cần phải phát triển
mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. nhưng để giữ vững định
hướng XHCN thì kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải không ngừng
được củng cố và phát triển để dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Tuy vậy, điều đó khơng có nghĩa là chỉ có tăng quy mơ
tuyệt đối của khu vực nhà nước, mà điều quan trọng là phải lựa chọn cách
thức can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Bởi vì, trong nền KTTT, giữa
nhà nước và thị trường, giữa nhà nước và tư nhân không có ranh giới rõ
ràng, các doanh nghiệp thà nước và doanh nghiệp tư nhân thường liên
doanh, liên kết, hình thành các cơng ty cổ phần; trong đó, có cả vốn nhà
nước và vốn của tư nhân, các hợp tác xã… Trong nhiều lĩnh vực, kể cả việc
cung ứng kết cấu hạ tầng vật chất kinh tế và xã hội, cung ứng dịch vụ công
cộng…, nhiều khi doanh nghiệp nhà nước hoạt động khơng có hiệu quả
bằng các doanh nghiệp tư nhân. Vì thế, Nhà nước khơng nên tham gia nhiều
vào các lĩnh vực mà thị trường vận hành tốt, mà chỉ nên tham gia vào những
lĩnh vực không thể dựa vào thị trường và khi cần thiết phải can thiệp thì nên
chủ yếu can thiệp gián tiếp thơng qua cơ chế, chính sách và cơng cụ kinh tế.
Nhà nước cần khai thông hơn nữa tiềm năng của khu vực tư nhân, tạo cơ
chế thơng thống để thu hút khu vực này vào việc cung ứng kết cấu hạ tầng
và dịch vụ công cộng…theo mục tiêu của Nhà nước. Như thế vẫn đảm bảo
vai trò nền tảng của kinh tế nhà nước. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, khu
vực tư nhân luôn là động lực chủ yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển
bền vững. Một đặc điểm nổi bật của các nền kinh tế trong giai đoạn đầu của
q trình chuyển đổi từ mơ hình kế hoạch hố tập trung sang KTTT là cịn
tồn tại tình trạng độc quyền và phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
giữa các doanh nghiệp hầu hết đều do Nhà nước quyết định theo phương
thức hành chính như cấm hoặc hạn chế các doanh nghiệp khác không được
kinh doanh chứ khơng phải hình thành nhờ hiệu quả kinh doanh thơng qua
con đường tập trung, tích tụ vốn. Trong bố cảnh đó, tự do hố thương mại
và tự do gia nhập ngành, bãi bỏ các hàng rào bảo hộ sẽ là nhưng biện pháp
hữu hiệu để hạn chế sự bất công và phi hiệu quả gắn liền với độc quyền
3.2 Nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước
Trước hết, đó là hồn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp
nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh
bạch, nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thực
sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật; gắn trách
nhiệm quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt
động của doanh nghiệp; chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi…
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực tác động của Nhà nước tới phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, Nhà nước cần sớm hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc
biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu. Hệ thống luật này phải
khẳng định và bảo vệ sự tồn tại khách quan, lâu dài tính đa dạng của các
hình thức sở hữu; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu.
Cần xác định rõ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta là cung cấp
môi trường pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực
của họ.
Cùng với vấn đề then chốt trên, cần tiếp tục phân định rạch ròi chức
năng quản lý hành chính nhà nước đối với kinh tế và quản lý sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp; Nhà nước cần làm tốt chức năng hỗ trợ cho tồn
xã hội sản xuất hàng hóa công cũng như tư; đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh
tế và xã hội...
3.3 Tổ chức, sắp xếp lại kinh tế nhà nước
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một trong những trọng tâm và là
lĩnh vực cải cách nhạy cảm, khó khăn nhất của q trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang thị trường. Đó là vì đây khơng chỉ là vấn
đề kinh tế mà cịn là vấn đề mang tính tư tưởng, chính trị, xã hội và tâm lý.
Kinh nghiệm ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi cho thấy:
Cải cách doanh nghiệp nhà nước thường có hai nội dung chủ yếu là:
(1) giảm quy mô khu vực doanh nghiệp nhà nước; và (2) cải cách thể chế
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.Đồng thời, đó
là đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, theo
chủ trương chung, không phải là để tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước mà
là để tạo ra một loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu nhằm vừa sử
dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước vừa huy động thêm vốn cho xã
hội vào phát triển sản xuât kinh doanh, vừa tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế
quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước vừa phát huy
vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự
giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hồ lợi ích của nhà
nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
về mặt lý thuyết là như vậy. Nhưng kết quả thực hiện ra sao, đó là điều
chúng ta cần xem xét cẩn trọng trong thực tế.h nghiệp nhà nước còn lại.
Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều nghị quyết, cơ chế, chính sách, biện pháp đổi mới nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và bảo đảm vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, Quốc hội và Chính
phủ đã chỉ đạo soạn thảo và ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng
tạo cơ sở pháp lý nhằm đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được những kết quả chủ
yếu như sau:
Bước đầu đã thiết lập được hệ thống khung pháp lý tương đối đồng bộ
theo hướng tạo mơi trường bình đẳng, khơng biệt giữa các thành phần kinh
tế, giảm thiểu các thủ tục gia nhập thị trường; hoàn thiện tổ chức quản lý,
quản trị doanh nghiệp, trong đó quyền và nghiã vụ của chủ sở hữu Nhà nước
đối với doanh nghiệp đã được sửa đổi theo hướng Nhà nước chỉ thực hiện
các quyền và nghiã vụ như các chủ đầu tư, sở hữu vốn góp vào doanh
nghiệp như các chủ đầu tư, chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác
tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, hiệu quả sản xuất kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường nhằm
giải phóng và phát huy tối đa các nguồn lực trong doanh nghiệp phát triển
kinh tế xã hội đất nước, phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế.
Cụ thể là đã ban hành:
Tiêu chí, danh mục phân loại cơng ty nhà nước và cơng ty thành viên
hạch tốn độc lập thuộc tổng cơng ty nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng
đề án sắp xếp, tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước theo hướng thu
hẹp ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần giữ 100% vốn tại doanh nghiệp, cổ
phần hoặc vốn góp chi phối tại doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa, đa
dạng hóa sở hữu.
Các cơ chế, chính sách nhằm đổi mới cơ chế, tổ chức quản lý doanh
nghiệp nhà nước như quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ
sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước; quy định về giám sát, đánh giá
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; về quy chế quản lý tài chính
của cơng ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
khác; về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên; về chuyển tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước quy mô
lớn sang hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ – cơng ty con, hình thành các
tập đoàn kinh tế,… nhằm đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của công ty nhà nước; quy định rõ hơn về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, động lực cũng như trách nhiệm của bộ máy quản lý
công ty nhà nước; đổi mới mơ hình, cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động của
tổng cơng ty nhà nước,...
Các cơ chế, chính sách về sắp xếp, chuyển đổi sở hữu như: (i) quy định
về cổ phần hóa cơng ty nhà nước theo hướng thực hiện công khai minh bạch
theo nguyên tắc thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong
nội bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng
khoán, mở rộng đối tượng mua cổ phần, giá trị doanh nghiệp được xác định
theo cơ chế thị trường, cho phép bán bớt cổ phần tại các doanh nghiệp Nhà
nước giữ cổ phần chi phối; (ii) quy định về giao, bán, khốn kinh doanh, cho
th cơng ty nhà nước theo hướng mở rộng quy mô doanh nghiệp áp dụng,
mở rộng đối tượng tham gia mua công ty nhà nước cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài, nâng
mức tỷ lệ tham gia góp vốn của các đối tượng này; (iii) quy định về phá sản
doanh nghiệp đã được sửa đổi theo hướng đơn giản hóa trình tự, thủ tục tạo
điều kiện cho các công ty nhà nước lâm vào tình trạng phá sản có thể thực
hiện phá sản.
Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách khác cũng được ban hành tạo
điều kiện cho quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp
nhà nước như ban hành cơ chế quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh
nghiệp nhà nước, thành lập Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của
doanh nghiệp – công cụ hỗ trợ doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính, góp
phần tách bạch chức năng quản lý và chức năng kinh doanh, chính sách đối
với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước,…
2. Đã xây dựng và phê duyệt các đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh
nghiệp nhà nước phù hợp với vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương tiến
hành tổ chức thực hiện. Cụ thể là theo các đề án sắp xếp, đổi mới và phát
triển doanh nghiệp nhà nước của các bộ, ngành và địa phương đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt thì số lượng doanh nghiệp có 100% vốn nhà
nước chỉ còn khoảng 40% so với hiện nay; cổ phần hóa 43%; giao bán
khốn kinh doanh và cho th 4,5%; còn lại sẽ giải thể, phá sản, chuyển
sang đơn vị sự nghiệp có thu; tổng số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
còn khoảng 84%; lao động trong doanh nghiệp nhà nước cịn khoảng 950
nghìn người (giảm 30,4%).
Điểm đáng chú ý là, tháng 11/2005 Quốc hội vừa thông qua Luật Doanh
nghiệp, trong đó quy định trong thời hạn 4 năm kể từ ngày Luật Doanh
nghiệp có hiệu lực (1/7/2006), tất cả công ty nhà nước phải chuyển sang
công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Đây là giải pháp quan
trọng trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước
hoạt động bình đẳng trên cùng mặt bằng pháp lý với các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế.
3.4 Đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước
Cần xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, loại bỏ các
hiện tượng tiêu cực trong quản lý nền kinh tế. Phải thường xuyên cải tổ bộ
máy nhà nước theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý. Nhà nước phải thực sự trở thành nhà nước của dân, do dân và vì
dân, thực hiện cơng bằng xã hội đảm bảo cho mọi người chứ không phải chỉ
một số người được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế, bảo vệ được
bộ phận dân cư dễ bị tổn thương trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị
trường, giữ gìn ổn định xã hội. Chỉ có như vậy mới đảm bảo tính định
hướng XHCN của phát triển nền kinh tế. Cần rà soát lại các cơ quan từ trung
ương đến địa phương, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, giảm
bớt những cơ quan và số người thực sự không cần thiết. Kiên quyết chống
các hiện tượng tiêu cực nhũng nhiễu, phiền hà cho nhân dân và doanh
nghiệp. Trước hết, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập
thị trường của các chủ thể và tạo môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành
mạnh cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Như Báo
cáo chính trị tại Đại hội X đã chỉ rõ, Nhà nước cần tập trung vào chức năng
“Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các
nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình
đẳng, cạnh tranh lành mạnh, cơng khai, minh bạch, có trật tự, kỉ cương…
Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động thị trường và doanh nghiệp
Ở nước ta hiện nay, chính quyền cấp tỉnh, thành phố và các bộ, ngành
không cần thành lập và quản lý các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh vì
lợi nhuận, mà chỉ thành lập và quản lý các doanh nghiệp cơng ích theo quy
định chung, có tính tới đặc thù của mỗi địa phương. Cần xem xét và xử lý
hữu hiệu lại cơ chế cơ quan chủ quản của doanh nghiệp nhà nước đang tồn
tại tràn lan như hiện nay. Có lúc chúng ta cho rằng, đó là một sự phân cấp
hợp lý trong điều kiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Nhưng thực tế
ngày càng cho thấy, không phải bao giờ các cơ quan chủ quản cũng giúp các
doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động; trái lại, nhiều khi lại
gây phiền hà, làm trầm trọng thêm cơ chế "xin – cho"- một biến thể của cơ
chế bao cấp trước đây, làm nảy sinh các tệ nạn tham nhũng, cửa quyền và
lãng phí. Theo đó, vốn ngân sách của Nhà nước bị thất thốt do có q nhiều
cơ quan thực hiện chức năng cấp phát, khi vốn đến doanh nghiệp thì khơng
cịn đủ để thực thi những kế hoạch ban đầu. Vì lợi ích cục bộ của mình và
của các doanh nghiệp nhà nước trong ngành, một số bộ, ngành đã cố ý tạo
những kẽ hở trong việc đề xuất các văn bản pháp lý để bảo hộ, ưu đãi cho
doanh nghiệp của ngành, gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.
Do đó, xóa bỏ cơ chế chủ quản theo lối hành chính quan liêu, bao cấp
đối với các doanh nghiệp nhà nước, để các doanh nghiệp này được tự chủ
trong cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng đồng vốn
của Nhà nước trước các cơ quan tài chính là một giải pháp cần được áp dụng
trong đổi mới doanh nghiệp nhà nước nói chung và trước hết là đối với các
doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt của nền kinh tế. Cần có cơ chế
bảo đảm để phân định rạch rịi nhiệm vụ chính trị – xã hội mà Nhà nước
giao cho với lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp.
Xây dựng cơ chế bảo đảm để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng, nhưng đào tạo và
tuyển chọn cho được đội ngũ những cán bộ quản lý doanh nghiệp ngang tầm
cũng rất cần thiết. Trong quản lý doanh nghiệp, khơng thể chấp nhận những
cán bộ có trình độ chun môn thấp, kém năng động, nhất là khi trao cho họ
những doanh nghiệp có số vốn lớn hàng trăm tỉ đồng và hàng nghìn người
lao động. Kinh doanh trên thương trường khốc liệt chẳng kém gì trên chiến
trường. Quản lý doanh nghiệp nhà nước mang những đặc thù riêng, nhất là
phải chấp hành hàng loạt những quy định riêng do Nhà nước đặt ra với tư
cách là chủ sở hữu. Vì vậy, phát hiện và sử dụng các cán bộ quản lý doanh
nghiệp giỏi khó hơn nhiều so với các loại hình cán bộ khác. Việc đào tạo
cán bộ quản lý doanh nghiệp phải lấy tự đào tạo là chính, đào tạo qua trường
lớp chỉ có vai trị ban đầu và hỗ trợ.
Vấn đề cơng chức hóa cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước cần
được tiếp tục đổi mới hơn nữa. Cần nghiên cứu, tham khảo những kinh
nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới trong vấn đề này: Tổng giám đốc
của các hãng lớn kinh doanh toàn cầu hiện nay làm việc theo cơ chế gì mà
hiệu quả sản xuất, kinh doanh vẫn được bảo đảm và lợi ích của chủ sở hữu
vẫn được thực hiện, khi chủ sở hữu không mấy khi can thiệp vào hoạt động
quản lý? Nên chăng, áp dụng chế độ thi tuyển để chọn giám đốc của từng
doanh nghiệp nhà nước và chỉ bổ nhiệm có thời hạn dựa trên những điều
kiện hợp lý mà các ứng cử viên đưa ra khi tham dự thi tuyển? Trong thực tế,
ở nước ta có khơng ít cán bộ nhiều năm, thậm chí gần cả cuộc đời, suy tư,
trăn trở về những ngành nghề mà họ say mê, về những phương thức, bước đi
để kiến tạo những doanh nghiệp làm ra sản phẩm có thể cạnh tranh khơng
chỉ trong nước mà cả ở khu vực và thế giới. Những suy nghĩ đó có thể bắt
nguồn từ chính những sai lầm và thất bại mà họ từng gánh chịu hoặc từ
những gì họ thấy qua công việc kinh doanh của người khác, ở các nước
khác. Khi vấn đề được đặt ra, họ sẽ tìm tịi bằng được những giải pháp để
thực hiện nó. Cần có một cơ chế đủ sức hấp dẫn để thu hút những con người
đầy tâm huyết và năng lực ấy vào đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước là
một việc cấp bách, có ý nghĩa rất lớn. Sau gần 20 năm đổi mới, đội ngũ
những người có đức, có tài sống bằng lao động chân chính ở nước ta cũng
phát triển theo hướng đông hơn về số lượng và cao hơn về chất lượng. Có
một cơ chế đủ sức thu hút nhân tài, tin tưởng, trao cho họ những cơ hội để
thể hiện năng lực và lòng yêu Tổ quốc của mình, sẽ đưa đến những thành
quả vơ cùng to lớn.