Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.11 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề quan
trọng của triết học. Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn
luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành
công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của một tổ chức hay của một chính
đảng. Nhận thức đúng và giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại giữa lý luận và thực tiễn là chìa khóa để giải quyết
mọi khó khăn, vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đặt ra. Ngược lại,
nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh
nghiệm hoặc chủ nghĩa duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà
đối với chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng.
Như nói trên, việc nghiên cứu về mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn
đã quan trọng thì vấn đề đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế lại càng quan
trọng hơn, bởi vì xét đến cùng mục đích của chúng ta là phát triển nền kinh
tế - nền tảng của xã hội và cũng là trung tâm của các hoạt động xã hội
khác.
Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
quá trình đổi mới ở Việt Nam, dưới nhiều khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình lý giải cặn kẽ về
mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta.
Do đó, để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp
phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề này, và bằng những
kiến thức được học từ môn “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin”, đặc biệt là nội dung về lý luận và
thực tiễn, em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Mối liên hệ giữa lý
1


luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy


với đổi mới kinh tế ở nước ta”.
Đề tài được nghiên cứu với mục tiêu là làm rõ cũng như
nêu lên mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn. Bên cạnh đó, hi
vọng rằng bài tiểu luận này sẽ như một tài liệu tham khảo thêm
mà dựa vào đó chúng ta có thể đưa ra những nhận định, lý
giải và phân tích trong việc nghiên cứu mối liên hệ giữa đổi mới trong
tư duy dẫn đến sự đổi mới và phát triển kinh tế - chính trị - xã hội ở nước ta,
đặc biệt là kinh tế.
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên
cứu

chung:

phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí

Minh



các

phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp chuyên gia… Bài tiểu luận dựa trên những
dữ kiện thu thập được để tạo nên một cách nhìn tổng quát về xu hướng đổi
mới kinh tế dưới ảnh hưởng của các chính sách đổi mới tư duy ở Việt Nam
và sự liên quan mật thiết giữa hai lĩnh vực quan trọng này.

2



I.

Lý luận, thực tiễn và mối liên hệ giữa lý luận và thực
tiễn

1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về lý luận
1.1 Khái niệm lý luận
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật
của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ
thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật…
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận
thức, đồng thời thể hiện như trình độ cao của nhận thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng: “Lý luận là sự tổng kết những
kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Lý luận là xuyên suốt và chi phối tư duy lôgích, qua đó,
chi phối ngày càng mạnh mẽ mọi hoạt động nhận thức và
thực tiễn của đời sống xã hội. Không thể đồng nhất mọi khái
niệm lý luận với chân lý vì lý luận có hai dạng: khái niệm lý
luận chân chính - khoa học và khái niệm lý luận giả tạo phản khoa học.
Dù là ở dạng nào, lý luận cũng thường mang tính hệ
thống. Tính hệ thống của một lý luận phản ánh - hoặc trung
thực hoặc xuyên tạc tính hệ thống vốn có ở bản thân đối
tượng được phản ánh, qua đó mà phản ánh trung thực hoặc
xuyên tạc cấu trúc nội tại cùng với bản chất của đối tượng.
1.2 Vai trò của lý luận
- Lý luận khái quát bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, kinh
nghiệm thực tiễn và tổng kết thực tiễn

- Vạch ra những qui luật vận động phát triển của thực tiễn.
- Liên kết, tập hợp, giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức thực
hiện.
3


- Chỉ đạo và cải tạo cuộc sống.
2. Quan niệm của triết học Mác – Lê-nin về thực tiễn
2.1 Khái niệm thực tiễn
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, phạm trù thực tiễn là một trong
những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác – Lênin nói chung và
của lý luận nhận thức Macxit nói riêng. Họ định nghĩa rằng thực tiễn là
toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn có các đặc trưng:
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động vật chất, không phải tinh thần. Khái
niệm thực tiễn đặc trưng cho hoạt động sống của xã hội loài người.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động có ý thức của con người được tiến hành
để đạt tới mục đích rõ ràng được đặt ra từ trước.
Thứ ba, thực tiễn có tính sáng tạo, nó là hoạt động người hướng tới cải
tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, từ đó cải tạo chính con người.
Cuối cùng, thực tiễn mang tính chất lịch sử - xã hội. Tùy thuộc vào bối
cảnh, không gian, thời gian mà thực tiễn có cách thức, phương pháp thực
hiện khác nhau.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có 3 hình thức cơ bản đó là hoạt động sản xuất, hoạt động chính
trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Mỗi hình thức hoạt động cơ
bản đó có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế cho
nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau.

2.2 Vai trò của thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức. Sở dĩ vậy bởi
thực tiễn là điểm xuất pháp trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm
vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
Ngoài ra, còn nguyên nhân nữa là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác
quan của con người ngày một hoàn thiện; năng lực tư duy lôgích không
4


ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhân thức ngày càng
hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận
thức thế giới. Ví dụ, thời cổ đại, ban đầu, con người chưa biết tự vệ. Lâu
dần, họ nghĩ ra cách dùng các công cụ thô sơ như que, gậy, đá... để xua đuổi
thú dữ. Ngày nay, con người đã vận dụng óc sáng tạo để chế tạo ra những
vũ khí tân tiến.
Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá
trình nhận thức. Điều này có nghĩa rằng thực tiễn là thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời, thực tiễn không
ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triện và hoàn thiện nhận thức.
3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn
Như đã nói ở trên, thực tiễn là cơ sở, động lực và mục
đích chủ yếu, trực tiếp của nhận thức và do đó, cũng là của
lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, lý luận.
Mọi tri thức, lý luận, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực
tiễn. Ngày nay khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, mối quan hệ này cũng vẫn không thay đổi. Lý luận
luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển
trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực
tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể "cải tạo" thế giới.
Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả

năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Mô hình lý
tưởng về xã hội tương lai mà thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là
mô hình lý luận. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó
trong xã hội không phải là ở ngoài khuôn khổ của thực tiễn,
mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Mặt khác, lý luận cũng có vai trò hết sức to lớn đối với
thực tiễn. Không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn
5


người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm từ trước, dễ dẫn tới
tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quan
trọng nhất hoặc duy nhất quyết định thành công trong hoạt
động thực tiễn. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới
bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do
kém lý luận, khinh lý luận nên người ta không hiểu thực chất
lý luận, chỉ thuộc một cách máy móc câu chữ lý luận và do
đó họ không thể hiểu được bản chất cũng như không thể
vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn
mới nảy sinh, đồng thời không thể sáng tạo ra những hướng
giải quyết mới tốt hơn. Nếu có vận dụng lý luận mà không
hiểu rõ thì cũng không sát thực tế, hoặc không phù hợp với
thực tiễn, với xã hội đang ngày càng phát triển.
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, theo em, còn được làm sáng tỏ
hơn và cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thể - khách thể. Thực
tiễn là khâu trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể ở đây
không đơn giản là con người có tư duy lý luận, con người bằng xương bằng
thịt. Chủ thể được thể hiện qua tổng thể các đặc trưng xã hội của nó, còn
thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách thể. Thực tiễn, có
thể nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối

tượng hoá bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách thể, phát
triển các năng lực của mình. Như vậy, ngoài thực tiễn, chủ thể không có
một phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc
thực hiện nó trong thế giới.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ
không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng lý luận nhiều đến
đâu đi chăng nữa, thì thực tiễn và lý luận luôn vẫn tồn tại với tư cách là hai
6


lĩnh vực tương đối độc lập của hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý
tưởng (kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi trước hoạt động thực tiễn.
Nói cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối
liên hệ giữa chúng luôn mang tính lịch sử - cụ thể - đó là khâu nhận thức lý
luận (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực).
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử –
xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được
tính chất biện chứng của quá trình đó, theo em, là tiền đề quan trọng bậc
nhất giúp chúng ta luôn có được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh
được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy
móc và bệnh lý luận suông. Tóm lại, nắm được mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn giúp chúng ta áp dụng vào cuộc sống tốt hơn, tối ưu hóa kết quả
tích cực, dần loại bỏ những yếu tố tiêu cực, dẫn tới sự hoàn thiện hơn.

7


II.

Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở

nước ta

1. Thực trạng trước đổi mới - lý do đổi mới
Trong giai đoạn sau giải phóng, Đảng ta đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng
mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá
mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ
trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương;
công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết
điểm nghiêm trọng.
Những sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan này đã dẫn đến khủng hoảng trầm trọng về kinh
tế xã hội ở Việt Nam những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ
XX. Tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt:
sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; đời
sống nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn; hiện tượng
tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng…
Tất cả những vấn đề trên đều là do chúng ta chưa biết gắn kết thực tiễn
với lý luận. Ví dụ như kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 là kế hoạch phát triển
trung hạn đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Và với sự lạc quan quá
cao trong đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế khi chuyển từ thời kỳ chiến
tranh sang thời kỳ hòa bình, chúng ta đã đề ra các mục tiêu, kế hoạch mà
8


trên thực tế không thể thực hiện được. Đến năm 198, so với kế hoạch đã đề

ra thì thực tế đã đạt được là: sản lượng lương thực 69%, than 52%, điện
72%, đánh cá biển 40%, vải 39%, giấy 37%... Nhưng sự mất cân đối của
nền kinh tế sau chiến tranh chưa kịp khắc phục thì lại thêm những mất cân
đối do sự đầu tư
vốn đồng thời cho một lượng tương đối lớn những công trình có quy mô
lớn, lâu hoàn vốn.
Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng
về chủ trương, chính sách, về chỉ đạo chiến lược và về tổ
chức thực hiện. Chúng bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng. Bên cạnh đó, Đảng còn có khuyết điểm trong việc
đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong việc xác định
mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Xét về tư tưởng, thực trạng trên đã bộc lộ sự lạc hậu về
nhận thức lý luận và sự yếu kém về vận dụng các quy luật
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Xét về tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là thiếu quy hoạch
và chậm đổi mới cán bộ; vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong sinh hoạt đảng, phong cách lãnh đạo và lề lối làm
việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu; tổ chức bộ máy quá
lớn, chồng chéo và kém hiệu lực; giáo dục và quản lý cán
bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.
Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề trước mắt là đưa đất nước ta
thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, chính trị thế giớin đang
9


có nhiều biến động phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ bùng
nổ, thay đổi bất lợi cho sự phát triển của nước ta lúc bấy giờ.

Trong tình thế cần lựa chọn, thay đổi, cải cách, bằng kinh
nghiệm lãnh đạo sáng suốt nhìn thẳng vào sự thật, tin tưởng
vào lực lượng quần chúng và trách nhiệm lớn lao trước vận
mệnh của Tổ quốc, Đảng ta đã kiên quyết đổi mới trên tất
cả các lĩnh vực, trước hết là đổi mới về tư duy và trọng tâm
là đổi mới kinh tế.
Vậy thì liệu đổi mới tư duy tác động lại tới đổi mới kinh tế như thế
nào?
2. Đổi mới tư duy đã trở thành động lực của đổi mới kinh tế
II.1 Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
Tại sao Đảng ta lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công
cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy? Bởi vì không có
bước đổi mới tư duy đi trước thì không có bất cứ một sự đổi
mới nào cả. Đổi mới tư duy để tìm ra những vấn đề lý luận
và thực tiễn nước ta, làm căn cứ phương pháp luận cho việc
xác định con đường và bước đi sắp tới. Đổi mới tư duy thực
chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý nghĩa lịch sử. Tư
tưởng giải phóng là một quá trình rời bỏ khỏi bản thân mình
và toàn xã hội những gì đang kìm hãm và cản trở sự phát
triển, là quá trình tổ chức lại xã hội và đưa vào cơ chế vận
hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất
và tinh thần, tạo nên lực đẩy cho sự phát triển nhanh và bền
vững.
Khẳng định đổi mới tư duy là trước tiên, là cơ sở cho việc
đổi mới ở các lĩnh vực khác, Đảng ta cũng khẳng định đổi
10


mới kinh tế giữ vai trò trọng tâm. Điều đó không chỉ có ý
nghĩa là kinh tế có vị trí hàng đầu, có tác dụng quyết định

mà còn là vì phát triển kinh tế trong điều kiện bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội như nước ta, có
tầm quan trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là quan trọng
bậc nhất.
Nó còn có ý nghĩa là vai trò kinh tế tuy chiếm vị trí hàng
đầu nhưng tư duy kinh tế của chúng ta trong nhiều năm qua
còn quá lạc hậu so với cuộc sống, cản trở không ít đến sự
phát triển kinh tế. Tư duy kinh tế lỗi thời bắt nguồn từ căn
bệnh giáo điều, bảo thủ, trì trệ, luôn bám lấy cái cũ, khăng
khăng cái truyền thống mà không chịu đổi mới, chính vì vậy
mà nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào một cuộc khủng
hoảng kéo dài và đang trở thành vấn đề nóng bỏng, nổi lên
hàng đầu. Đổi mới tư duy kinh tế, vì vậy, là điểm xuất phát
trong đổi mới lý luận của Đảng, là điều hợp với thực tế, với
lôgích cuộc sống.
II.2 Đường lối đổi mới của Đảng được hình thành thông qua hàng loạt
chuyển biến của tư duy
Đổi mới tư duy không phải chỉ đơn giản là đưa ra những nhận thức,
những tư tưởng và phương pháp tư duy khác với trước. Cái mới phải vừa
bao hàm những gì đúng đắn đã có trước kia, lại vừa loại bỏ những gì sai
trái, lệch lạc, lỗi thời của cái cũ, đồng thời bổ sung những gì mới mẻ, phản
ánh đúng thực tiễn, hướng đất nước đi lên, phù hợp với những quy luật
khách quan của sự phát triển xã hội, của sự phát triển đất nước và con người
Việt Nam. Điều này thể hiện sự phủ định biện chứng mà chủ nghĩa Mác-Lê

11


nin đã nêu ra. Từ cái cũ đi đến cái mới, đó chính là sự tiếp biến, là sự vượt
gộp, từ đó tạo ra sự phát triển theo hướng xoáy trôn ốc của tư duy.

Thực tiễn cho thấy, sức sống của một Đảng chính trị tập
trung trước hết là ở đường lối của chính Đảng ấy. Là một
Đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo cách mạng cũng chính
bằng đường lối chính trị của mình.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng là
những vấn đề hoàn toàn mới cả về lý luận và thực tiễn. Mác,
Ăng ghen, Lênin và kể cả các lãnh tụ tiền bối của Đảng ta
cũng chưa từng đề cập đến vấn đề này. Con đường phía
trước đòi hỏi chúng ta phải hoàn toàn sáng tạo mới.
Con đường ấy thể hiện sự trung thành với quá khứ,
nhưng không lệ thuộc vào quá khứ. Trong kinh tế, chúng ta
một mặt rất muốn phát triển, nhưng mặt khác lại lo sợ phát
triển vượt khỏi khuôn khổ chuẩn mực chủ nghĩa xã hội theo
tiêu chí truyền thống. Vì vậy, đường lối kinh tế vẫn nặng hơi
thở của lối tư duy cũ, tư duy thời kế hoạch hoá - tư duy bao
cấp, đối lập với kinh tế thị trường. Kết quả là đường lối về
kinh tế chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn lực hiện có. Nguy
cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa hơn là có thật. Do đó,
Đảng đã chỉ đạo chuyển sang kinh tế thị trường, thiết kế
một hệ thống chính sách nhằm tạo điều kiện để tất cả mọi
công dân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, có khả
năng làm kinh tế đều có thể tham gia làm kinh tế, theo
những định hướng vĩ mô của nhà nước, trong khuôn khổ
pháp luật.
12


II.3Thành quả nhờ áp dụng đổi mới tư duy trong đổi mới kinh tế
Đầu tiên là việc mở của nền kinh tế và đổi mới chính sách cơ cấu, đem
lại những thành công rực rỡ cho công cuộc đổi mới. Cho đến nay, nền kinh

tế nhiều thành phần đã cơ bản hình thành, tạo nên sự sống động mới trong
sản xuất, kinh doanh. Nhìn khái quát quan hệ sản xuất nhiều mặt đã phù
hợp hơn với lực lượng sản xuất, tác dụng tích cực giải phóng đáng kể lực
lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, từng bước
khắc phục đói nghèo, cải thiện đời sống của nhân dân.
Thứ hai là cơ chế chính sách không ngừng đổi mới. Doanh nghiệp Nhà
nước được tổ chức, sắp xếp lại, bước đầu chuyển sang đa sở hữu, giảm
nhiều tính bao cấp, tăng cường đáng kể quyền tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh; quản lý nội bộ có những chuyển biến tích cực, khắc phục một phần
hiện tượng trì trệ, phát huy tác dụng chủ đạo nhất định trong nền kinh tế.
Chúng ta đã thực hiện chuyển hướng chiến lược phát triển từ chỗ ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng sang tập trung các nguồn lực để thúc đẩy
nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã làm cho sự tăng
trưởng và cơ cấu của nền kinh tế thay đổi đáng kể. Sản lượng lương thực từ
18.4 triệu tấn năm 1986 đã lên 21.5 triệu tấn năm 1993, làm cho Việt Nam
chuyển từ nước nhập khẩu lương thực thành nước xuất khẩu hàng năm 1.5
đến 2 triệu tấn gạo. Sản xuất công nghiệp dù có trì trệ những năm 1989 1990 nhưng đã bắt đầu có bước tiến bộ trong cải thiện mặt hàng và chất
lượng, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Năm 1991, nền công nghiệp đã hồi phục
nhịp độ tăng trưởng và năm 1982 đã đạt nhịp tăng khá cao. Sự thay đổi
trong mậu dịch quốc tế cũng đáng chú ý. Trong những năm 1986 - 1988,
thiếu hụt trong cán cân ngoại thương khoảng 1.3 đến 1.6 tỷ USD mỗi năm.
Con số đã giảm dần, và đến 1991 chỉ còn 160 triệu USD, chủ yếu nhờ giá
trị xuất khẩu tăng lên nhanh chóng. Nền kinh tế nước ta đã phát triển hơn,
có chỗ đứng trên thị trường.
13


KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về những mối liên hệ, ảnh hưởng giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới tư duy ở nước ta, chúng ta có thể đánh giá lại quá trình

đổi mới, phát triển kinh tế một cách tổng quát và rút ra bài học từ chính quá
trình đổi mới.
Việt Nam tiến hành các cuộc cải cách trong bối cảnh bị cô lập tương đối
cả về chính trị và kinh tế. Nguồn viện trở, cho vay của Liên Xô bị cắt từ cuối
những năm 80; các tổ chức tài chính quốc tế lớn giới hạn sự trợ giúp của họ
cho Việt Nam ở lĩnh vực tư vấn. Trái lại sự phong tỏa về kinh tế, sự lôi cuốn
Việt Nam vào những xung đột chính trị và quân sự bởi các yếu tố bên ngoài đã
buộc đất nước phải tiêu hao nhiều nguồn lực mà lẽ ra có thể dùng cho tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Trong bối cảnh như vậy, nền độc lập và sự
đoàn kết dân tộc có tính chất truyền thống vẫn được bảo tồn song song với quá
trình cải cách đổi mới.
Chúng ta đã lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động là nhằm giải quyết thắng lợi
những yêu cầu của công cuộc đổi mới, của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay. Đó chính là vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát
triển chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là con đường
phát triển tiếp tục tư duy của Đảng và của dân tộc.
Do thời gian có hạn, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế,
tài liệu ít và hạn chế về phạm vi điều tra, đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót nhất định. Em hy vọng đề tài sẽ được
tiếp tục tổ chức nghiên cứu ở phạm vi rộng lớn và sâu sắc
hơn, phạm vi thu thập dữ liệu sẽ được mở rộng hơn. Và em
cũng mong trong lần nghiên cứu sau, đề tài vẫn vận dụng
14


phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin để có cái nhìn khách
quan cũng như phù hợp với chủ trương của Đảng ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
2. Phan Đình Diệu, Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế xã
hội,

Tạp

chí

Tia

sáng - số đăng ngày 28/9/2006.

3.Đảng cộng sản Việt Nam, Tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị
quyết Hội nghị Trung Ương 6 khóa X.
4. PGS. Nguyễn Văn Đặng, Nhìn lại quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta,
Tạp chí cộng sản.
5. Internet, Tương lai cần đổi mới tư duy về vai trò của nhà doanh
nghiệp, Tạp chí thị trường Tài chính tiền tệ.

6.Vi Thái Lang, Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn, Tạp chí Triết học - số đăng ngày 11/5/2007.

7.Wikipedia, />
15


16




×