Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quan điểm của triết học mác – lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.08 KB, 14 trang )

Lời mở đầu

Vấn đề con người là nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Triết học Mác – Lênin
ngay từ khi ra đời đã giải quyết nhiều nội dung liên quan đến con người. Tuy nhiên trong
bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, vai trò và khả năng của triết học Mác – Lênin
dễ dàng bị phủ nhận do xuất hiện các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khác khả quan
hơn cho sự nghiệp phát triển con người. Và không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát
triển đó trong chủ nghĩa tư bản. Số khác trở về tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn
giáo và hệ tư tưởng truyền thống. Song nhìn nhận một cách khách quan và khoa học sự
tồn tại của triết học Mác – Lênin trong xã hội ta có lẽ không thể phủ nhận được vai trò
vượt trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con người.
Đặc biệt trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như hiện nay, việc phát triển
toàn diện con người là vô cùng cấp thiết. Con người đang chạy đua và cạnh tranh với
công nghệ và máy móc trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Việc hiểu rõ bản chất con
người cũng như tiềm năng phát triển của bản thân hết sức quan trọng. Trên cơ sở vận
dụng khoa học và sáng tạo triết học Mác – Lênin về con người, nghị quyết Đại hội Đại
biểu Toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng
và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.” Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng
trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tôi chọn đề tài: “Quan điểm của
1


triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
Hoàn thành bài tiểu luận này, tôi hi vọng góp một phần trong việc làm rõ niềm tin của
mọi người vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Đồng thời qua đây
tôi xin đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực Việt Nam để đáp ứng nhu
cầu hội nhập quốc tế và hoàn thành đúng tiến độ mục tiêu của Đảng.


2


I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
A. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người
a) Trong nền triết học Trung Hoa cổ, khi xét tới vấn đề bản tính con người, các nhà
tư tưởng tiếp cận thực tiễn hoạt động chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận về
bản tính tự nhiên của con người là Thiện.
b) Ngược lại, các nhà tư tưởng của trường phái triết học Ấn Đột lại tiếp cận từ sự
suy tư về con người và đời người ở tầm sâu triết lí siêu hình đối với những vấn đề nhân
sinh quan và rút ra kết luận về bản tính vô ngã, vô thường, hướng thiện của con người
trên con đường truy tìm sự giác ngộ.
c) Theo quan điểm triết học Phật giáo Con người là một Pháp. Nghĩa là con người
có bản chất riêng biệt để dựa vào đó mà nhận biết, lý giải và phân biệt với các sự vật,
hiện tượng khác, là một thực thể chịu sự quy định của các phép tắc vốn có của tự nhiên.
Nguồn gốc hình thành con người: Con người là sự hợp nhất cuả Danh(tinh thần) và
sắc(vật chất). Con người chỉ được gọi là con người khi có sự tương hợp của hai yếu tố:
tinh thần và vật chất, là hai nhân tố hình thành nên con người. Con người là sự hợp nhất
của Lục giới là sáu yếu tố hình thành con người gồm: đất, nước, gió, lửa, không và thức.
Là sự hợp nhất của Ngũ Uẩn gồm có: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tường uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn.
Bản chất con người trong triết học Phật giáo: là vô ngã. Ngã là một phạm trù dùng để chỉ

3


một chủ thể vĩnh hằng, độc lập, tuyệt đối, vĩnh viễn, bất biến, có trước con người và quy
định bản chất con người. Bản chất con người là vô ngã tức là không có bản tính cố
định.Ngay khi con người ra đời đã là kết quả của một chuỗi các nhân duyên, trong đó có
vô minh và Ái dục là hai nhân tố cơ bản, trong đó Vô minh là bản chất con người. Bên

cạnh vô minh tính con người còn có Phật tính là bản tính thường hằng của con người, còn
vô minh tính chỉ là lớp màn ảo tưởng tạm thời che đi sự sáng suốt của Phật tính.
d) Quan niệm về con người trong triết học Nho giáo: Khổng tử cho rằng bản tính
mỗi con người là khác nhau. Sự khác nhau của bản tính con người một phần do thiên
phú, một phần lớn là do hoàn cảnh xãhội, do phong tục tập quán quy định. Con người tốt
hay xấu, thiện hay ác là sống trong xã hội mà nên. Mạnh tử nêu ra bản tính con người là
thiện. Tính thiện biểu hiện ở bốn đức lớn bẩm sinh: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Tính thiện là
lương tâm tiên thiên mà con người phải tồn dưỡng thì mới thành người được. Vì vậy ông
coi trọng giáo dục, coi sự giáo dục là một bộ phận trọng yếu của chính trị. Nếu để tính
thiện mai một thì con người sẽ gần với cầm thú. Tuân tử cho rằng con người là ác. Phải
giáo hóa thành thiện. Cao Tử cho rằng bản tính con người không phải thiện cũng chẳng
phải ác. Ngoài bản năng tự nhiên còn có Nhân tính. Hàn Phi Tử cho rằng bản chất con
người thường bị che dấu. Đạo làm người là cái phải được chấp nhận như lẽ tất nhiên.
Như vậy, các nhà Nho có quan niệm khác nhau về bản tính con người, nhưng ở họ có
quan điểm thống nhất chung cần phải giáo dục con người đến tính thiện.

4


2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người
Trong triết học phương Tây có hai khuynh hướng cơ bản là duy vật và duy tâm trong
quan niệm về con người.
a) Thời kỳ cổ đại:
Quan niệm duy vật chất phác, mộc mạc trong triết học tự nhiên của phái nguyên tử luận
về con người: Các nhà duy vật từ cổ đại đã khẳng định bản chất vật chất tự nhiên của con
người, coi con người cũng như vạn vật trong tự nhiên không có gì là thần bí. Tiêu biểu là
quan niệm duy vật theo tinh thần nguyên tử luận của Đêmôcrít về con người. Ông cho
nguyên tử là cơ sở để tạo nên thể xác và linh hồn con người. Đêmôcrit cho rằng sự sống
là quá trình biến đổi của bản thân giới tự nhiên. Trải qua quá trình biến đổi lâu dài từ vật
thể ẩm ướt, dưới tác động môi trường phát sinh sự sống, hình thành sinh vật có linh hồn.

Quan niệm duy tâm về con người trong triết học:Phái Pitago quan niệm con người chỉ là
hiện thân của các con số và con số là cái có trước.Con số là nền tảng, bản chất hiện tượng
ý thức. Linh hồn con người cũng được cấu thành từ các con số.
b) Thời trung cổ
Quan điểm con người trong giáo lý Kito: Thiên chúa tạo dựng nên vũ trụ và loài người
trong 6 ngày và ngày thứ bảy người nghỉ ngơi. Bản chất con người đã có phẩm chất siêu
việt, vượt trên muôn loài, có lý trí, hướng về sự thiện đích thực, được tự do lựa chọn cho
mình một cuộc sống lý tưởng.
c) Thời kỳ Phục hưng- Cận đại
5


Bêcơn là nhà triết học thời cận đại, con người là sản phẩm của tạo hóa, nguồn gốc tự
nhiên và thượng đế, con người cần đến tôn giáo. Đềcactơ cho rằng con người được cấu
thành từ linh hồn và thể xác.Cơ thể con người là khí quan vật chất, linh hồn là chức năng
hoạt động cơ thể con người.
d) Triết học cổ điển Đức
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm triêt học về
con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen quan niệm con người là
hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được
xem xét vè mặt tinh thần Phơ bách đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan
niệm triết học Heghen, ông quan niệm con người là sản phẩm tự nhiên, có bản năng tự
nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh.
Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý luận xem xét người
một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu
tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con
người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên
đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người.Sau này Triết học Mác- Lênin đã kế thừa
và khắc phục những mặt hạn chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con người
đã có trong các học thuyết triết học trước đây.


6


B. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã
hội
Mặt sinh vật bao gồm cơ thể và những nhu cầu của cơ thể cùng các quy luật sinh học chi
phối đời sống cơ thể con người.
Mặt xã hội bao gồm tất cả những mối quan hệ xã hội, những hoạt động xã hội và đời
sống tinh thần con người.
Hai mặt này có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời: Nhu cầu sinh học phải mang
giá trị văn minh con người. Nhu cầu xã hội cũng không thể thoát li khỏi tiền đề của nhu
cầu sinh học. Có thể nói, mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người nhưng
mặt xã hội mới quy định sự khác biệt của con người hay nói cách khác là quy định bản
chất của con người. Tính xã hội biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Qua đó, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống, hình thành và phát triển
ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển con
người chịu sự quy định của ba hệ thống quy luật. Quy luật tự nhiên quy định phương diện
sinh học của con người. Quy luật tâm lý ý thức quy định sự hình thành tình cảm, niềm
tin, khát vọng, v.v của con người, mặc dù chúng được hình thành trên cơ sở nền tảng sinh
học của con người. Quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội của con người.

7


2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực

của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà
là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hòa của toàn bộ
quan hệ xã hội. Rõ ràng, con người là con người hiện thực, sống trong những điều kiện
lịch sử cụ thể, trong một thời đại xác định. Thông qua các quan hệ xã hội con người bộc
lộ bản chất xã hội của mình.Chúng ta không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người,
song không có nghĩa là triết học Mác-Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật
trong yếu tố cấu thành bản chất con người.Chính Lênin đã không tán thành quan điểm
cho rằng mọi người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự bình
đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới bình đẳng thì
đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ không phải là sự bình đẳng
về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất
con người.

8


3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Có thể khẳng định một điều là không có tự nhiên, không có lịch sử - xã hội thì không thể
có con người. Vì thế con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới
hữu sinh. Nhưng điều quan trọng hơn là con người luôn là chủ thể lịch sử - xã hội.
Với tư cách là chủ thể lịch sử - xã hội con người chủ động lựa chọn sự tác động của xã
hội đối với mình, không chịu khuất phục trước môi trường, điều kiện khách quan, chủ
động tác động, cải tạo điều kiện khách quan. Con người hoạt động thực tiễn, tác động và
cải biến giới tự nhiên theo mục đích của mình; đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử - xã hội. Trong quá trình đó chính con người đã sáng tạo ra lịch sử của
mình.Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người vừa là

phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Không có hoạt động của con
người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ
lịch sử loài người.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín mà là một hệ thống mở tương
xứng với điều kiện tồn tại của con người. Để phát triển bản chất con người theo hướng
tích cực cần phải cho hoàn cảnh mang tính người nhiều hơn.

9


II. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
A. Nhân tố con người
Con người chính là một tài nguyên, nguồn lực trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Trước
hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại
dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng khi có ý thức của con người. con người là
ngùôn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn
kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp tác động vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là
yếu tố quan trọng nhất.
B. Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa và thực trạng ở nước ta hiện nay
Công nghiệp hoá hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp, tiến bộ khoa học
- công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao.
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải
nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết định cảu
nhân tố con người – chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn cải cách vật chất và văn hóa
tinh thần. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào về số lượng nhưng lại thiếu hụt

nhân lực có trình độ cao. Năng suất lao động xã hội thấp hiện nay đặt ra nhiều thách thức
10


cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới. Chúng ta cũng
đang gặp nhiều thách thức trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ
nhất là về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế mà chủ yếu là yếu tố về con người. Thứ
hai là hạn chế khả năng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
C. Những giải pháp xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay không thể quan niệm đơn thuần nguồn nhân lực là lực lượng lao động với
nghĩa đơn giản là những người làm công ăn lương, những người nông dân ít có điều kiện
học hành… mà phải nhìn nhận nguồn nhân lực bao gồm tất cả mọi người thuộc mọi tầng
lớp xã hội và nghề nghiệp khác nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp nhất đến cao nhất. Nhìn
nhận như vậy, quốc sách về phát triển nguồn nhân lực hiển nhiên đòi hỏi phải đổi mới
triệt để toàn xã hội
Trong lĩnh vực kinh tế: nâng cao vị thế của người lao động, huy động người dân đóng
góp ý kiến, xây dựng đất nước, phát huy sáng kiến, tăng cường giáo dục đạo đức trách
nhiệm.
Trong lĩnh vực chính trị: nâng cao trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, tăng cường vai trò giám sát của người dân trong hoạt động của Nhà nước,
giáo dục tinh thần yêu nước.

11


Trong lĩnh vực xã hội: Loại bỏ phong tục tập quán lạc hậu, thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo, giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, mọi người dân
đều được hưởng thành quả văn hóa, giáo dục, y tế.
Trong lĩnh vực giáo dục: Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa,

hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nhanh nguồn nhân
lực chất lượng cao. Ngoài giáo dục đào tạo văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ về mặt lí
thuyết, cần chú ý điều kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục kỉ luật, tác phong lao động
công nghiệp, rèn luyện kĩ năng và khả năng thích ứng của người lao động với những đặc
điểm của nền kinh tế thị trường. Song song với vấn đề giáo dục đào tạo con người, chúng
ta phải quan tâm đến vấn đề dân số, sức khoẻ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
giảm sức ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục. Trong điều kiện của Việt Nam hiện
nay, yêu cầu đa dạng hoá các loại hình giáo dục đào tạo là rất cần thiết để bổ sung, cải
thiện hiện trạng nguồn nhân lực, nhằm khắc phục những bất hợp lí về việc phân bổ nguồn
nhân lực, đồng thời nâng cao hiệu quả của đầu tư cho giáo dục đào tạo để phục vụ cho
nhu cầu phát triển Giáo dục đại học nên mở rộng cho tất cả những ai muốn học, có năng
lực và trang trải được chi phí học tập. Chính quyền có các chính sách cho vay với lãi suất
thấp để tạo điều kiện cho sinh viên học tập. giáo dục theo hướng đáp ứng đúng trình độ,
nhu cầu của từng cá nhân
Trong lĩnh vực: tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật: Tăng cường công tác quản lý của nhà
nước trong hoạt động sáng tác, biểu diễn góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng

12


cao giá trị nhân văn trong con người Việt Nam, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng suy thoái về đạo đức lối sống.
Quan tâm đúng mức tới nhu cầu và lợi ích của người lao động trong sản xuất cũng như
trong hoạt động xã hội

Kết luận

Con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích của một chính sách
kinh tế - xã hội. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hướng đất nước ta cần phải đi đâu, làm gì và làm
như thế nào, để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định thắng
lợi sự nghiệp đổi mới cũng là thành công của quá trình xây dựng và phát triển con người
toàn diện. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là con đường thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đói nghèo, lạc hậu và tạo đà cho bước phát triển tiếp
theo của sự nghiệp công nghiệp nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì nước ta phải xây
dựng được một chính sách phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa trông rộng, phát triển con
người, nâng cao dần chất lượng của người lao động.

13


Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia.
2. Hướng dẫn học Triết học của Viện đại học Mở 2014
3. C.Mác và Ph.Awngghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội
4. Đề tài cấp Nhà nước: “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020” của
PGS. TS. Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài nhân lực.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà
Nội, năm 2001.
6. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, GS.TS Lê Hữu Nghĩa chủ biên
7. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới tháng 6/2012

14



×