Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quan điểm của triết học marx – lenin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.5 KB, 20 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến hiện
đại. Đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, với mục tiêu đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần nhân dân, thì
con người và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế. Nghị quyết đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công
cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa”.
Bên cạnh đó, nguồn lực phát triển của xã hội, trước hết và quan trọng hơn cả
cũng chính là con người - nguồn tiềm năng sức lao động. Với những yêu cầu bức thiết
đó, trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, hơn lúc nào hết, chúng ta
cần xem xét nguồn nhân lực Việt Nam đang bộc lộ những ưu điểm, hạn chế, và cần
khắc phục như thế nào để xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao chất
lượng người lao động, phát huy nhân tố con người, phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là trong sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, em đã chọn đề tài tiểu luận: “Quan
điểm của triết học Marx – Lenin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người
trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nước ta” để nghiên cứu. Dù đã có
nhiều cố gắng và tìm tòi, song do kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi
những thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận được phản hồi cũng như sự giúp đỡ của cô và
các bạn để hoàn thiện bài tiểu luận hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


3


NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA MARX – LENIN VỀ CON NGƯỜI
1. Khái niệm con người


Triết học Marx – Lenin đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thời khẳng định con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể
xã hội. Hai yếu tố này gắn kết và thống nhất với nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng
tính xã hội và không có tính xã hội tách rời tự nhiên.
Trước hết, tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm
của giới tự nhiên. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người. Yếu tố đó bao gồm cơ thể, nhu cầu của cơ thể và những quy luật
sinh học chi phối đời sống cơ thể con người. Bởi vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ
của con người”, con người là một bộ phận của tự nhiên.
Tiếp đó, đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với loài vật là mặt xã
hội. Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội,
đời sống tinh thần của con người. Với biện pháp biện chứng duy vật, triết học Marx
nhận thức vấn đề con người trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là
vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất; hoạt động sản xuất
biểu hiện tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động sản xuất, con người tạo ra
của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn
ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau, nhưng thống
nhất với nhau:
- Những quy luật quy định phương diện sinh học của con người.
- Những quy luật hình thành hệ thống tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống
con người, bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Mối quan hệ giữa hai mặt đó là cơ


sở hình thành hệ thống nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người,

như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm
mỹ và hưởng các giá trị tinh thần.
4


Với phương pháp biện chứng duy vật, chúng ta thấy rằng hai mặt tự nhiên và xã
hội trong con người có quan hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Trong đó, mặt
sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng mặt xã hội mới giữ vai trò
quyết định bản chất của con người. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào
nhau để tạo thành con người tự nhiên – xã hội.

2. Bản chất con người
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, trong tác phẩm “Luận cương về
Fruerbach”, K.Marx đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con
người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.
Khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Marx – Lenin không phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, nó chỉ nhấn mạnh sự phân biệt giữa con
người với động vật trước hết ở bản chất xã hội.
Luận đề trên chỉ rõ: con người vượt lên trên thế giới loài vật ở cả ba phương diện
khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính con người.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ, con người mới thực sự bộc lộ bản chất xã hội của
mình. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người
đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại, cũng như phát triển cả thể lực
lẫn tư duy trí tuệ.
Sự hình thành và phát triển đó là quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất
của con người:
- Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Marx nhận thức vấn đề con
người trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra
của cải vật chất. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức

cơ thể của con người quy định.
- Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt, con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống
vật chất của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã thay đổi, cải
biến và tái sản xuất toàn bộ giới tự nhiên. Tính xã hội của con người biểu hiện trong
hoạt động sản xuất vật chất, và hoạt động đó là biểu hiện căn bản tính xã hội của con
người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải, vật chất
và tinh thần để phục vụ đời sống của mình; hình thành, phát triển ngôn ngữ và tư duy;
xác lập những mối quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành
bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng
đồng xã hội.


5


3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
Với tư các là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải
biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng cũng đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử của chính bản thân mình. Bản chất của con người không phải là một hệ thống
đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. K.Marx
đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm
của nhưng hoàn cảnh và của giáo dục quên rằng bản thân nhà giáo dục cũng cần phải
được giáo dục”. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Angels cũng cho
rằng: “Con người càng cách xa con vật (hiểu theo nghĩa hẹp) bao nhiêu thì lại càng tự
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn
cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách
tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau. Đó là biện
chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của
lịch sử xã hội loài người.

II. VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay
1.1. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo quan điểm của Đảng ta, công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi một cách
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã
hội, từ sử dụng lao động thủ công sang lao động với khoa học công nghệ tiên tiến, hiện
đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm gắn liền với hiện đại hóa, bởi cuộc cách
mạng khoa học đã và đang diễn ra một số nước phát triển, chuyển dịch từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do đó, chúng ta cần phải tranh thủ ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế tri thức để hiện đại hóa
những ngành, những khâu và những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
6


1.2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước
Người ta đã tổng kết ra hai con đường công nghiệp hóa khác nhau: Công nghiệp
hóa cổ điển và phi cổ điển. Do có xu hướng rút ngắn thời gian hoàn thành, nước ta đi
theo con đường công nghiệp hóa phi cổ điển. Nói tới nhân tố quan trọng nhất trong

quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, người ta vốn chỉ nhắc đến công nghệ hiện
đại, nhưng kinh nghiệm của các nước đi theo con đường công nghiệp hóa phi cổ điển
cho thấy đó phải là con người.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là xu hướng phát triển của thế giới và cũng là con
đường tất yếu để nước ta đạt mục tiêu “Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước
mạnh”. Sự thành công của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi ngoài môi
trường chính trị ổn định, còn phải có nguồn lực cần thiết như nguồn nhân lực, vốn, tài
nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất. Những nguồn lực này có mối quan hệ chặt chẽ
và cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nhưng mức tác động và
vai trò của chúng lại không hề giống nhau. Trong đó, nguồn nhân lực chính là động lực
phát triển. Nguồn nhân lực có đủ về số lượng và mạnh về chất lượng thì công nghiệp
hóa - hiện đại hóa sẽ tất yếu phải tiến hành để đáp ứng điều kiện đó.
Khi đặt nguồn nhân lực trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và mức độ
chi phối của nó đến sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước, vai trò quyết định
của con người được biểu hiện ở những điểm sau:
- Trước hết, những nguồn lực đóng vai trò lớn trong sự phát triển của một quốc
gia như vốn, tài nguyên thiên nhiên hay vị trí địa lý đều chỉ phát huy tác dụng khi kết
hợp với nguồn lực con người, bởi con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, biết lợi
dụng và gắn kết chúng lại thành một sức mạnh tổng hợp. Vì thế, người lao động là yếu
tố quan trọng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
- Thứ hai, các nguồn lực khác đều có thể bị cạn kiệt khi khai thác, nhưng nguồn lực
con người, mà cốt lõi là trí tuệ, lại là vô tận. Điều đó biểu hiện ở chỗ nó không chỉ có khả
năng tự sản sinh về lượng, mà còn đổi mới và phát triển không ngừng về chất khi
được chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận
thức của con người có quá trình phát triển vô tận.
- Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn khi nó trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang
đưa các nước công nghiệp đến nền kinh tế trí tuệ. Ở những nước này, lực lượng sản
xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tới ½ tổng giá trị tài sản. Giờ đây, sức mạnh
của trí tuệ đạt đến mức con người có thể tạo ra những máy móc mô phỏng theo đặc

tính trí tuệ của chính mình. Rõ ràng, nhờ những công nghệ và kỹ thuật hiện đại do con
người sáng tạo ra mà nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ từng ngày.
- Cuối cùng, kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy sự thành công của công nghiệp hóa


- hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách, cũng như
tổ chức thực hiện, nghĩa là năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
7


Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Câu hỏi công nghiệp hóa - hiện đại hóa thành công hay thất bại chỉ
được trả lời khi yếu tố con người được đáp ứng. Vì thế, giải phóng tiềm năng con
người để phát huy tối đa nguồn nhân lực là một trong những quan điểm đổi mới có
tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi
mới. Việc định hướng đi vào sự phát triển con người và từ đó quyết định sự phát triển
của mọi mặt đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều.

2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển và sử dụng nguồn nhân lực
có hiệu quả ở nước ta hiện nay
2.1. Yêu cầu ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Sau hơn 20 năm đổi mới, từ một nền kinh tế thấp kém, nước ta đã đi lên chủ
nghĩa xã hội với những thay đổi quan trọng, sở hữu nền kinh tế tương đối phát triển và
có vị thế được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trình độ người lao động - yếu
tố độc nhất của lực lượng sản xuất, vẫn còn hạn chế và chưa đáp ứng được công cuộc
xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Về kết quả đã đạt được, trong những năm qua, nền kinh tế - xã hội phát triển và
năng suất lao động cao đã cải thiện đáng kể đời sống nhân dân Việt Nam. Đảng đã
quan tâm tới Giáo dục đào tạo, khẳng định đây là quốc sách hàng đầu nhằm tạo điều

kiện thuận lợi để cả nước trở thành “một xã hội học tập”. Trong quá trình học tập,
giảng dạy, các biện pháp “phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong học
sinh, sinh viên để nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề” đã
được thực hiện. Do trình độ học vấn được nâng lên và quan hệ xã hội, giao lưu quốc tế
được mở rộng, nên tính tích cực xã hội, tính tự chủ và sự năng động, sáng tạo của con
người Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn
chế. Trước hết, chúng ta quá đề cao mặt xã hội mà nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm
đúng mức tới nhu cầu vật chất và lợi ích cá nhân người lao động. Có những nơi đồng
hóa lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân, nên đã không phát huy được tính tích cực
xã hội của người lao động, khiến vai trò cá nhân bị lu mờ và tài năng cá nhân không
được khuyến khích.
Thứ hai, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ đang làm giảm
sự nhiệt tình và hăng say trong lao động, tác động không nhỏ tới niềm tin và sự phấn
đấu rèn luyện của thế hệ trẻ ngày nay. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý giữa các ngành, các
bậc học dẫn tới tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Nhìn
chung, việc đào tạo và sử dụng cán bộ ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, những nơi
cần thì không có, còn những nơi có thì có quá nhiều, tạo ra sức ép và gây ra sự lãng
phí rất lớn cho xã hội.


8


Thứ ba, sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế. Khí hậu Việt nam rất
thuận lợi cho việc trồng các loại cây nông, công nghiệp, nhưng hiệu quả khai thác đất đai
còn thấp, trong khi sức lao động ở Việt Nam còn dôi dư khá nhiều. Tình trạng thiếu việc
làm ở nông thôn, thất nghiệp ở thành phố đang gây ra sự lãng phí lớn về nguồn lực con
người ở nước ta hiện nay. Cụ thể, tỉ lệ thất nghiệp năm 2009 là 5,1%, trong đó


ở nông thôn lên tới 6,1%, còn ở thành thị là 2,3%. Ngoài ra, trên cả nước có 40.348 lao
động ở các làng nghề bị mất việc và khoảng 100.000 người khác phải giảm giờ làm,
nghỉ luân phiên.
Thứ tư, năng lực lao động của người Việt Nam còn hạn chế, số người đã qua đào
tạo còn thấp, chủ yếu vẫn là lao động giản đơn. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
còn nhiều yếu kém, chương trình học không phù hợp với thực tế, khiến sinh viên thụ
động, thiếu sáng tạo hoặc đi làm trái ngành. Người lao động chưa có tác phong công
nghiệp, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và sở hữu cơ cấu trình độ chuyên môn bất hợp lý.
Trước thực trạng đó, việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực - yếu tố quyết
định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa có hiệu quả là một
vấn đề bức thiết, nhất là trong thời đại khoa học công nghệ hiện nay. Nếu chúng ta
không nỗ lực một cách phi thường trong việc này thì sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện
đại hóa khó có thể được thực hiện thành công. Đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa
học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng về con người, mà thực chất là cách
mạng về lao động.

2.2. Phát triển nguồn nhân lực cũng là yêu cầu và xu thế chung của
thế giới
Ngày nay, khi mà loài người đã bước vào cuộc cách mạng khoa học công nghệ
lần thứ ba, thì nhân tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát
triển. Phát huy yếu tố nguồn nhân lực là xu thế chung toàn cầu.
Nguồn nhân lực có dồi dào hay không là do chính sách đào tạo. Đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực đòi hỏi trở thành quốc sách hàng đầu với các quốc gia. Các nước
phát triển lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật, đẩy nhanh đào tạo hoặc tranh giành người
tài với các nước khác. Các nước đang phát triển phải tăng cường đầu tư kinh phí cho
khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời ngăn ngừa chảy máy chất
xám bằng những chính sách ưu đãi thích hợp.
Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển kinh tế, chúng ta cũng
cần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nước ta đã tham gia rất nhiều tổ chức kinh tế
như ASEAN, APEC hay WTO, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó, việc

nắm được hoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại để chủ động trong quá trình sản xuất,
kinh tế đối ngoại rất quan trọng. Chúng ta phải xác định rõ ràng những chính sách
thích hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
9


3. Những giải pháp phát triển và sử dụng nguồn nhân lực nước ta hiện nay
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng con người, chúng ta cần áp dụng
hàng loạt những giải pháp thích hợp nhằm phát triển tối đa yếu tố của con người trong
sự nghiệp đổi mới đất nước. Sau đây là những giải pháp đã, đang và cần được thực
hiện trong thời gian tới:
- Xác định rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước có rất ít tài nguyên thiên nhiên như
chúng ta cần lấy nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực
hay tài nguyên con người.
- Nâng cao hơn nữa chất lượng con người và cuộc sống. Nói đến chất lượng con
người, trước hết phải giải quyết chất lượng sinh đẻ. Ngành y tế phải có quy định cụ thể
về chất lượng sinh đẻ như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền, …, tránh tình
trạng sinh đẻ vô tội vạ, không tính toán hoặc cân nhắc trước, làm cho đứa con sinh ra
yếu kém về thể chất, không phát triển về trí tuệ.
- Khi có chất lượng con người thì phải tính đến chất lượng cuộc sống, nghĩa là
nuôi dưỡng vật chất và tinh thần con người sinh ra, bảo đảm họ có thể lực dồi dào và
trí tuệ minh mẫn.
- Gắn liền chiến lược xây dựng nguồn nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta
cần xác định rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định, tổ
chức thực hiện chính sách và của cả hệ thống chính trị, trong đó có tạo chuyển biến
mạnh mẽ cho việc khai thác, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực.
- Có kế hoạch phối hợp nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân cho đến trí thức,
khai thác, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực hợp lý, không ngừng nâng
cao trình độ học vấn. Hiện nay, một vấn đề gay gắt được đặt ra là phải bằng mọi biện

pháp và đầu tư, nâng cao trình độ học vấn của cả nước để hướng đến phát triển kinh tế,
văn hóa và xã hội.
- Có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn trong việc sử dụng, trọng dụng
nhân tài, nhất là các nhà khoa học và chuyên gia thực sự có khả năng cống hiến. Phải
có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật và giả, giữa những người cơ hội và chân chính,
nếu không thì nhân tài đất nước sẽ bị rơi rụng, không được phát triển, trong khi những
người xu nịnh, bợ đỡ lại tiếp tục ở lại.
- Phát triển theo hướng rộng rãi và dân chủ thông tin nguồn nhân lực, cho mọi
người thấy tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực, mở thêm những đợt
tuyên truyền rộng rãi, thấm vào lòng người về chất lượng nguồn nhân lực.
- Hằng năm cần tổng kết về lý luận và thực tiễn nguồn nhân lực Việt Nam, đánh


giá đúng những mặt được và chưa được, kịp thời rút ra kinh nghiệm, và trên cơ sở đó
xây dựng, điều chỉnh những chính sách đã có, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nông dân, công nhân, trí thức, đồng thời chăm lo cho đời sống vật chất,
tinh thần người lao động.

10


- Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học về
cả cơ bản lẫn ứng dụng, bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Giáo dục và đào tạo có kết hợp chặt chẽ với khoa học
kỹ thuật, công nghệ thì mới có thể phát huy tối đa tiềm năng nguồn lực con người.
Đào tạo nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức chính là động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt các giải pháp nhằm
chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người.



11


KẾT LUẬN
Như vậy, quan điểm triết học Marx – Lenin về con người và phát huy nguồn lực
con người là phong phú, sâu sắc và đúng đắn. Toàn bộ nội dung của triết học Marx –
Lenin không nhằm mục đích nào khác ngoài giải phóng giai cấp, dân tộc, mà suy cho
cùng là con người, tạo phương hướng để họ tự giải phóng, hướng tới tự do. Đây thực
sự đã trở thành một công cụ hữu hiệu, hay nói cách khác, một nền tảng mà dựa vào đó,
các dân tộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới tự giải phóng mình.
Nắm bắt và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Marx – Lenin nói chung và
triết học Max – Lenin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng kỹ thuật, công
nghệ hiện đại đã dần khẳng định việc phát triển con người là yếu tố quyết định sự phát
triển kinh tế - xã hội, và càng đúng với nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân
lực phải chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam, chúng ta cần tạo ra
mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, đảm bảo công vụ và
quyền lợi công dân, cải thiện và nâng cao chất lượng lẫn tinh thần; giải quyết hợp lý
mối quan hệ giữa lợi ích lâu dài và trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc, tập thể và cá
nhân; không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hoá trên cơ sở xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu sách báo:
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin, NXB Chính trị quốc gia (Hà Nội - 2009)
2. Ngô Xuân Tùng, Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, NXB Chính trị
quốc gia (Hà Nội - 2000)
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hồng Đức (Hà
Nội - 2008)
4. Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
NXB Chính trị quốc gia (Hà Nội – 1996)
5. Tạp chí Cộng sản, số 833, tháng 3/2012
Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 260, tháng 6/2012

Tài liệu mạng:
1. Tiểu luận lý luận của chủ nghĩa Marx về con người và vấn đề con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, lieu/tieu-luan- lyluan- cua-chu- nghia-mac- ve-con-nguoi-va- van-de- con-nguoi- trong-su-nghiepcong- nghiep-ho.33732.html
2. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao, />3. Kế hoạch 5 năm,
/>4. Nhân tài nhân lực,
/>g=vn&tid=644&iid=1790&AspxAutoDetectCookieSupport=1


13



×