Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

QUAN điểm DUY vật BIỆN CHỨNG về mối QUAN hệ GIỮA vật CHẤT và ý THỨC và vận DỤNG vào CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.12 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng, đổi mới ở nước ta hiện nay, để có thể xây
dựng được một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh” thì tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lớn lao và quan trọng
nhất của Đảng và nhân dân ta. Câu hỏi đặt ra là chúng ta phải làm thế nào để
thực hiện được mục tiêu đó? Trên thực tế là nước ta đã đi lên Xã hội Chủ nghĩa
và bỏ qua giai đoạn Tư bản Chủ nghĩa, tại Đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên
đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu
được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối,
phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình
hình nước ta”. Đó là, mọi sách lược, chiến lược cách mạng của chúng ta phải
được xuất phát từ thực tế khác quan, phát huy tính năng động chủ quan và đồng
thời chống chủ quan duy ý chí.
Trên cơ sở đó, em xin phép được lựa chọn đề tài tiểu luận: “Mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước
ta hiện nay”. Lựa chọn đề tài tiểu luận này, em mong muốn được tìm hiểu kĩ
hơn về Triết học Mác – Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng, cụ thể hơn là
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Đồng thời, tìm hiểu sự vận
dụng nó vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

1


NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.
Các khái niệm
1.1.1. Vật chất
- Trước tiên, ta phải



tìm hiểu xem “vật chất” là gì? Vật chất là một

phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2.500 năm và có nhiều
quan điểm triết học về nó. Trong khuôn khổ bài tiểu luận, ta sẽ tìm
hiểu khái niệm “vật chất” theo quan điểm triết học Mác – Lênin. Theo
V.I.Lênin, “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
-

cảm giác”.
Theo định nghĩa của Lênin về vật chất thì:
+ Vật chất là một phạm trù triết học, tức phạm trù khái quát thuộc
tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác
+

định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Vật chất tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không
phụ thuộc vào ý thức của con người, dù cho con người có nhận thức

+

được nó hay không.
Vật chất có thể gây nên cảm giác ở con người; ý thức của con
người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý

-

thức phản ánh.

Quan điểm triết học của Lênin về vật chất đã khắc phục được những
thiếu xót của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa
học để xác định những gì thuộc vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc
xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế
duy tâm trong quan điểm về xã hội. Chúng ta có thể thấy rằng, định

-

nghĩa triết học của Lênin về vật chất là hoàn toàn triệt để.
Sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động, vận động là phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, bao
gồm mọi sự biến đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
2


thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Thông qua vận động mà các
dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của nó, vận động của vật
-

chất là tự thân vận động.
Dựa trên thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân
chia vận động thành 5 hình thức cơ bản: vận động cơ giới, vận động
vật lý, vận động hóa, vận động sinh vật, vận động xã hội. Các hình
thức vận động cao được ra đời trên cơ sở các hình thức vận động thấp
nhưng các hình thức vận động thấp không chứa đựng các hình thức
vận động cao. Mỗi sinh vật thường chứa đựng nhiều hình thức vận
động khác nhau nhưng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao
nhất. Các hình thức vận động có thể chuyển hóa cho nhau tuân theo

-


quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
Vận động và đứng im: Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận
động, là sự vận động trong trạng thái cân bằng, trong sự ổn định tương
đối, khi mà những tính chất cơ bản của vật chất chưa có sự biến đổi cơ
bản, sự vật hiện tượng vẫn là nó, chưa bị phân hóa thành cái khác. Vận
động là tuyệt đối, đứng im là tương đối: một sự vật được coi là đứng
im khi ta xem xét nó trong một quan hệ xác định, một hình thức xác

-

định. Đứng im chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian xác định.
Sự tồn tại của vật chất cũng gắn với không gian và thời gian. Không
gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Mọi dạng cụ thể của
vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất định
và tồn tại trong các mối tương quan nhất định với những dạng vật chất
khác. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình
biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v.v… Vật chất,
không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại
ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian

tồn tại ở ngoài vật chất vận động.
1.1.2. Ý thức
- Nguồn gốc của ý thức:
3


+

Nguồn gốc tự nhiên: nhân tố tạo thảnh nguồn gốc tự nhiên của ý

thức là bộ óc của con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan; trong đó thế giới khách
quan tác động đến bộ óc con người, từ đó tạo ra khả năng hình
thành ý thức của con người về thế giới khách quan.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú
và sâu sắc.
Sự tác động của thế giới khách quan lên óc người tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo.
Phản ánh là sự ghi lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những
đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua

+

lại giữa chúng.
Nguồn gốc xã hội: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của
ý thức nhưng trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là nhân tố lao
động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào các
đối tượng của thế giới tự nhiên nhằm thay đổi chúng cho phù hợp
với nhu cầu của con người. Lao động dẫn đến sự hình thành con
người, hoàn thiện các giác quan, quan trọng nhất là trí óc. Nhờ lao
động mà con người chuyển từ 4 chi sang 2 chi, từ ăn thực vật sang
ăn động vật, từ ăn sống sang ăn chín… Nhờ lao động mà con người
phát hiện ra các thuộc tính của sự vật và từ đó nhận thức được
chúng.
Từ trong quá trình lao động, ngôn ngữ ra đời do nhu cầu giao tiếp
và trao đổi thông tin. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang

nội dung, truyền tải ý thức. Ngôn ngữ là phương thức tồn tại và là
công cụ chyển tải tư duy ý thức. Ngôn ngữ giúp tổng kết thực tiễn,
4


trao đổi thông tin, kinh nghiệm, truyền lại kiến thức từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định
-

sự ra đời và phát triển của ý thức là nhân tố lao động và ngôn ngữ.
Bản chất của ý thức: ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc con người thông qua hoạt động thực tiễn. Theo C.Mác, ý thức
“chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là một hiện

tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
1.2.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.2.1. Vật chất quyết định ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là
sự phản ánh đối với vật chất.
-

Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức: ý thức là sản phẩm của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người
mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất
thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật

chất, là sản phẩm của thế giới vật chất.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức
hoặc là chính bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của

-

vật chất nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý

-

thứ được quyết định bởi vật chất.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức: sự vận động và phát triển
của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các
quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những

5


yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất quyết định cả nội dung,
hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
1.2.2. Ý thức tác động trở lại vật chất.
- Mặc dù ý thức chịu sự tác động của vật chất nhưng bản thân nó lại có
tính độc lập, tương đối:
+ Ý thức có thể lạc hậu hơn so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
+ Ý thức có khả năng vượt trước dựa trên những tiền đề, điều kiện có

-


thật của thế giới vật chất.
+ Ý thức có tính kế thừa tri thức của thế hệ trước đến thế hệ sau.
Ý thức tác động trở lại vật chất mạnh mẽ theo 2 hướng:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng các quá trình vật chất và chỉ đạo con
người hoạt động theo sự phản ánh đó thì sẽ thúc đẩy quá trình vật
+

chất phát triển.
Nếu ngược lại mà phản ánh sai lệch thì nó sẽ kìm hãm quá trình vật
chất phát triển.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò

của vật chất, của ý thức có thể thấy: không bao giờ và không ở đâu ý
thức lại quyết định vật chất. Trái lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định nội dung và khả năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên
quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật
chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này
phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý
thức vào những hành động, trình độ tổ chức của con người và những
điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động
2.

theo định hướng của ý thức.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào

công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
2.1.
Xuất phát từ thực tế khách quan đề ra đường lối, phương
hướng phát triển phù hợp với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa

Xã hội ở Việt Nam

6


Theo quy luật khách quan của lịch sử loài người, cũng như Chủ
nghĩa Tư bản đã thay thế chế độ phong kiến, Chủ nghĩa Xã hội nhất định
sẽ thay thế Chủ nghĩa Tư bản. Ở nước ta, Chủ nghĩa Xã hội cũng sẽ được
xây dựng thành công trong sự gắn bó giữa độc lập dân tộc với Chủ nghĩa
Xã hội. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là phải xuất phát từ đâu và đi theo
con đường nào? Câu trả lời chỉ có thể là phải xuất phát từ những điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Việt Nam và con người Việt
Nam, của dân tộc và lịch sử trong bối cảnh khu vực thế giới hiện đại, theo
quy luật chung mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu ra.
2.1.1.

Thực trạng đất nước
Thực tế là nước ta đã đi lên Chủ nghĩa Xã hội từ một nền kinh tế

thấp. Đó là tình trạng sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hiện vật còn
khá phổ biến, kỹ thuật thô sơ, thủ công nửa cơ khí. Sản xuất hàng hóa còn
chưa trở thành phổ biến, thị trường bị chia cắt, thậm chí có nơi, có lúc
khép kín cả trong kinh tế đối ngoại. Ngoài những yếu tố chủ quan, còn có
những yếu tố khách quan dẫn đến tình trạng trì trệ của nền kinh tế như
chiến tranh, bối cảnh quốc tế… Song chúng ra vẫn mắc những sai lầm chủ
quan trong việc quản lý cán bộ, phát triển lực lượng sản xuất. Triết học
Mác – Lênin cho ta thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất,
thấy rõ tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc
đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực
thì sớm muộn sẽ bị đào thải. Trước tình hình kinh tế đó, Đảng và Nhà

nước ta đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý kiến của nhân
dân và đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế. Đại hội Đảng VI đã rút ra kinh
nghiệm lớn trong đó có: “Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hoạt động theo quy luật khách quan”. Đảng đã đề ra đường lối đổi
mới, mở ra bước ngoặt trong sự việc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước
ta.
7


2.1.2.

Đường lối, phương hướng phát triển rút ra từ thực tế khách
quan
Đảng đã nhận thức được rằng trước thời kì đổi mới, chúng ta đã

xem nhẹ thực tế phức tạp khách quan của thời kì quá độ, chưa nhận thức
đầy đủ rằng thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa là quá lình lịch sử lâu dài
và trải qua nhiều chặng đường. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội 10 năm 2001 – 2010 của Đảng ta đã khẳng định: “Con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so
với các nước đi trước, vừa có thể tuần tự vừa có những bước nhảy vọt.
Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình
độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến
hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa
học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và động
lực chủ yếu trong phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về
khoa học và công nghệ”. Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay,
chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với
tri thức và công nghệ mới của thời đại để từng bước phát triển kinh tế tri

thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt
Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động lực của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa bởi nhân tố con người là nhân tố
đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ
nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Từ đó,
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
– kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
8


lượng sản xuất hiện đại đạt tới mức xã hội hóa gắn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc. Muốn đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có điều kiện
tồn tại và phát triển, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại một cách tất nhiên
và khách quan của các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy
luật cạnh tranh…trong nền kinh tế. Vì nó là cái khách quan nên chúng ta
phải chú ý không nên đi ngược lại nếu không thì chẳng bao giờ có thể xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhưng
bên cạnh những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là: phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao mức sống, mức thu nhập của người
lao động lên thì mặt trái của nó trong một vài năm trở lại đây đang biểu
hiện ngày một rõ nét. Sự chênh lệch thu nhập dẫn đến phân hóa giàu
nghèo trong lao động, tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái phẩm chất
đạo đức của một số cán bộ, công chức nhà nước…Trước thực tế đó, Đảng

và Nhà nước cần có những biện pháp phân phối hợp lý, không chỉ có phân
phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế mà còn phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn nhân lực khác vào sản xất, kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội. Ngoài ra cần có những biện pháp khuyến khích
làm giàu một cách chính đáng, điều tiết thu nhập, cải cách cơ bản chế độ
tiền lương. Đối với người nghèo và có hoàn cảnh khó khăn cần có chính
sách xã hội hợp lý, mặt khác cần kiên quyết chống những thu nhập bất
chính.
Về mặt kiến trúc thượng tầng, chúng ta cũng kế thừa và chọn lọc để
xây dựng nhà nước hiến pháp của xã hội chủ nghĩa điều khiển nền kinh tế
thị trường. Chúng ta xác định mục tiêu: “Chủ nghĩa Xã hội mà nhân dân
9


ta xây dựng là một chế độ Xã hội Chủ nghĩa vì con người và do con
người”. Để tiến hành mục tiêu xây dựng thành công Xã hội Chủ nghĩa
phải gắn liền với tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, phải ra sức
thực hiện các chính xác xã hội. Đảng ta đã khẳng định: “Chính xác xã hội
đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã
hội”, bởi “không có đầu tư nào có lợi như đầu tư cho con người”. Chính
sách xã hộ của Đảng được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống: quan
tâm chăm sóc đối với những người có công với cách mạng, chính sách
đền ơn đáp nghĩa…Trong kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho
người lao động, cải cách chế độ tiền lương theo hướn xóa bỏ thu nhập
bình quân, tiền tệ hóa tiền lương, khuyến khích tài năng, đầu tư đúng mức
cho các ngành: y tế, giáo dục, văn hóa – nghệ thuật, nghiên cứu khoa học.
Thực hiện chính sách dân số là một mục tiêu hết sức quan trọng trong
điều kiện quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta hiện nay. Nhưng dù sao
đó cũng mới chỉ là những chủ trương, đường lối với tình hình trong nước.

Vậy còn quốc tế thì sao?
Thứ nhất, cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri
thức. Nước ta một mặt có cơ hội rút ngắn khoảng cách so với các nước
phát triển, cải thiện vị thế của mình đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu
xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục được những yếu kém
để vươn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức nhanh
nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ
vào trong kinh doanh, có như thế mới mong có cơ hội phát triển.
Thứ hai, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các
nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng tính
10


cạnh tranh và tính tùy thuộc nhau giữa các nền kinh tế. Nước ta cũng
không thể nằm ngoài vòng xoáy đó. Vậy chúng ta phải làm thế nào để vừa
có thể hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào xu thế toàn cầu lại vừa có
thể giữ vững được nền kinh tế độc lập tự chủ? Trước tiên, ta phải tính đến
vai trò của bộ máy nhà nước. Theo chỉ dẫn của Lênin thì bộ máy nhà nước
cần phải vừa mềm dẻo vừa hết sức cứng rắn: “Ngày nay cần có sự mềm
dẻo tối đa, mà muốn thế, muốn ứng biến một cách mềm dẻo thì bộ máy
phải thực sự cứng rắn”. Phải mềm dẻo vì đây là thời kỳ quá độ, biện pháp
quá độ. Phải cứng rắn vì đây là “Cuộc chiến tranh kinh tế”.
Thứ ba, đó là chúng ta phải xây dựng Chủ nghĩa Xã hội mang bản
sắc dân tộc, vận hành trước xu thế toàn cầu hóa, chủ động mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế nhưng phải giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi
vì không có bản lĩnh và không có bản sắc độc đáo riêng được giữ gìn, bảo
vệ và phát huy thì không thể đứng vững trong giao lưu hợp tác và hội
nhập quốc tế.

Hiện nay, các thế lực thù địch với những “diễn biến hòa bình” vẫn
đang đe dọa hệ thống chính trị Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. Từ thực tế đó
đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải ra sức tăng cường an ninh quốc phòng, ra
sức đổi mới hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển của đất
nước, của thời đại.
Với các chủ trương trên ta nhận thấy vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức, đó cũng là bài học quan trọng của Đảng: “Mọi đường lối
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan”.
2.2.

Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ
quan duy ý chí

11


Bên cạnh một số chính sách, biện pháp nhằm đưa đất nước ta vững
bước trên con đường Xã hội Chủ nghĩa như đã trình bày ở trên, ta không
thể không kể đến vai trò thúc đẩy sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội
tiến nhanh và xa hơn đó là tính năng động, chủ quan, đó là khối đại đoàn
kết toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được
Xã hội Chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam.
Bản thân sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội là một nhiệm vụ
mới mẻ, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân
tố chủ quan, của tính năng động chủ quan. Đó chính là những phát minh
vĩ đại, những đường lối chính sách đứng đắn có tính chất quyết thắng của
toàn thể dân tộc Việt Nam.
Sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại
của đông đảo quần chúng. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì

không thể thực hiện được những nhiệm vụ trọng đại, khó khăn phức tạp
chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình và ý chí
cách mạng hiện nay phải gắn liền với tri thức, hiểu biết, đặt trên cơ sở
khoa học, sự phát triển tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc.
Không có khoa học, không có sự phát triển mạnh mẽ của nguồn lực
trí tuệ thì không thể dẫn dắt xã hội đi tới văn minh, hiện đại. Do đó, phải
quy tụ mọi tài năng của công dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh trí
tuệ của cả dân tộc. Phải đứng ở đỉnh cao và là chỗ kết tinh tài năng ý chí
chỉ đạo, bản lĩnh giai cấp và dân tộc, biểu hiện tinh thần thời đại.
Bước vào thế kỉ XXI, chúng ta tin chắc vào thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ tổ quốc, tin chắc Chủ nghĩa Xã hội
nhất định thành công, nhất định tiếp tục đi theo con đường đã chọn, dù
một thế kỷ hay lâu hơn nữa cũng không nao núng. Đó phải chăng là sự
khẳng định một ý chí lớn, môt niềm tin lớn, một quyết tâm lớn mà nếu
không có thì sẽ không tiếp tục cụ thể hóa và từng bước đưa vào cuộc sống
12


những điều ghi trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa Xã hội cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
Với ý chí “Quyết tâm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu”
thì không thể chậm trễ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển.
2.3.

Một số thành tựu trong quá trình đổi mới ở nước ta
Với những chủ trương, đường lối trên, Việt Nam đã đạt được một số

thành tựu trong quá trình đổi mới như:
-


Cuộc cải cách giá cả, bao gồm: giá cả hàng hóa, giá lao động (lương

-

bổng), giá của tiền nội tệ (tỉ giá), hay giá tư bản (lãi suất).
Ổn định được nền kinh tế vĩ mô.
Nỗ lực mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thành công trong giảm tỷ lệ đói nghèo.
Khoa học công nghệ có bước phát triển, lĩnh vực văn hóa – xã hội có
nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện, quốc
phòng an ninh được giữ vững.
Ngoài ra, trong những năm qua, với những chính sách phát triển kinh
tế xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt được những
bước tiến rất quan trọng, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, là thành
viên của khối ASEAN, đặc biệt năm 1998 ta đã trở thành thành viên
của khối APEC, và tháng 11/2017 vừa qua ta đã tổ chức thành công
Tuần lễ cấp cao APEC diễn ra tại Đà Nẵng với sự tham gia của hơn
10.000 đại biểu đến từ 21 nền kinh tế thành viên…
Những thành tựu trên đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là

đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về Chủ
nghĩa Xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về Xã hội Chủ
nghĩa và con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam đã hình thành
những nét cơ bản. Những thành công cơ bản đó cũng là nhờ sự vận dụng
13


linh hoạt, sáng tạo Triết học Mác – Lênin vào thực tiễn, mà đặc biệt là

mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.

14


KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý
thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức có tính lực năng động tác
động trở lại vật chất. Mối tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Trong thời kì đổi mới của nước ta, khi chuyển từ tập trung, quan
liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng Xã hội Chủ nghĩa, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ
thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Với
chủ trương này chúng ta đã giành được một số thắng lợi to lớn tuy nhiên
vẫn còn một số thiếu sót, đặc biệt ở khâu hành động. Đề ra chủ trương là
vấn đề quan trọng nhưng thực hiện nó là một vấn đề hết sức khó khăn.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,

2.
3.
4.
5.

6.
7.

Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia.
Tạp chí Triết học, số 3, năm 2001.
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IV.
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ V.
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX.
V.I. Lênin (1997), toàn tập, tập 41, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
/>
16



×