Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Sự xuất hiện kinh tế hàng hóa ở việt nam thời điểm, điều kiện, so sánh với thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.18 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã
có nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế nước nhà, trong đó không
thể không kể đến việc phát triển nền kinh tế hàng hóa. Nước ta là một nước có nền
nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua hai cuộc chiến tranh, hơn nữa một thời gian dài
theo chế độ tập trung bao cấp đã làm cho nền kinh tế nước ta càng lạc hậu và kém
phát triển. Do vậy việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền kinh tế đi lên là việc làm quan trọng
nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức được điều này, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm
1986, Đảng ta đã quyết định thay đổi từ nền kinh tế tự cung tự cấp, tập trung, quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sản xuất phải gắn liền với
thị trường.
Hiểu được tầm quan trọng của nền kinh tế hàng hóa trong công cuộc xây
dựng đất nước, em đã chọn đề tài: “Sự xuất hiện kinh tế hàng hóa ở Việt Nam: thời
điểm, điều kiện, so sánh với thế giới”.
Mục đích của tiểu luận này là tìm hiểu về sự ra đời, điều kiện để tồn tại và
phát triển của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam.

1


NỘI DUNG
I. Sơ lược về nền kinh tế hàng hóa
1. Khái niệm nền kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng
hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Nền kinh tế hàng hóa trái ngược với
nền kinh tế tự cung tự cấp trong đó người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng.
Để cho đơn giản, giả định nền kinh tế có hai cá nhân là A và B, có sự phân
công lao động (có thể dựa trên năng lực sản xuất) giữa hai người, A chuyên sản
xuất gạo và B chuyên sản xuất thịt. Hai người sẽ đem trao đổi sản phẩm của mình


với nhau, nhờ đó mà mỗi người đều có cả gạo lẫn thịt. Khi các sản phẩm được trao
đổi, chúng trở thành hàng hóa. Nền kinh tế được hình thành từ quan hệ trao đổi
hàng hóa này chính là nền kinh tế hàng hóa.
Ở giai đoạn sơ khai, hàng hóa được trao đổi trực tiếp, gọi là hàng đổi hàng.
Người sản xuất gạo và cần thịt có thể gặp người sản xuất thịt và cần gạo để trao đổi
trực tiếp gạo lấy thịt. Đây đã là kinh tế hàng hóa. Nhưng nếu không gặp được
người có thứ mình cần và cần thứ mình có thì trao đổi không được diễn ra.
Khi tiền ra đời, có nhiều hơn hai cá nhân, người ta có thể sử dụng tiền làm
phương tiện trao đổi. Người A bán gạo cho người B và nhận tiền để mua rượu từ
người C. Người C bán rượu cho người A và nhận tiền để mua thịt từ người B.
2


Người B lại bán thịt cho người C và nhận tiền để mua gạo của người A. Khi đó,
nền kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh tế tiền tệ.
Có nhiều cơ chế trao đổi. Khi cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường, nền
kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh tế thị trường. Khi cơ chế trao đổi dựa trên
sự sắp xếp quy hoạch từ một trung tâm nào đó, kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh
tế kế hoạch.
Kinh tế hàng hóa là một hình thái của nền sản xuất xã hội nối tiếp và cao
hơn nền sản xuất tự cung tự cấp, trong đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi
thông qua mua – bán trên thị trường, hình thái quan hệ kinh tế thống trị của các
mối quan hệ kinh tế là quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Nó đối lập với kinh tế tự nhiên,
trong đó hình thái thống trị là các quan hệ hiện vật. Theo Các Mác, kinh tế hàng
hóa là một giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử phát triển của xã hội theo
tiến trình: kinh tế tự nhiên – kinh tế hàng hóa – kinh tế sản phẩm. Nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản về tổng thể là một nền
kinh tế hàng hóa.
Điều kiện chung của tồn tại sản xuất hàng hóa là phân công lao động xã hội
và sự tách biệt (độc lập) kinh tế giữa những người sản xuất.

Đặc trưng chung của kinh tế hàng hóa trong bất kỳ chế độ xã hội nào là sự
tồn tại hình thái giá trị và thị trường, trong đó giá trị của hàng hóa – lượng lao động
3


xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, được đo bằng tiền tệ và mang hình thái
giá cả.
Quy luật đặc trưng của sản xuất hàng hóa là quy luật giá trị và những quy
luật liên quan như quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật hàng hóa
được trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
2. Ưu thế của nền kinh tế hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên
môn hóa sản xuất. Do đó nó khai thác được lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của
từng người, từng cơ sở… Đồng thời khi sản xuất hàng hóa phát triển lại tác động
trở lại làm phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa lao động, sản xuất ngày
càng phát triển. Nó phá vỡ tính tự cung tự cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi ngành, mõi
địa phương làm cho năng suất lao động xã hội ngày một tăng lên nhanh chóng, nhu
cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa thì quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nhu cầu và nguồn lực mang tính chất hạn hẹp, khép kín của từng gia đình, cơ sở,
địa phương… mà nó được mở rộng dựa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội, quốc
gia, quốc tế. Điều đó lại tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học
và công nghệ vào quá trình sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.

4


Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của các quy luật vốn có của sản
xuất và trao đổi hàng hóa như quy luật giá trị, cung cầu, quy luật cạnh tranh…
buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, hợp lý

hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế… làm
cho chi phí sản xuất thấp, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao
lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước đã làm cho đời sống vật chất và
đời sống tinh thần ngày càng được nâng cao
Tuy nhiên bên cạnh các mặt tích cực thì sản xuất hàng hóa còn có những mặt
tiêu cực: sự phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng, phá hoại môi
trường sinh thái xã hội…
II. Sự xuất hiện kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
1. Thời điểm xuất hiện kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
Trước đây, nước ta là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng
sản xuất thấp kém, trình độ quản lý thấp với nền sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, tự
túc. Hơn nữa, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến phải trải qua hai cuộc
đấu tranh, nhiều lần bị đế quốc Mỹ bao vây nền kinh tế, vì vậy lực lượng sản xuất
chưa có điều kiện phát triển.

5


Sau khi giành được độc lập, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, lực lượng
sản xuất chưa phát triển, chủ yếu với tư liệu lao động còn thô sơ, lực lượng lao
động còn thấp kém, tụt hậu, không đồng đều. Trước yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nước ta đã vứt bỏ hết các yếu tố tư bản chủ nghĩa với quan niệm tư bản chủ
nghĩa là xấu, không áp dụng nó, chỉ cho tồn tại những quan hệ chủ nghĩa xã hội.
Nước ta xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình
thức là toàn dân và tập thể mà lúc đó được coi là chủ yếu, quyết định tính chất,
trình độ xã hội hóa sản xuất cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn, vì nó
trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất. Trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém thì quan hệ sản xuất lại quá

phát triển, phát triển với mức độ cao và đã để lạ hậu quả là: kinh tế kiệt quệ, nguy
cơ nghèo đói tăng cao. Tư liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới
hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, không
làm chủ được quá trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã trong khi họ
cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dẫn đến tư liệu sản xuất trở thành vô
chủ, gây thiệt hại cho tập thể. Nền kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả
các ngành. Về pháp lý, tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động
là chủ sở hữu đáng ra có quyền sở hữu, chi phối định đoạt tư liệu sản xuất và sản
phẩm làm ra nhưng thực tế người lao động chỉ là người làm công ăn lương. Trong
6


khi đó chế độ lương lại không hợp lý, không phản ánh đúng số lượng và chất lượng
lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Việc này dẫn tới tình trạng đơn vị kinh tế
mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm. Vì thế người lao động thờ ơ với kết
quả lao động của mình , sinh ra tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có
quyền định đoạt, phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Tháng 6 năm 1983, Hội nghị Trung ương 4 được tổ chức. Bài phát biểu kết
thúc hội nghị của Tỏng Bí thư Lê Duẩn đã nhận định: “Trong thời gian qua, Đảng
và Nhà nước đã phạm sai lầm nặng nhất là không làm chủ thị trường, không làm
chủ phân phối lưu thông…, đã buông lỏng cải tạo công thương nghiệp tư nhân, cải
tạo tiểu, thủ công nghiệp và tiểu thương, để cho bọn tư sản cũ và mới phục hồi và
phát triển, có thêm thế lực chống chủ nghĩa xã hội. Viêc hợp tác hóa nông nghiệp ở
Nam Bộ so với nhu cầu tiến hành có phần chậm. Trong phạm vi cả nước đã buông
lỏng việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.”
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 6/1985), Ban chấp hành trung
ương đã quyết định tiến hành một cuộc cải cách lớn về giá – lương - tiền. Kế hoạch
cải cách giá – lương – tiền không diễn ra như kế hoạch do sự chắp vá giữa cải cách
với mô hình cũ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong thời gian cuối năm 1985

và năm 1986, song chính sự khủng hoảng này đã làm cho các cấp các ngành nhận
ra rằng đã cải cách là phải cải cách triệt để. Mô hình cũ phải bị đoạn tuyệt hoàn
7


toàn. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ sáu của Đảng Cộng Sản
Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi mới lịch
sử.
2. Đặc điểm và thành tựu của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
Từ nền kinh tế bao cấp, trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức
khó khăn, đến ngày nay, sau 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh
tế nước ta đã có những bước tiến vững vàng, tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của
đất nước.
a. Đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh,
cơ sở vật chất - kỹ thuật, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải
thiện
Từ năm 1986 đến năm 1989, công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng. Nhưng vào đầu thập kỷ 90, khi bước vào thực hiện chiến
lược 10 năm 1991-2000, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Nhờ triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đến năm 1995, hầu
hết các chỉ tiêu của kế hoạch năm 1991-1995 được hoàn thành vượt mức, đất nước
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển
sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

8


Từ năm 1996 đến năm 2000 đất nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm (1990-2000) đạt 7,5%; năm 2000
so với năm 1990, GDP tăng hơn 2 lần. Trong 5 năm (2001-2005) của nhiệm kỳ Đại

hội IX, GDP bình quân tăng gần 7,5%. Năm 2016, GDP tăng 6,21% so với năm
2015; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển trong các
thành phần kinh tế đã được huy động khá hơn; nhiều lợi thế so sánh trong từng
ngành, từng vùng đã được phát huy. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải
thiện.
b. Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
Để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Đảng đã quan tâm, lãnh
đạo, đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 2003 tạo khung pháp lý, có tác dụng giải phóng lực lượng
sản xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của
Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; đã tập trung chỉ đạo sắp
xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Qua
sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa, số doanh nghiệp nhà nước giảm đi ( năm 1990 là
12.084, đến tháng 6 năm 2005 còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước), ngoài
9


ra còn có 670 công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên 51% vốn điều lệ. Nhờ đổi
mới như vậy mà các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Năm 2005
các doanh nghiệp đã đóng góp 39% GDP, 50% tổng ngân sách nhà nước.
Kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã, đã được đổi mới từng bước theo
Luật Hợp tác xã và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hợp tác xã đã
chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ trong sản xuất hàng hóa, đặc
biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước
của khu vực hợp tác xã giảm nhanh, nhưng bắt đầu có chiều hướng phục hồi. Số
lượng hợp tác xã tuy giảm nhiều so với trước (mặc dù hằng năm đã xuất hiện nhiều
hợp tác xã mới), nhưng nhờ đổi mới cơ chế quản lý trong hợp tác xã, nên đã đảm

bảo được nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã tốt hơn, chất lượng và
hiệu quả hoạt động khá hơn, mang lại hiệu quả cao hơn trước. Năm 2005, kinh tế
tập thể đóng góp 8% GDP.
Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng
trong nhân dân, nhất là từ sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Sau gần 5 năm,
cả nước có gần 108.300 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp
đăng ký lên khoảng 150.000, tăng gấp gần 2 lần so với 9 năm trước đây (19911999). Trong năm 2016, số doanh nghiệp thành lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1
nghìn doanh nghiệp, tăng 16,2% so với năm 2015. Tổng số vốn đăng ký đạt hơn
891,1 nghìn tỉ đồng, tăng 48,1%. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp
10


thành lập mới năm 2016 là 8,1 tỷ đồng, tăng 27,5% so với năm 2015. Đóng góp
lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển
dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các
doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà
nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. Riêng số doang nghiệp vừa và
nhỏ (chiếm 96% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước) đã thu hút 49% việc làm
phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước. Các
doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đã sử dụng khoảng 16% lực
lượng lao động xã hội (khoảng hơn 6 triệu người).
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước phát triển quan trọng. Tính
đến ngày 26/12/2016, có 2.336 dự án mới được cấp giấy phép, với tổng vốn đăng
ký đạt 15,18 tỷ USD, tăng 27% về số dự án và bằng 97,5% về vốn đăng ký so với
cùng kỳ năm 2015. Cũng trong năm 2016, có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn
điều lệ hoặc thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện với tổng vốn đầu tư là 3,425 USD.
c. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành
Nền kinh tế nhiều thành phần theo chủ trương của Đảng và được quy định
trong Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hóa bằng các luật, pháp lệnh. Với Luật

Doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp 1992 quy định đã thực sự

11


đi vào cuộc sống. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Bộ Luật Dân sự, Luật Thương
mại, Luật đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã tạo khung
pháp lý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình thành và vận hành từng bước. Đồng
thời, Nhà nước đã thể chế hóa thành cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi
thuế,… Nhờ đó đã góp phần tích cực cho quá trình phát trình phát triển kinh tế thị
trường trong suốt gần 20 năm qua. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh
nghiệp nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển
từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế
quốc dân, chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp
thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết
vĩ mô khác.
d. Cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Về cơ cấu ngành kinh tế: từ năm 1988 đến năm 2003, tỷ trọng công nghiệp
và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục (năm 1988 là 21,6% GDP, năm
1995 là 28,8%, năm 2003 là 40%, năm 2016 là 32,72%). Từ chỗ chưa khai thác
dầu, đến nay đã có sản lượng (quy ra dầu) khoảng 20 triệu tấn/năm, ngành công
nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp, công nghiệp xây dựng
phát triển khá mạnh, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng. Tỷ trọng
12


nông nghiệp trong GDP năm 1988 là 46,3%, năm 2003 còn 21,8%, năm 2005 là
20,5%, năm 2016 là 16,32%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và

vật nuôi đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và
hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn
vị diện tích tăng lên. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm
1988 lên 38,2% năm 2003, 38,5% năm 2005, 40,92% năm 2016. Các ngành dịch
vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Ngành bưu chính – viễn thông và du lịch phát triển nhanh. Các dịch vụ tài chính,
ngân hàng, tư vấn pháp lý… có bước phát triển khá.
Cơ cấu các vùng kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so
sánh và quan tâm hỗ trợ các vùng còn có nhiều khó khăn. Ba vùng kinh tế trọng
điểm đã phát triển với tốc độ cao hơn mức bình quân của cả nước, hiện chiếm hơn
60% GDP của cả nước, dần phát huy lợi thế so sánh, bước đầu có vai trò thúc đẩy
các vùng khác phát triển. Các vùng kinh tế còn khó khăn đang từng bước vươn lên,
có chuyển biến tốt về đời sống kinh tế - xã hội. Tốc độ đô thị hóa tương đối nhanh.
Các vùng ngoại thành, ven đô thị được chú trọng phát triển.
Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản
xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Năm 2016, lao
động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 41,9% tổng số lao động xã hội, lao động trong
công nghiệp và xây dựng là gần 24,7%, trong dịch vụ là 33,4%.
13


Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước
so với GDP tăng khá nhanh, nguồn vốn tích lũy trong nước đã được khai thác tốt
hơn, chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư. Mặt khác cũng huy động được nhiều vốn
bên ngoài cho đầu tư phát triển. Đã hướng mạnh hơn đầu tư vào các mục tiêu
chuyển đỏi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; bổ sung thiết bị và
hiện đại hóa một số ngành công nghiệp; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất; xây dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư phát triển nguồn
nhân lực, xóa đói, giảm nghèo – nhất là ở vùng núi, vùng khó khăn.
e. Đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới

Vượt ra khỏi chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch
nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ
và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt (như thương mai dịch vụ, lao động, đầu tư,
khoa học và công nghệ…) Nước ta đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) ngày 28/7/1995, đã không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song
phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu.
3. So sánh với thế giới
Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 trong số 11 quốc gia Đông Nam
Á, lớn thứ 48 trên thế giới xét theo quy mô Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) danh
nghĩa năm 2013 và đứng thứ 128 xét theo GDP bình quân đầu người. GDP năm

14


2015 là 198,8 tỷ USD. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng ở Việt Nam
một hệ thống kinh tế thị trường. Tính đến tháng 11 năm 2007 đã có Trung Quốc,
Nga, Venezuela, Nam Phi, ASEAN và Ukraina tuyên bố công nhận Việt Nam có
nền kinh tế thị trường đầy đủ, đến năm 2013 đã có 37 quốc gia công nhận Việt
Nam đạt kinh tế thị trường (VCCI) trong đó có Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc.
Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ
chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân
hàng Phát triển châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương,
ASEAN. Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do đa phương với các
nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước khác. Việt Nam
cũng đã ký với Nhật Bản một hiệp định đối tác kinh tế song phương.
Trong giai đoạn 2007-2016, Việt Nam luôn duy trì được mức tăng trưởng
khá cao, bình quân 6,29%/năm nhưng để đạt được mức tăng trưởng đó, tổng đầu tư
cho phát triển luôn ở mức cao (30,0% - 46,5%), cao hơn nhiều so với các nước
khác. Điều này chứng tỏ hiệu quả và chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn
thấp so với các nước trong khu vực.

Bên cạnh đó, năng suất lao động Việt Nam còn thấp, đóng góp vào tăng
trưởng còn hạn chế. Năm 2011, năng suất lao động bình quân của Việt Nam theo
giá thực tế mới đạt khoảng 2 400 USD/người, thấp hơn rất nhiều so với mức năng

15


suất lao động năm 2005 của nhiều nước trong khu vực. Cụ thể, con số tương ứng
lần lượt là Indonesia 2.650 USD, Philipines 2.689 USD, Thái Lan 2.721 USD,
Singapore 48.162 USD, Brunei 51.000 USD, Nhật Bản 70.237 USD, Trung Quốc
2.869 USD, Malaysia 12.571 USD, Hàn Quốc 33.237 USD… Năm 2012 năng suất
lao động xã hội (GDP/LĐ) giá hiện hành đạt 63,11 triệu đồng, năm 2013: 68,65
triệu, năm 2014: 74,66 triệu và năm 2015 đạt khoảng 83,81 triệu đồng, còn thấp
hơn nhiều lần so với các nước trong khu vực.
Sau 10 năm gia nhập WTO (2007-2016), mức thâm hụt thương mại Việt
Nam tuy được cải thiện nhưng tỷ trọng của thâm hụt thương mại trên GDP và trên
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn cao. Điều này chứng tỏ, các nước
đã tận dụng tốt cơ hội trong hội nhập WTO để đưa hàng hóa vào Việt Nam ngày
càng nhiều, trong khi Việt Nam lại chưa tận dụng tốt cơ hội từ WTO mang lại.
4. Biện pháp khắc phục và phát huy
- Tiếp tục cải cách hành chính triệt để, khắc phục những mặt trái của cơ chế
“một cửa”, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước cương quyết và hiệu quả. Tăng
cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, làm minh
bạch, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
- Sớm xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng giai
đoạn đến 2020 và tầm nhìn 2030, trong đó, vấn đề cốt lõi là tái cơ cấu các doanh

16



nghiệp, các loại dịch vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm
năng, lợi thế, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, nhằm tận dụng hiệu quả các cơ hội
mang lại từ hội nhập
- Nhanh chóng đầu tư phát triển hệ thống hậu cần của Việt Nam nhằm đẩy
nhanh quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy các hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa
- Nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ (1-2% GDP) để Việt Nam sớm
có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản phẩm
kỹ thuật cao trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang lại giá trị cao cho xuất
khẩu của Việt Nam
- Cùng với việc đổi mới thể chế, hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm phát
triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần có các biện pháp để chuyển dần từ gia
công sang sản xuất, xuất khẩu, giảm và tiến tới hạn chế mức thấp nhất xuất khẩu
sản phẩm thô, khoáng sản; tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa
học – công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao.

17


KẾT LUẬN
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình vô cùng quan trọng và sự xuất hiện của nền kinh
tế hàng hóa là một phần không thể thiếu.
Nền kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Do sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, mỗi chủ thể sản xuất phải
không ngừng cải tiến kỹ thuật để nâng cao chất lượng đồng thời giảm chi phí sản
xuất. Quá trình đó làm tăng năng suất lao động và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển.
Từ một nước nông nghiệp nghèo, lạc hậu với nền kinh tế tự cung tự cấp,
Việt Nam đã tiến hành đổi mới thông qua Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ sáu

của Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 sang nền kinh tế hàng hóa. Trải
qua hơn 30 năm, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh
tế, dần dần chuyển từ một nước nông nghiệp sang một nước theo định hướng công
nghiệp. Dù vậy nhưng nước ta vẫn là một nước nghèo và còn thua kém nhiều với
các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, phát triển kinh tế là mục tiêu
quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp phát triển đất nước.

18


Với mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những biện pháp
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển
kinh tế là một quá trình lâu dài và cần sự chung tay của toàn dân.
Em hy vọng tiểu luận này đã phần nào thể hiện được sự hình thành nền kinh
tế hàng hóa ở Việt Nam về thời điểm, điều kiện và so sánh với thế giới cũng như
các thành tựu đã đạt được và phương hướng trong thời gian tiếp theo.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

/>
2.

%C3%B3a
/>
%87t_Nam,_1976-1986
3. />

20160103080117549.htm
Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, NXB Chính trị Quốc gia

20



×