Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài PHÁT TRIỂN KINH tế BIỂN gắn với bảo vệ AN NINH BIỂN đảo VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.41 KB, 24 trang )

I. Cơ sở lý luận về kinh tế biển và vấn đề an ninh biển đảo
1. Tổng quan về biển đảo Việt Nam
1.1.

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý

Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa chính trị
và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có với bờ biển dài
trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển,
các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước ta có diện
tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích
Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu ki-lô-mét vuông). Vùng biển nước ta có
khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được
phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển của đất nước, có vị trí đặc biệt quan trọng như
một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông đất nước; một số đảo ven bờ
còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập
đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên các vùng biển.
b. Điều kiện tự nhiên
Dải đất hình chữ S của nước Việt Nam nằm trải dọc theo bờ biển, với chiều dài
3.260km, 28 tỉnh, thành phố có biển, chiếm tới 42% diện tích và 45% dân số cả nước.
Cả nước có khoảng 15,5 triệu người sống gần bờ biển và trên 160 ngàn người sinh
sống ở các hòn đảo.
Dưới đây là một số tài nguyên nổi bật của biển đảo Việt Nam:
+ Hải sản: Ở vùng biển nước ta đến nay có khoảng 2.040 loài cá gồm nhiều bộ, họ
khác nhau, trong đó có giá trị kinh tế cao khoảng 110 loài. Trữ lượng cá ở vùng biển
nước ta khoảng 3 triệu tấn/năm.
+ Rong biển: Trên biển nước ta có trên 600 loài rong biển là nguồn thức ăn có


dinh dưỡng cao và là nguồn dược liệu phong phú.

1


+ Khoáng sản: Dưới đáy biển nước ta có nhiều khoáng sản quý như: thiếc, ti tan,
đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng gan, đồng, kền và các loại đất hiếm. Muối ăn
chứa trong nước biển bình quân 3.500gr/m2.
+ Dầu mỏ: Vùng biển Việt Nam rộng hơn l triệu km2 trong đó có
500.000km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền
Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Có thể khai thác
từ 30-40 ngàn thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít) khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lượng dầu
khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn quy dầu. Ngoài dầu
Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng ba nghìn tỷ m3/năm.
+ Giao thông: Bờ biển nước ta chạy dọc từ Bắc tới Nam theo chiều dài đất nước,
với 3.260km bờ biển có nhiều cảng, vịnh… rất thuận liện cho giao thông, đánh bắt, hải
sản. Nằm liên trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Đại Tây
Dương, trong tương lai sẽ là tiềm năng cho ngành kinh tế dịch vụ trên biển (đóng tàu,
sửa chữa tàu, tìm kiếm cứu trợ, thông tin dẫn dắt...).
+ Du lịch: Bờ biển dài có nhiều bãi cát, vụng, vịnh, hang động tự nhiên đẹp, là
tiềm năng du lịch lớn của nước ta.
1.2.

Vai trò của biển đảo Việt Nam trong việc phát triển kinh tế

Biển Đông là vùng biển có 1 trong số 10 tuyến đường hàng hải lớn nhất trên thế
giới đi qua. Giao thông nhộn nhịp đứng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải). Khu vực
Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, trong đó eo biển Malacca
là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz). Biển Đông rất quan
trọng đối với nhiều nước trong khu vực xét về vị trí địa - chiến lược, an ninh, giao

thông hàng hải và kinh tế.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng
cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài
nguyên sinh vật (thủy sản), phi sinh vật (dầu khí, khoáng sản). Biển Đông được coi là
một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Theo đánh giá của Trung
Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng.
Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con đường
hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong

2


khu vực. Điều kiện tự nhiên của bờ biển Việt Nam là tiềm năng to lớn cho ngành giao
thông hàng hải Việt Nam.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ khí đốt.
Hiện nay, chúng ta đã phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ lượng khai thác công
nghiệp, trong đó đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm cung cấp hàng triệu
tấn dầu và hàng tỷ m3 khí phục vụ cho phát triển kinh tế và dân sinh. Ngoài ra, còn có
các khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát thủy
tinh, muối và các loại vật liệu xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực.
Nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong các ngành
kinh tế của đất nước.
Biển Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch - ngành công nghiệp
không khói, hiện đang đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế của đất nước. Do đặc điểm
kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát bờ biển đã tạo thành nhiều cảnh quan
thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và
các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới.

Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình
du lịch hiện đại như nghỉ ngơi; dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái nghiên cứu
khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt
ván, nhảy sóng, đua thuyền…

2. Bảo vệ an ninh biển đảo Việt Nam
2.1.

An ninh biển đảo

Đối với biển và hải đảo nước ta hiện nay, trên khía cạnh an ninh truyền thống thì
nguy cơ lớn nhất là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Cùng với đó, các vấn đề an ninh
phi truyền thống cũng là mối lo ngại không nhỏ như nạn khủng bố, cướp biển, vận
chuyển ma túy, xuất nhập cư trái phép; buôn lậu, gian lận thương mại trên biển; biến
đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên biển.
Về an ninh truyền thống, cho đến nay, trên Biển Đông, chúng ta còn tồn tại bốn
vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền lãnh thổ chưa giải quyết được và cần phải giải
quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải

3


quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa 5 nước 6 bên, gồm
Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Brunei, Đài Loan; phân định ranh giới
các vùng biển theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS
1982) và xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng
với đó, những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh vùng biển Việt
Nam vẫn đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo và
thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại trừ. Những hoạt động này đe dọa và ảnh
hưởng không chỉ đối với an ninh quốc phòng của Việt Nam mà cả an ninh, an toàn của

nhiều nước trong khu vực.
Về an ninh phi truyền thống, tình hình an ninh hàng hải khu vực Biển Đông diễn
biến rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng các vụ việc nghiêm trọng, gây thiệt hại về
người, tài sản và ảnh hưởng lớn đến môi trường an ninh trên biển. Trong thời gian qua,
đã nhiều lần tàu vận tải biển của Việt Nam bị cướp biển tấn công; xô xát trên vùng
biển Vịnh Thái Lan giữa ngư dân Việt Nam với tàu Thái Lan và Campuchia; tàu cá
Việt Nam bị bắt giữ trên các vùng biển giáp ranh với Indonesia, Thái Lan, Campuchia
và Malaysia; nhiều tàu thuyền nước ngoài đã tấn công, đâm, gây thiệt hại cho tàu cá
của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam.
Buôn lậu, gian lận thương mại trên biển với các phương thức, thủ đoạn ngày
càng tinh vi, xảo quyệt cũng là nguy cơ, thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng.
Một số lĩnh vực quản lý nhà nước trên biển chưa được triển khai đồng bộ hoặc bị xem
nhẹ, dẫn đến thiếu chặt chẽ, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn đường biển, nhất là lĩnh
vực giao thông vận tải biển, cấp phép lưu hành phương tiện trên biển…
Ngoài ra, việc quản lý lỏng lẻo khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường biển dẫn
đến thực trạng nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản biển đang bị khai thác quá mức,
thiếu tính bền vững; môi trường biển ở một số nơi bị ô nhiễm đến mức báo động; nạn
phá hủy rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cũng ngày một tăng.
2.2. Bảo vệ an ninh biển đảo
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng của
mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân
tộc ta phát triển bền vững. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực hiện nay, việc
quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về giữ gìn hòa
4


bình để phát triển kinh tế, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đồng thời bảo đảm an
ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng.
Theo tinh thần chỉ đạo nói trên, liên tục trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đã cố gắng, triển khai một khối lượng lớn công việc nhằm tạo dựng và duy
trì môi trường hòa bình, ổn định, phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ chủ quyền và lợi
ích quốc gia trên biển. Đối với các vùng biển thực sự có chồng lấn giữa nước ta và các
nước, các bên liên quan có thể bàn bạc, trao đổi để hợp tác cùng phát triển. Việt Nam
cũng thực hiện các cơ chế đối thoại và hợp tác về chính trị - an ninh khu vực.
Những thỏa thuận và việc làm tích cực liên quan đến biển, đảo nói trên có ý
nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng cường, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, thu hẹp bất
đồng, tạo không khí thuận lợi cho việc thúc đẩy đàm phán tìm kiếm giải pháp hòa
bình, cơ bản, lâu dài cho vấn đề biển đảo.

3. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển và vấn đề an ninh biển đảo
(lý luận)
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996), lần đầu tiên Đảng ta bàn về phát triển
các lĩnh vực liên quan đến biển, đặc biệt là các giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế
biển gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Nghị quyết Đại hội VIII chỉ rõ: “Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh
tế và an ninh, quốc phòng, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để
đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và
các lợi thế của vùng biển và ven biển, kết hợp với an ninh, quốc phòng, tạo thế và lực
để phát triển mạnh kinh tế – xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc”.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ XI đến nay, chủ trương phát triển kinh tế biển gắn
với bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã được điều chỉnh cụ thể, chi tiết hơn. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) chỉ rõ cần kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh; quốc phòng – an
ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh
tế – xã hội và trên từng địa bàn. Trong đó, một số nội dung được nhấn mạnh như
những giải pháp tích cực để gắn phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền biển, đảo như
tăng cường công tác quy hoạch; xây dựng kết cấu hạ tầng; xây dựng các vùng biển,

5


đảo ở địa bàn chiến lược đều phải gắn kết chặt chẽ với quá trình tăng cường lực lượng,
tiềm lực, thế trận quốc phòng – an ninh; nhiệm vụ, phương án, kế hoạch tác chiến và
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; chăm lo xây dựng thế trận lòng dân, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quân với dân một ý chí; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội….

II. Thực trạng phát triển kinh tế biển của Việt Nam và tình hình an ninh
biển đảo
1. Phát triển kinh tế biển từ sau đổi mới đến nay
1.1.

Thành tựu đạt được

- Bối cảnh chung nhiều biến động khó lường kinh tế biển Việt Nam vẫn tiến
triển tốt.
- 2007 - 2017: 28 tỉnh, thành phố ven biển đóng góp trên 60% GDP cả nước.
- Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp lớn vào GDP trong suốt hơn 10 năm
qua ước tính đạt khoảng 10% mỗi năm.
- Hoạt động du lịch: Năm 2018: Số khách quốc tế 15,5 triệu người, tăng 19,9%
so với năm 2017.
- Hình thành và phát triển được nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển.
- Kinh tế biển gắn với phát triển các ngành công nghiệp.
=> Đảm bảo tính bền vững và đóng góp giá trị thực cho nền kinh tế
- 2 cảng biển lớn ở Việt Nam
Hải Phòng
- Tốc độ tăng trưởng hàng năm cao 11% (trong vòng 5 năm qua).

- Các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tới 90% GDP của tỉnh.
- 28 quốc gia đã đầu tư vào 280 dự án, tổng vốn đầu tư 4,3 tỷ USD.
Quảng Ninh
- Cảng Cái Lan: Tiếp nhận tàu container 40.000 tấn.
- Cảng Cẩm Phả: vận chuyển than và cảng dầu B12, nhận 5.000 tàu-tonne tàu.
- Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Quảng Ninh đạt 23 triệu tấn trong năm
2010.
6


- Số lượng du khách đến tỉnh đã tăng lên khoảng 4 triệu người vào năm 2010.
1.2.

Thách thức

- Hạn chế còn tồn đọng của ngành kinh tế biển tại Việt Nam.
- Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, mạng lưới tàu thuyền, trang thiết bị còn
lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp.
- Quản lý nhiều khu bảo tồn biển chưa hiệu quả.
- Hệ thống chính sách, pháp luật phát triển kinh tế biển chưa đồng bộ, chưa tạo
được sức mạnh để điều chỉnh các hoạt động phát triển kinh tế biển.
- Môi trường và các nguồn tài nguyên biển suy thoái mạnh mẽ.
- Nguồn thủy sản bị đánh bắt cạn kiệt, các hệ sinh thái biển quan trọng như rừng
ngập mặn, hệ rạn san hô, thảm thực vật biển bị phá hoại.
- Nguồn thủy sản cạn kiệt, các hệ sinh thái biển: rừng ngập mặn, hệ rạn san hô,
thảm thực vật biển bị phá hoại và suy thoái nghiêm trọng.
- Nhận thức của ngư dân còn thấp, đánh bắt cá trái phép, đánh bắt hủy diệt gây
ảnh hưởng nghiêm trọng tới thủy sản xuất khẩu.
- Ô nhiễm môi trường biển gây hậu quả lớn tới môi trường biển và kinh tế - xã
hội tại các tỉnh ven biển từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên Huế. Đặc biệt là vụ gây ô nhiễm

môi trường biển do công ty Formosa ở vùng biển Vũng Áng.
+ Hiện tượng thủy sản chết lan trên diện rộng, bắt đầu từ vùng ven biển Hà
Tĩnh, lan tiếp dọc ven biển các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
+ Gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, xã hội và môi trường, nặng nhất là
ngành thủy sản, tiếp đến là hoạt động kinh doanh, dịch vụ, du lịch và đời sống
sinh hoạt của ngư dân.
+ Nguyên nhân: Do quá trình vận hành thử nghiệm tổ hợp nhà máy, xảy ra
sự cố, dẫn tới nước thải có chứa độc tố phenol, xyanua chưa được xử lý đạt
chuẩn xả ra môi trường.

2. Tình hình an ninh biển đảo Việt Nam
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không gian
sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đây cũng là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, là tuyến phòng thủ

7


hướng đông của đất nước, tạo khoảng không gian cần thiết giúp kiểm soát việc tiếp
cận lãnh thổ trên đất liền.
Kế thừa và phát triển ý thức chủ quyền biển, đảo của ông cha trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, cũng như nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của
biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách về biển, đảo. Quản lý, khai thác đi đôi với bảo vệ vững
chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển, làm cho đất nước
giàu mạnh là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
2.1.

Thuận lợi


Những năm qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quân và dân ta triển khai
tích cực các hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Chúng ta đã
“Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được
chủ quyền biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”
(Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII). Đồng thời, Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng nêu
“nhận thức của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí,
vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng
lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững”.
Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế và lực của ta trên các vùng biển,
đảo đã tăng lên nhiều. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, “thế trận lòng
dân” trên biển, đảo không ngừng được củng cố, tăng cường. Các lực lượng quản lý,
bảo vệ biển, đảo từng bước được xây dựng, phát triển ngày càng vững mạnh hơn,
trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam được Đảng, Nhà nước ưu tiên đầu tư tiến thẳng
lên hiện đại, có sự trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc, đủ sức làm nòng cốt bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bộ đội Hải quân cùng các lực lượng thực thi pháp luật
khác trên biển (cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư…) không quản ngại khó
khăn, gian khổ, hiểm nguy; kiên cường bám trụ nơi “đầu sóng, ngọn gió”. Đặc biệt,
mỗi khi phải đối mặt với tình huống phức tạp, căng thẳng, các lực lượng trên biển luôn
nêu cao ý chí quyết tâm “còn người, còn biển, đảo”, “một tấc không đi, một li không
rời”; thực hiện đúng đối sách, phương châm, tư tưởng chỉ đạo; khôn khéo, kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, an ninh, trật tự trên biển; không
8


để xảy ra xung đột; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước và
mở rộng quan hệ hợp tác với các nước.
2.2.


Khó khăn

Bên cạnh thuận lợi cơ bản, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
hiện nay vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, khu vực
diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những nhân tố mới xuất hiện tác động
trực tiếp đến tình hình Biển Đông. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và tranh
chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt, tiềm
ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định.
Ở trong nước, sự phối hợp, thống nhất nhận thức và hành động về chủ quyền
biển, đảo của một bộ phận nhân dân chưa cao. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng vấn
đề biển, đảo hòng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Trong điều kiện kinh tế, ngân
sách có hạn, chúng ta chưa thể cùng lúc đầu tư xây dựng được ngay các lực lượng
quản lý, bảo vệ biển đủ mạnh, trang thiết bị, phương tiện còn hạn chế, khó duy trì sự
hiện diện thường xuyên, liên tục trên toàn bộ vùng biển rộng lớn. Cơ chế phối hợp, chỉ
đạo, điều hành tập trung, thống nhất các lực lượng quản lý, thực thi, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo còn những bất cập nhất định.
Hiện nay, tình hình quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta
khá phức tạp, hàm chứa nhiều nhân tố bất ổn, đó là: tranh chấp ở Biển Đông ngày càng
diễn biến phức tạp, tác động và ảnh hưởng đến an ninh, hòa bình và phát triển của đất
nước ta; tình hình khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, khó lường, xuất hiện
nhiều nhân tố mới có tác động sâu sắc đến trật tự và cục diện thế giới, tác động trực
tiếp đến phát triển tình hình ở khu vực Biển Đông; các thế lực phản động, cơ hội chính
trị trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề biển, đảo để chống phá Đảng và Nhà nước ta;
kinh nghiệm quản lý biển, đảo của chúng ta còn hạn chế, năng lực, trang thiết bị của
các lực lượng thực thi pháp luật trên biển cần tiếp tục được củng cố và tăng cường.

3. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển và vấn đề an ninh biển đảo
(thực tiễn)
Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã khẳng định rằng, với sự nỗ
lực của các cấp, các ngành, nhân dân và lực lượng vũ trang, kinh tế biển và ven biển

của nước ta có nhiều khởi sắc, phát triển theo hướng tích cực, đã đem lại cho đất nước

9


khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội, 50% thu nhập ngoại tệ mạnh và tạo ra việc làm
ổn định cho khoảng 9 triệu người. Kinh tế biển cũng có sự thay đổi về cơ cấu ngành
nghề theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc khai thác nguồn lợi từ biển đã
đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước, nhất là cho xuất khẩu (dầu khí,
hải sản…). Xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ – kỹ thuật hiện đại
như khai thác dầu khí, công nghiệp đóng tàu, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển
– đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn…. Trong việc bảo đảm quốc phòng – an ninh,
chúng ta đã kiềm chế được xung đột, giữ được lợi ích quốc gia, dân tộc trên phương
diện tổng thể, giữ được môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế biển. Đó là những tiền đề, điều kiện thuận lợi để chúng ta thực hiện mục tiêu
phát triển
kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong thời gian
tới.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện mục tiêu chiến lược biển, chúng ta đang
đứng trước nhiều thách thức gay gắt về phát triển kinh tế biển như sự suy giảm các
nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển; khai thác tài nguyên và
môi trường biển; về ô nhiễm môi trường… và một số thách thức về quốc phòng – an
ninh. Sự phát triển kinh tế biển ở nhiều địa phương và một số ngành chủ yếu chạy theo
nhu cầu thị trường, chưa thực sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển.
Phát triển kinh tế biển ở một số lĩnh vực chưa thực sự được gắn kết chặt chẽ với
quốc phòng – an ninh, hoặc ngược lại, có một số lĩnh vực của quốc phòng – an ninh
chưa được gắn kết với phát triển kinh tế, làm cho kinh tế biển vốn còn nhiều hạn chế
về khoa học – công nghệ, kỹ thuật và năng lực lại bất cập trong công tác bảo vệ, làm
hạn chế quá trình phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng – an ninh. Một số địa

phương xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, kinh tế tập trung, các dự án ven
biển, trên đảo, chưa chú trọng các phương án xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh,
thế trận lòng dân, chủ yếu chạy theo lợi ích kinh tế là chính; một số quy hoạch, kế
hoạch, nhất là việc xây dựng bến cảng; cơ sở công nghiệp biển; các khu dịch vụ trên
đảo mở tràn lan, không tuân thủ các nguyên tắc chung, làm ảnh hưởng đến khả năng
bảo vệ quốc phòng – an ninh trên biển, đảo. Tình trạng đó đang đặt ra nhu cầu cấp
bách phải có một chiến lược phát triển kinh tế biển được bổ sung với những luận cứ
10


khoa học và cơ sở thực tiễn vững chắc, mới có thể đáp ứng những nhiệm vụ tăng tốc
kinh tế biển để đến năm 2020, nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển.

III. Phương hướng chỉ đạo, mục tiêu của Đảng và giải pháp phát triển kinh
tế biển gắn với an ninh biển đảo
1. Phương hướng chỉ đạo và mục tiêu của Đảng về phát triển kinh tế
biển
1.1.

Phương hướng chỉ đạo của Đảng

Biển Việt Nam không chỉ mang lại những lợi thế về mặt kinh tế, hơn hết đây còn
là hướng phòng thủ chiến lược của đất nước ta. Đây là một bộ phận cấu thành phạm vi
chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, vùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và
phát triển bền vững của dân tộc ta. Vì vậy, phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng
– an ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo là điều Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm, chú trọng.
Ngày 22/10/2018, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung

ương Khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW). Trong đó đưa ra một số
quan điểm chung như sau:
(1) Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt
của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không
gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát
triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn
liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà
bình, ổn định cho phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và
người dân Việt Nam.

11


(2) Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa
dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và
tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương
không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của
biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
(3) Giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển đi đôi với
xây dựng xã hội gắn kết, thân thiện với biển; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và
trách nhiệm của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở công
bằng, bình đẳng, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
(4) Tăng cường quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên và bảo vệ môi trường
biển, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển tự nhiên; chủ động ứng phó với

biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đẩy mạnh đầu tư vào bảo tồn và phát triển giá trị đa
dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển; bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái từ
đất liền ra biển. Gắn bảo vệ môi trường biển với phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, sự
cố môi trường, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu.
(5) Lấy khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao
làm nhân tố đột phá. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác nghiên cứu, điều
tra cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực về biển; kết hợp huy động các nguồn lực trong và
ngoài nước. Chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập, hợp tác quốc tế, ưu tiên thu hút
các nhà đầu tư chiến lược hàng đầu thế giới có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên
tiến trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam.
Đồng thời, Đảng cũng đưa ra một số chủ trương lớn nhằm phát triển kinh tế biển
và ven biển, để đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển
theo thứ tự ưu tiên: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu
khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5)
Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Bên cạnh
đó, đảng cũng đưa ra những chủ trương phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế như sau: Xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng chính quy, tinh nhuệ theo hướng hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển; không ngừng củng cố, tăng
12


cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân khu vực biển;
bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển. Nâng cao
năng lực ứng phó với các mối đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền thống, bảo
đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu lợi
dụng các vấn đề về biển, đảo để chống phá. Kiên trì xây dựng và duy trì môi trường
hoà bình, ổn định và trật tự pháp lý trên biển, tạo cơ sở cho việc khai thác và sử dụng

biển an toàn, hiệu quả. Tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, chủ
động tham gia và đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong
việc bảo tồn, sử dụng bền vững biển và đại dương; tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự
hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác biển, trong đó chú trọng các
lĩnh vực khoa học, công nghệ, tri thức và đào tạo nguồn nhân lực.
1.2. Mục tiêu của Đảng
Qua nhiều lần được đề xuất ý kiến cũng như chỉnh sửa qua các kì Đại hội, tại Đại
hội Đảng gần đây nhất, Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta đã nhấn mạnh mục tiêu phát
triển kinh tế biển đồng thời bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc
trong thời gian tới: “Phát triển kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia
và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí,
đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển,
đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá về
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu
tư để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác
tài nguyên biển, đảo một cách bền vững…”
Như vậy, mục tiêu tổng quát đến năm 2030 đó là đưa Việt Nam trở thành quốc
gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành
văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn
chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm
thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học
mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế
biển. Cụ thể hơn về kinh tế biển, Đảng đưa ra mục tiêu đó là các ngành kinh tế thuần
biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước
đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn
13


mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh
thái biển.

Về tầm nhìn đến năm 2045, Đảng mong muốn đưa Việt Nam trở thành quốc gia
biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp
quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công
nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách
nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.

2. Giải pháp phát triển kinh tế biển gắn với an ninh biển đảo
Về vấn đề phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc, Đảng ta luôn coi đó là chủ trương chiến lược, nhất quán. Và để
thực hiện thắng lợi chủ trương đó, dựa trên những lợi thế, tiềm năng và cả những khó
khăn, thách thức trong phát triển kinh tế biển, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ, hoàn
chỉnh trong đó cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về biển,
đảo, nhất là tầm quan trọng của việc gắn phát triển kinh tế biển, đảo với bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và bảo đảm quốc phòng an ninh trong bối cảnh
hội nhập hiện nay.
Có thể nói, đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài của cả hệ thống
chính trị, qua đó tạo sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng, trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong quá trình thực hiện Chiến lược biển trên
tất cả các lĩnh vực. Qua đó ta mới tạo được động lực và sức mạnh tổng hợp để hoàn
thành mục tiêu, yêu cầu chiến lược đề ra, đẩy nhanh phát triển bền vững kinh tế biển
đồng thời xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh vững chắc trên biển, tạo niềm tin cho
người dân, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước và hội nhập
quốc tế. Công tác tuyên truyền cần được đổi mới với nhiều hình thức đa dạng, phong
phú nhưng cũng phải phù hợp với thực tiễn, trình độ, nhận thức của nhân dân, nhất là
các đối tượng hoạt động trên biển.
Tuy nhiên, ngoài việc cung cấp thông tin khách quan, cần làm rõ tính chất phức
tạp của tình hình biển, đảo hiện nay, định hướng những vấn đề liên quan đến tranh
chấp chủ quyền ở Biển Đông để mọi người hiểu đúng thực chất, cần làm rõ chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta để củng cố niềm tin, đề cao trách nhiệm

trong tổ chức thực hiện; đồng thời, chỉ ra những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
14


địch, lợi dụng con đường du lịch biển, đảo để thực hiện các mưu đồ chính trị, gây hại
đến lợi ích quốc gia dân tộc. Thông qua đó mọi người nâng cao tinh thần cảnh giác và
có ý thức trách nhiệm trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, giữ gìn an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
về phát triển bền vững kinh tế biển phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là trong bối cảnh
hội nhập quốc tế hiện nay.
Việc xây dựng hệ thống chính sách, quy định, cơ chế phối hợp về phát triển kinh
tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng , an ninh có thể bao gồm: quy định về phát triển
kinh tế du lịch biển ở các khu vực ưu tiên cho nhiệm vụ quốc phòng, các khu vực nhạy
cảm về an ninh chính trị, về sự tham gia của đơn vị Quân đội, Công an với các quy
hoạch phát triển kinh tế du lịch biển, về lựa chọn đối tác đầu tư, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch, về trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, các nhà
đầu tư, các khu du lịch biển, đảo trong việc chấp hành thực hiện các quy định về bảo
đảm quốc phòng, an ninh; cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành liên quan với Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an trong phát triển kinh tế du lịch biển. Từng bước đổi mới cơ
chế, chính sách di dân từ đất liền ra sinh sống ổn định, lâu dài tại các đảo và quần đảo
xa bờ (có thể huy động cả vợ, con của sĩ quan, quân nhân đang công tác tại các đảo để
hợp lý hóa gia đình; chiến sĩ hải quân sau khi hết hạn nghĩa vụ quân sự tình nguyện ở
lại định cư, sinh sống lâu dài tại các đảo;...).
Thêm nữa, trong quá trình tuyên truyền, luôn luôn cần kết hợp với việc cung cấp
các tài liệu lịch sử, chứng cứ pháp lý, luận chứng khoa học và tình hình thực tiễn để
khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển, đảo
nước ta trên cơ sở Luật Biển Việt Nam và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Bộ Quy tắc ứng
xử của các bên ở Biển Đông (COC) khi được thông qua. Có như vậy quá trình thông

tin, tuyên truyền mới có hiệu quả và mới từ đó khơi dậy được lòng tự hào, tự tôn dân
tộc, ý chí kiên cường, bất khuất của các thế hệ cha ông trong công cuộc bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Ngoài ra, việc nâng cao nhận thức, kiến thức,
hiểu biết về biển, đại dương, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm biển, ô nhiễm
rác thải nhựa, thiên tai,…người dân là nhiệm vụ vô cùng cấp thiết trong bối cảnh hiện

15


nay, để qua đó tạo niềm tin, nâng cao tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người
dân đối với việc bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Ba là, phát triển khoa học, công nghệ kết hợp với tăng cường điều tra cơ bản
biển, tăng cường quản lý, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển đi đôi với bảo
vệ môi trường biển.
Bên cạnh đó, cũng cần chú ý mở rộng nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong
điều tra, nghiên cứu ở các vùng biển quốc tế. Đầu tư vào các nguồn lực, thiết bị có khả
năng nghiên cứu ở các vùng biển sâu.
Hiện nay, “nền kinh tế biển xanh” đang là xu hướng của nhiều quốc gia trên thế
giới. Chính vì thế, về lâu dài, chúng ta cũng sẽ phải đi theo con đường này nếu muốn
bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển và bảo tồn mà trong đó khoa học, công nghệ và
nguồn nhân lực là hạt nhân. Việc đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa
học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực biển lại càng trở nên cần thiết để có thể đánh
giá đúng tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, hệ sinh thái và các
ngành, lĩnh vực kinh tế biển, và để sớm đạt được các tiêu chí phát triển bền vững của
một “nền kinh tế biển xanh”.
Bốn là, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển.
Cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, kiến thức về biển, đại dương kèm
theo các kỹ năng sinh tồn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng,
tránh thiên tai từ trong quá trình học tập cho học sinh, sinh viên trong tất cả các bậc
học, cấp học. Đặc biệt, cần có chính sách đầu tư vào nguồn nhân lực biển chất lượng

cao phù hợp với nhu cầu thị trường và thực tiễn khu vực và thế giới; xây dựng cơ chế,
chính sách đặc biệt thu hút nhân tài, qua đó từng bước hình thành đội ngũ các nhà
quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt trình độ quốc tế, có chuyên môn sâu về biển và
đại dương, phục vụ cho quá trình nghiên cứu phương án, giải pháp tối ưu hóa tiềm lực
kinh tế vùng biển kết hợp với bảo tồn vùng biển Việt Nam và nâng cao hỗ trợ bảo toàn
an ninh khu vực. Đồng thời, cần có cả cơ chế hỗ trợ, nâng cao chất lượng đào tạo và
phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nguồn nhân lực biển đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực; tiến hành hiệu quả công tác đào tạo nghề để có thể đáp ứng yêu cầu về lao động
của các ngành kinh tế biển cũng như nhu cầu về việc chuyển đổi nghề của người dân.
Năm là, tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh và thực thi pháp luật
trên biển, trong đó bao gồm: hoàn thiện tổ chức các lực lượng bảo đảm quốc phòng, an
16


ninh, thực thi pháp luật trên biển; đầu tư vào công nghệ, trang thiết bị hiện đại; chú
trọng đào tạo nhân lực và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, tăng cường khả năng
tác chiến của các lực lượng tham gia bảo vệ “chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài
phán và các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đất nước”; xây dựng lực lượng công
an khu vực ven biển, đảo và các khu đô thị, kinh tế, khu công nghiệp ven biển vững
mạnh, là nòng cốt bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vùng biển, đảo; nâng
cao năng lực hoạt động của các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ phòng, tránh và giảm
nhẹ thiệt hại thiên tai, các lực lượng cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với biến đổi khí hậu,
nước biển dâng khu vực biển, đảo để bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư, người lao
động và các hoạt động kinh tế khu vực biển; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng
toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vùng biển, đảo.
Sáu là, chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về
biển; xây dựng môi trường hoà bình, thân thiện và an toàn, bảo đảm vững chắc về
quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội để tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh tế du lịch biển, đảo phát triển.
Cần thực hiện tốt các quy chế phối hợp đảm bảo an ninh trật tự trên các tuyến,

điểm du lịch biển, đảo; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ
an ninh trật tự khu du lịch biển, đảo. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với kinh tế du
lịch biển, không để kẻ địch lợi dụng phá hoại các mục tiêu, công trình kinh tế, văn hoá,
quốc phòng, an ninh hay các hành động chống đối Đảng, chính quyền, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân; cần thiết phải xử phạt nghiêm minh các hoạt động lợi dụng con
đường du lịch để tuyên truyền, phát triển đạo trái phép hay truyền bá văn hoá phẩm
đồi truỵ, mê tín, dị đoan; đảm bảo an ninh trật tự trên các tuyến, điểm du lịch biển,
đảo, không để tồn tại băng nhóm gây rối an ninh trật tự. Xây dựng lực lượng vũ trang
tinh nhuệ và hiện đại, thực sự là lực lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng, an
ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển kinh tế biển.
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa
phương hoá; chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển,
đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển
Đông bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của
17


Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác để
phát triển. Tăng cường quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các
nước bạn bè truyền thống, các nước có tiềm lực về biển, các nước có chung lợi ích
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và phù hợp với
luật pháp quốc tế. Chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất
là các hoạt động hợp tác biển trong khuôn khổ ASEAN; phối hợp với các nước thực
hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), thúc
đẩy ký Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC)” (Nghị quyết 36-NQ/TW)
Bảy là, huy động nguồn lực, tăng cường đầu tư cho phát triển kinh tế du lịch
biển, đảo để khẳng định chủ quyền trên biển và các đảo, quần đảo.
Vùng biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế, chính vì vậy,

cần phải biến các tiềm năng ấy thành nguồn động lực đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua việc đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn như:
khai thác, chế biến dầu khí; hệ thống cảng và dịch vụ vận tải biển; khai thác, chế biến
hải sản; du lịch,... Hơn nữa, việc đầu tư, khai thác các sản phẩm du lịch biển, đảo cũng
là sự khẳng định chủ quyền của Việt Nam với thế giới. Điều này đặc biệt có ý nghĩa
đối với những khu vực đang có sự tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa hiện nay. Vì vậy, chúng ta cần xây dựng cơ chế, chính sách thuận lợi để thu
hút đầu tư phát triển kinh tế biển: Đẩy mạnh thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh
tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và chủ động thu hút các
nhà đầu tư lớn, có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến từ các nước phát triển;
khuyến khích phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn
kinh tế biển mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trên biển; cần đẩy mạnh đầu tư đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch biển, đảo; cần áp dụng
khoa học, công nghệ, đầu tư hạ tầng về năng lượng điện tự nhiên (như điện mặt trời,
điện gió) và nước sạch (công nghệ lọc nước biển) trên các đảo để vừa bảo đảm phát
triển kinh tế, vừa phục vụ đời sống của cư dân ven biển và hải đảo; cần ưu tiên và hỗ
trợ phát triển sản phẩm du lịch biển hướng ra Biển Đông, đặc biệt tại các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa; đầu tư xây dựng một số khu nghỉ dưỡng, resorts, quần thể du
lịch có quy mô và chất lượng tầm cỡ quốc tế như Vân Đồn, Sầm Sơn, Lăng Cô, Non
Nước, Nha Trang, Mũi Né… Qua đó tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phát triển
kinh tế biển thông qua việc đẩy mạnh sản xuất của cư dân các đảo và quần đảo, cải
18


thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, vừa giải quyết bài toán kinh tế lại
vừa xây dựng được niềm tin của nhân dân.

3. Kiến nghị
Tài nguyên biển của đất nước ta là vô cùng lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa

học công nghệ trong điều tra nghiên cứu cũng như khai thác tiềm năng biển được xác
định là nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy nền kinh tế biển phát triển
mạnh mẽ hơn. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm
đến việc phát huy lợi thế của đất nước về biển, kết hợp với phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam, coi đó là
một trong những động lực cơ bản cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, để
phát huy tiềm năng, lợi thế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với
bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trước mắt và lâu dài, cần tập trung thực hiện tốt
một số nội dung sau:
Một là, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có
trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong
khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế
Hai là, xây dựng lực lượng bảo vệ biển, đảo vững mạnh, đáp ứng yêu cầu quản
lý, khai thác và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới.
Trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển cao, mọi hoạt động trên biển diễn
ra mau lẹ, việc quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc, trong đó, lực lượng trực tiếp và tại chỗ là nòng cốt. Vì vậy, xây dựng,
củng cố lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo như lực lượng
Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, dân quân tự vệ biển đủ mạnh, có số lượng hợp
lý, chất lượng tổng hợp cao, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở. Chú trọng xây dựng
trình độ kỹ, chiến thuật, trình độ hợp đồng tác chiến giữa các lực lượng, đảm bảo khả
năng xử lý linh hoạt và hiệu quả các tình huống có thể xảy ra trên biển. Quan tâm đúng
mức đến công tác bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các lực lượng nòng cốt như
Hải quân và Cảnh sát biển phù hợp với xu thế phát triển trong khu vực và yêu cầu
nhiệm vụ của từng đơn vị. Kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh, uy lực của bộ đội chủ lực

19



với khả năng xử lý tình huống mau lẹ, trực tiếp của các lực lượng quân sự và dân sự ở
các địa phương ven biển.
Ba là, kiên trì đối thoại tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài thông qua đối
thoại, tham gia hiệu quả trong việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, kết
hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc
phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo
Tiếp tục mở rộng và tăng cường hợp tác hữu nghị với các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới cũng như với các tổ chức quốc tế trong các vấn đề có liên quan đến
biển, đảo trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, lợi ích quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo
đảm an ninh và an toàn hàng hải quốc tế; cùng nhau xây dựng khu vực hòa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, nhất
là ở một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây dựng thế trận quốc
phòng - an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên
biển
Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có hiệu quả các
nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng
tại chỗ phục vụ chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển.
Năm là, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác,
đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn
trên biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác
hải sản trái phép của nước ngoài trên vùng biển của Việt Nam. Các địa phương ven
biển, huyện đảo phải có lực lượng dân quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải
sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh
ngăn chặn các hành động xâm phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia.

20


21



KẾT LUẬN
Với vị trí chiến lược quan trọng, nguồn tài nguyên phong phú, nhiều tiềm năng to
lớn, biển Việt Nam đã và đang đem lại những lợi ích to lớn về kinh tế cho đất nước.
Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trên lĩnh vực phát triển kinh tế biển một
phần rất lớn là nhờ những chính sách, tầm nhìn đúng đắn của Đảng. Đảng cũng chỉ rõ,
để phát triển kinh tế biển bền vững, cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa phát
triển kinh tế và bảo vệ vững chắc an ninh, biển đảo.
Tuy nhiên, trong quá trình đạt được mục tiêu lâu dài trên, không thể tránh khỏi
những khó khăn, thách thức về cả khách quan và chủ quan. Trong bài viết đã chỉ rõ
tình hình thực tế của kinh tế biển và vấn đề an ninh, biển đảo của nước ta hiện nay,
cũng như đưa ra một số giải pháp, kiến nghị tương ứng, phù hợp. Để có thể đạt được
các mục tiêu mà Đảng đề ra trong chính sách phát triển kinh tế biển trong tương lai,
cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước các cơ quan, bộ ngành cũng
như toàn thể nhân dân Việt Nam.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996, tr. 211.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001, tr. 181-182.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2006, tr. 225.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2007, tr. 76.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.

Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2011, tr. 121-122.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 36-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban
Chấp hành Trung Ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
8. “Để biển, đảo mãi là không gian sinh tồn, phát triển”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân
từ Số 9-2019.
9. “Kinh tế biển xanh – Đòn bẩy cho phát triển bền vững: Tầm nhìn chiến lược”, Báo
Tài nguyên & Môi trường, ngày 26/09/2019, Hà Nội
10. Thủ tướng Chính phủ (2015), Chỉ thị 14/CT-TTg ngày 02/07/2015 “Về việc tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước, tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy phát triển du
lịch”, Hà Nội.
11. “Khát quát về biển đảo Việt Nam”, Ban Tuyên giáo Trung ương Đoàn.
12. “Kinh tế biển không chỉ đơn thuần là đánh bắt hải sản”, Báo Vietnamnet
( />13. “Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam”, Báo Nhân dân Điện tử
( />14. Các nguồn tham khảo khác: Thông tấn xã Việt Nam, Tạp chí Cộng sản.
23


24



×