Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Phát triển kinh tế trên cơ sở bảo vệ TNTN môi trường ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN CƠ SỞ BẢO VỆ
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN - MÔI TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn:

Học viên thực hiện:

PGS. TS. Mai Văn Nam
Lớp Cao học HTNN K20

Cần Thơ, tháng 7 năm 2014


MỤC LỤC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

2


Tài nghuyên thiên nhiên (TNTN) là các sản phẩm của tự nhiên, do tự nhiên sinh ra và
là yếu tố có hạn. Trong quá trình khai thác sử dụng cho mục đích của mình, con người
đã lấy đi những tài nguyên này để khai thác, chế biến và tạo thành những sản phẩm vật
chất phục vụ cho cuộc sống. Nhưng trong thời đại ngày nay, khi kinh tế thế giới phát


triển và dân số gia tăng đến mức "chóng mặt". Cuộc sống con người ngày càng khó
khăn hơn. Con người càng ra sức khai thác nhiều hơn, khiến cho những nguồn lực này
càng cạn kiệt. Bởi vì nhu cầu của con người là vô hạn trong khi TNTN lại có hạn. Liệu
chúng ta có nghĩ tới một ngày nào đó những nguồn lực của tự nhiên này sẽ không còn
nữa? Phải chăng đã đến lúc nghĩ khác đi cho một tương lai khác của con người – nơi
mà có những nguồn năng lượng sạch và không sử dụng TNTN một cách quá mức và
lãng phí, gây ô nhiễm môi trường và nhiều những hệ lụy khác… Hơn nữa thiết nghĩ
con người cũng là sinh ra từ thiên nhiên, nếu cứ tiếp tục hủy hoại thiên nhiên thì sẽ có
lúc thiên nhiên quay ngược trở lại với con nguời chúng ta. Thời gian qua đã có nhiều
nỗ lực nhằm để bảo vệ môi trường và TNTN được đưa ra, nhưng đó chỉ là một số nhỏ
so với sự hủy hoại mà con người đang làm. Rõ ràng vấn đề bây giờ là phải tìm ra các
nguồn năng lượng mới và sạch để thay thế nhằm giảm tải ô nhiễm môi trường và giúp
cân bằng lại môi trường thiên nhiên của chúng ta.
Những điều nêu trên là một trong những vấn đề cốt yếu của chính sách phát triển của
các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Phát triển kinh tế - xã hội
là một tất yếu của một quốc gia nhưng nếu chỉ phát triển không thôi thì chưa đủ mà
còn phải phát triển bền vững trên cơ sở bảo vệ TNTN và bảo vệ môi trường. Vấn đề
này thiết nghĩ không phải chỉ là “nhiệm vụ” của các nhà làm chính sách hay chỉ đơn
thuần của các nguyên thủ quốc gia mà còn là của mọi người và từ trong ý thức của mỗi
người.
Từ những nhận định trên, tác giả chọn đề tài "Phát triển kinh tế trên cơ sở bảo vệ
TNTN - môi trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay".
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
2.1. Mục tiêu chung:
Từ những thực trạng về tình hình sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở nước ta, tìm ra giải
pháp thích hợp để phát triển kinh tế một cách bền vững hơn trên cơ sở bảo vệ TNTN
và môi trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể:

3



- Tìm hiểu rõ hơn về tài nguyên thiên nhiên cũng như tiềm năng của nó ở nước ta.
- Tìm hiểu vai trò của TNTN đối với sự phát triển kinh tế bền vững.
- Nhìn nhận lại thực trạng việc sử dụng TNTN ở nước ta trong thời gian qua.
- Đề xuất giải pháp sử dụng TNTN hợp lý để phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên
môi trường để phát triển bền vững ở nước ta trong tương lai.
III. TỔNG QUAN
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu về TNTN và môi trường, tìm hiểu về khái niệm TNTN, phân
loại, công dụng, vai trò của TNTN với phát triển kinh tế và đặc biệt là phát triển bền
vững, tình hình sử dụng TNTN ở VN hiện nay....
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
3.2.1. Không gian:
Bài tiểu luận chỉ giới hạn ở Việt Nam nên chưa thể là sự đại diện tốt nhất cho cả khu
vực nói riêng và cả thế giới nói chung.
3.2.2. Thời gian:
Do yêu cầu của môn học nên thời gian cũng giới hạn rất ngắn (từ tháng 6 - 7/2014).
3.3. Phương pháp nghiên cứu:
3.3.1 Phương pháp tiếp cận
Sử dụng phương pháp tiếp cận về TNTN và môi trường, cách thức sử dụng TNTN,
mức độ ảnh hưởng đến môi trường.... Nhằm tìm ra những quan điểm tổng thể của
nước ta từ đó xác định một kế hoạch hành động phù hợp với những yêu cầu cụ thể của
Việt Nam.
3.3.2 Phương pháp thu thập số liệu
Với khôn khổ của bài tiển luận nên chi thu thập số liệu thứ cấp từ tài liệu, báo cáo,
sách, báo, niên giám thống kê, internet.....
3.3.3 Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích và tách các chủ đề tiểu luận thành các phần nhỏ để nghiên cứu.
- Tổng hợp từ các số liệu, luận cứ đưa ra để trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cụ thể.

- Vận dụng những phương pháp chung của kinh tế chính trị, phương pháp khảo sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, để rút ra kết luận.
IV. NỘI DUNG:
4.1. Tìm hiểu về tài nguyên thiên nhiên (TNTN):

4


4.1.1. Tài nguyên thiên nhiên là gì?
4.1.1.1. Định nghĩa:
Tài nguyên thiên nhiên là một bộ phận quan trọng trong môi trường tự nhiên. Nguồn
tài nguyên thiên nhiên bao gồm những yếu tố vật chất của tự nhiên mà con người có
thể nghiên cứu, khai thác, sử dụng và chế biến để tạo ra sản phẩm, của cải vật chất
nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và xã hội. Vật chất mà tài nguyên thiên nhiên là
một dạng cụ thể của nó, được con người biến đổi mà không làm biến mất nó trong quá
trình hoạt động. Vật chất đề cập ở đây cần phải hiểu cả hai dạng: hữu hình và vô hình.
Có thể nói rằng tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức, thông tin được con
người sử dụng để tạo ra của cải vật chất hay tạo ra giá trị sử dụng mới. Xã hội loài
người càng phát triển thì số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được
con người sử dụng, khai thác càng gia tăng.
4.1.1.2. Hạn chế:
- Loại tài nguyên không khôi phục được bao gồm các loại khoáng sản đang được khai
thác để sử dụng trong công nghiệp. Sự hình thành các tài nguyên khoáng sản phải mất
hàng triệu năm; vì vậy, các tài nguyên này khi hao kiệt thì không phục hồi được. Do
đó, đối với tài nguyên khoáng sản, phải sử dụng thật tiết kiệm, sử dụng tổng hợp và
cần sản xuất các loại vật liệu thay thế (ví dụ, sản xuất các chất dẻo tổng hợp để thay
thế các chi tiết bằng kim loại…) .
- Tài nguyên không bị hao kiệt như năng lượng Mặt Trời, không khí, nước… Không
khí và nước có lượng rất lớn đến mức con người không thể sử dụng làm cho chúng cạn
kiệt được. Tuy nhiên, tài nguyên nước không phân bố đều giữa các vùng trên Trái Đất:

có nhiều vùng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước ngọt, đặc biệt là thiếu nước
an toàn. Không khí và nguồn nước đang bị đe doạ ô nhiễm nghiêm trọng làm ảnh
hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người.
4.1.2. Phân loại TNTN:
4.1.2.1 Phân loại theo công dụng:
4.1.2.1.1 Nguồn năng lượng:
Nguồn năng lượng lại có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Theo tính chất
thương mại là nguồn năng lượng được sử dụng phổ biến ở các nước (đặc biệt là các
nước công nghiệp phát triển) bao gồm các nguồn năng lượng mới: dầu hỏa, khí đốt,
than đá, thủy điện, uraniom, địa nhiệt, mặt trời, sức nước, sức gió. Năng lượng phi

5


thương mại là năng lượng được sử dụng để tạo ra nhiệt năng và chỉ còn được sử dụng
ở các nước đang phát triển bao gồm củi đốt và năng lượng sinh khói (rơm rạ, thân cây
các loại, phân súc vật…). Ở Việt Nam, hiện nay bình quân mỗi năm ở các vùng nông
thôn, miền núi sử dụng khoảng 22 triệu tấn củi cho việc đun nấu. Tuy nhiên, tỷ trọng
năng lượng phi thương mại ở các nước đang phát triển sẽ giảm dần cùng với sự phát
triển của nền kinh tế.
Toàn bộ nguồn năng lượng được sử dụng trong hoạt động giao thông, sản xuất điện
năng, phục vụ các ngành sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, từ điện năng, nguồn năng
lượng lại tiếp tục đi vào phục vụ cho tất cả các lĩnh vực hoạt động khác nhau của nền
kinh tế cũng như đời sống con người. Có thể nói năng lượng có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp phát triển đất nước. Năng lượng là cơ sở cho sự nghiệp công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay.
Để phản ánh quy mô nguồn năng lượng và khả năng đóng góp của nguồn năng lượng
vào hoạt động kinh tế, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu như: Trữ lượng tài nguyên
năng lượng (than, dầu, khí…), trong khi đó bao gồm trữ lượng thăm dò và trữ lượng
có khả năng khai thác; khả năng khai thác/năm.

Mức độ đánh giá chính xác quy mô nguồn năng lượng là sự phản ánh khác nhau giữa
trữ lượng thăm dò và trữ lượng có khả năng khai thác. Khả năng khai thác/năm là chỉ
tiêu phản ánh sự đóng góp trực tiếp của nguồn năng lượng vào kết quả hoạt động của
nền kinh tế.
Trong các nguồn năng lượng, thủy năng là nguồn năng lượng có ý nghĩa quan trọng
đối với các nước đang phát triển. Trên 45% điện năng tiêu thụ ở các nước đang phát
triển được sản xuất ở các nhà máy thủy điện. Ở VN, tỷ lệ này hiện nay là 63% với Nhà
máy thủy điện Hòa Bình có công suất là 1.920 MW và hiện đang triển khai xây dựng
nhà máy thủy điện Sơn La với công suất 3.600 MW.
Dầu hỏa là nguồn năng lượng có giá trị lớn nhất trên thế gời hiện nay. Ưu điểm của
nguồn năng lượng này là sử dụng thuận lợi, dễ vận chuyển (bằng đường ống, tàu biển)
và ít gây ô nhiễm hơn than. Tổ chức OPEC bao gồm 13 nước sản xuất và xuất khẩu
dầu mỏ trên thế giới, hiện đang kiểm soát khoảng 80% lượng dầu thô trên thị trường
thế giới. Các nhà khoa học dự đoán dầu mỏ có thể khai thác được trong vòng 60 năm
nữa. Dầu khí của VN theo đánh giá của WB, trữ lượng có khả năng khai thác là 1 tỷ
tấn, đứng thứ tư khu vực châu Á – TBD.

6


Sau hàng trăm năm được coi là thứ nhiên liệu độc hại, vừa khó khai thác lại vừa gây ô
nhiễm khi sử dụng, bây giờ than đá lại bắt đầu được sử dụng ưa chuộng trở lại nhờ giá
rẻ và nhờ kỹ thuật sử dụng hoàn toàn mới. Lợi thế đầu tiên của than đá là trữ lượng dồi
dào, bảo đảm giá cả ổn định. Theo ước tính của các chuyên gia, nếu không tìm thấy
mỏ mới thì nhân loại cũng đủ lượng than để dùng trong hai thế kỷ nữa, trong khi các
mỏ dầu hỏa và khí đốt đang cạn dần, Lợi thế thứ hai là các mỏ than phân bố tương đối
đều giữa các vùng lãnh thổ trên trái đất. Chỉ trừ ở Chây Âu là đã bị khai thác gần cạn,
còn than có mặt ở khắp mọi nơi: châu Á, châu Úc, châu Mỹ, chây Phi… Nhược điểm
chính của than đá là gây ô nhiễm do khói than có nhiều chất đột hại như CO2…Nhưng
những nhược điểm này đang dần biến mất do những kỹ thuật lọc khí đang được thí

nghiệm và đặc biệt là có hai quy trình kỹ thuật có nhiều triển vọng là biến than đá từ
thể rắn sang thể khí đang được tính đến trong những dự án xây dựng nhà máy nhiệt
điện. Do những ưu thế trên, than đá có khả năng trở thành nguồn năng lượng chính của
thế kỷ 21.
Việt Nam có trữ lượng than lớn, chủ yếu nằm ở khu vực Quảng Ninh chạy từ đảo Cái
Bầu trên vịnh Hạ Long cho tới Phả Lại với chiều dài 150km. Theo đánh giá, trữ lượng
thăm dò khoảng 3,5 tỷ tấn.
4.1.2.1.2 Các loại khoáng sản:
+ Các loại khoáng sản là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai thác và công
nghiệp sản xuất các loại vật liệu như công nghiệp luyện kim, công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ. Trong số 16 loại khoáng sản chủ yếu được sản xuất
trên thế giới hiện nay, các nước đang phát triển dẫn đầu thế giới về sản xuất bô-xít,
phốt phát và chiếm tỷ trọng lớn về sản xuất coban, cromit, thiếc, đồng. trong khi đó
các nước công nghiệp phát triển cung cấp các loại khoáng sản chủ yếu: kiềm, lưu
huỳnh, quặng sắt, niken và kẽm.
+ Việt Nam được đánh giá là có nguồn khoáng sản đa dạng như bô-xit, thiếc, đồng,
cromit, quặng sắt, đá vôi… Trong đó có thể nói triển vọng nhất là nguồn bô-xit, trải
dọc theo biên giới phía bắc với trữ lượng 5 tỷ tấn và ở vùng Tây Nguyên là 7 tỷ tấn.
Một số cơ sở khai thác quặng sắt ở Thái Nguyên, apatit ở Lào Cai và thiếc ở Cao Bằng
đều có quy mô còn nhỏ.
4.1.2.1.3 Nguồn tài nguyên rừng:

7


+ Rừng vừa có giá trị kinh tế vừa phải có giá trị bảo vệ môi trường. Về mặt kinh tế,
rừng cho sản phẩm gỗ, ngoài ra rừng còn cho chúng ta các sản phẩm động thực vật:
thịt thú rừng, những cây dược liệu quý, những loại cỏ có hương thơm, dầu thực vật, vỏ
cây quý, hoa quả có giá trị thương mại. Những sản phẩm này của rừng là một nguồn
thu nhập quan trọng của những người dân nông thôn ở vùng rừng núi của các nước

đang phát triển. Rừng còn có giá trị bảo vệ môi trường: chống xói mòn, lụt lội, điều
hòa khí hậu, chống sự thiêu đốt của mặt trời, tạo môi trường rất quan trọng nhưng khó
định lượng hơn giá trị kinh tế. Hai mặt này thường có mâu thuẫn với nhau. Từ xưa đến
nay con người thường có nhu cầu sử dụng gỗ và đất đai. Do khai phá rừng để trồng
trọt và để lấy gỗ làm cho diện tích đất rừng tự nhiên đang bị giảm dần, những dải rừng
đang bị đe dọa. Nguồn tài nguyên thường được đánh giá qua các chỉ tiêu: Diện tích có
rừng che phủ (triệu ha); Tổng trữ lượng gỗ rừng (triệu m 3); trữ lượng gỗ/ha có rừng
che phủ.
Ở Việt Nam, diện tích đất đai có rừng che phủ đã giảm từ 15-16 triệu ha (năm 1945)
xuống chỉ còn 8-9 triệu ha, tức là giảm từ 45% tổng diện tích xuống còn 28% diện tích
đất có rừng che phủ. Trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 52%, ở Philippin là 58% và ở
Indonesia là 67%.
4.1.2.1.4 Nguồn đất đai:
Đất đai có ý nghĩa quan trọng trong phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu cho các
công trình xây dựng nhà ở và các tuyết giao thông trên bộ. Ở VN, đất có khả năng
canh tác là 9,5 triệu ha, trong đó đã sử dụng 7 triệu ha, thực tế đất có thể huy động
thêm từ 2 đến 2,5 triệu ha, nhưng phần lớn là đất dốc bị xói mòn và thoái hóa. Hệ số
sử dụng đất trồng cây còn thấp, mới chỉ đạt chỉ số trung bình trong cả nước là 1,3. Bên
cạnh đó, thời gian qua do nhiều khu công nghiệp và đô thị mới đang hình thành nên
đất canh tác bị xâm lấn, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng bị co hẹp nhanh chóng.
4.1.2.1.5 Nguồn nước:
Nước là nguồn tài nguyên không thể thiếu trong sản xuất và đời sống, là cơ sở để xây
dựng hệ thống thủy điện, vận tải thủy, tạo bể chứa, đập tràn phục vụ tưới tiêu, là nguồn
cung cấp nước sinh hoạt cho đời sống con người. Việt Nam có nguồn nước phong phú,
có 9 hệ thống sông ngòi với lưu lượng dòng chảy 840 tỷ m 3/năm, ngày mưa bình quân
100 ngày/năm. Bên cạnh đó còn có nhiều sông, hồ, đầm lầy và các mạch nước ngầm.
Tuy vậy, mặt hạn chế là mưa theo mùa và tài nguyên nước phân bố không đồng đều

8



giữa các vùng. Ở các vùng núi nước rất hiếm, ở các vùng ven biển lại thiếu nước ngọt
vào mùa khô. Mặt khác, nhiều nguồn nước đã bị ô nhiễm, việc cung cấp nước sạch ở
nhiều vùng nông thôn và đô thị đang gặp rất nhiều khó khăn.
4.1.2.1.6 Biển và hải sản:
Với hơn 3.200 km bờ biển chạy suốt chiều dài đất nước đã tạo điều kiện thuận lời cho
Việt Nam trong vận tải biển. Hoạt động nuôi và đánh bắt hải sản cũng có ý nghĩa to
lớn, vừa tạo ra nguồn thu nhập, vừa là nguồn dinh dưỡng của đa số nhân dân. Một số
sinh vật biển như cá, tôm, cua, sò, hến có giá trị cao trên thị trường thế giới. Ngoài ra
cá vùng ven biển còn có điều kiện phát triển nghề làm muối, trồng và sản xuất các sản
phẩm từ cói. Trữ lượng hải sản cho phép đánh bắt mỗi năm ở VN là 1,5 triệu tấn cá và
5-6 ngàn tấn tôm.
4.1.2.1.7 Khí hậu:
- Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, gió mùa nóng và ẩm, độ ẩm bình quân hàng năm là
87%, rất thuận lợi cho trông cây nông nghiệp và hoa trái nhiệt đới. Điều kiện khí hậu
kết hợp với nguồn nước và đất đai đã cung cấp các loại nông sản có giá trị xuất khẩu:
lúa gạo, cao su, cà phê, chè, thuốc lá, tơ tằm, thịt và các sản phẩm chăn nuôi....

 Tuy vậy, một vấn đề đang đặt ra với Việt Nam hiện nay là phải hạn chế tình
trạng ô nhiễm không khí từ các chất thải công nghiệp, khí thải từ các phương tiện
giao thông, ô nhiễm do tàn phá rừng…
4.1.2.2 Phân loại theo khả năng tái sinh:
+ Nhóm tài nguyên không thể tái tạo là những tài nguyên có quy mô không thay đổi
như đất đai và những tài nguyên khi sử dụng sẽ mất dần hoặc biến đổi tính chất hóa, lý
như các loại khoáng sản kim loại, phi kim loại, than đá, dầu mỏ…Khi chúng ta khai
thác lên một thùng dầu thì cũng có nghĩa là trữ lượng dầu thế giới bị giảm đi một
thùng. Còn nếu như có thể tái tạo thì cũng phải trải qua một quá trình hàng triệu năm.
+ Nhóm tài nguyên có thể tái tạo, bao gồm nguồn rừng, thổ nhưỡng, các loại động,
thực vật trên cạn và dưới nước… Nguồn tài nguyên này, sau khi khai thác có thể được
tái sinh, phục hồi, tiếp tục sinh sôi, nảy nở dưới những tác động tích cực của con

người.
4.2. TNTN với phát triển kinh tế:
Giữa tài nguyên và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau, đó là mối quan
hệ tương tác, thường xuyên và lâu dài.

9


4.2.1. Tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố nguồn lực quan trọng:
Tài nguyên thiên là một trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất.
Xét trên phạm vi toàn thể giới, nếu không có tài nguyên, đất đai thì sẽ không có sản
xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy nhiên, đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Trên thực
tế, nếu công nghệ là cố định thì lưu lượng của TNTN sẽ là mức hạn chế tuyệt đối về
sản xuất vật chất trong ngành công nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên liệu đầu
vào như nhôm, thép…TNTN chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai
thác và sử dụng một cách hiệu quả. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia mặc dù có trữ
lượng tài nguyen phong phú, đa dạng, điều kiện thuận lợi, song vẫn là nước nghèo và
kém phát triển, ví dụ như Cô-oét, Arập-Sêút, Vê nê zuê la, Chi lê. Ngược lại nhiều
quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản nhưng lại trở thành những nước công nghiệp phát
triển như Nhật Bản, Anh, Pháp, Italia… Có thể nói, TNTN là yếu tố thúc đẩy sản xuất
phát triển, các nước đang phát triền thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô,
đó là những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn TNTN của đất nước, chưa qua
chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn TNTN cũng là cơ sở để phát triển các ngành sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp chế biên, các ngành công nghiệp nặng,
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ…
4.2.2. Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định:
Đối với hầu hết các nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian khổ liên
quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Tuy
nhiên, có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi của tự nhiên có nguồn tài nguyên lớn, đa

dạng nên có thể rút ngắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô
để bán hoặc để đa dạng hóa nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước. Như trên chúng ta đã thấy, nguồn TNTN thường là cơ sở để
phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và cung cấp
nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nước. Sự giàu có về tài nguyên, đặc biệt về năng lượng giúp cho một quốc gia ít bị lệ
thuộc hơn vào các quốc gia khác và có thể tăng trưởng một cách ổn định, độc lập khi
thị trường tài nguyên thế giới bị rơi vào trạng thái bất ổn.
4.2.3. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển:

10


TNTN là cơ sở để phát triển nông nghiệp và công nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang
phát triển ở thời kỳ đầu công nghiệp hoá như Việt Nam. Tuy vậy, cần đề phòng tình
trạng khai thác quá mức TNTN để xuất khẩu nguyên liệu thô.
4.3. Tài nguyên thiên nhiên với phát triển bền vững:
4.3.1 Phát triển bền vững:
4.3.1.1 Phát triển bền vững là gì:
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại, nhưng
không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.
4.3.1.2 Mặt tích cực và hệ lụy:
Hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đang được hoàn thiện
theo hướng tiếp cận với các mục tiêu phát triển bền vững. Các nguồn lực cho công tác
bảo vệ tài nguyên môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững đã và đang được tăng
cường mạnh mẽ. Hợp tác quốc tế về tài nguyên và môi trường thu được nhiều kết quả
tốt. Tốc độ gia tăng ô nhiễm đã từng bước được hạn chế. Chất lượng môi trường tại
một số nơi, một số vùng đã được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
người dân, cũng như quá trình phát triển bền vững của đất nước.

Hiện nay, tình trạng sử dụng đất tăng mạnh, tài nguyên nước ngày càng bị lạm dụng,
rừng tự nhiên bị khai thác lấy gỗ, trữ lượng cá cho hoạt động đánh bắt bị cạn kiệt, và
tài nguyên khoáng sản ngày càng bị khai thác nhiều hơn. Không có gì sai nếu sử dụng
tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng kinh tế. Nhưng để phát triển bền vững cần phải
đảm bảo các tài nguyên có thể tái tạo được khai thác ở mức thích hợp.
4.3.2 Vai trò của TNTN với phát triển bền vững:
TNTN có vai trò rất lớn đối với sự phát triển bền vững, đặc biệt là việc sử dụng TNTN
của con người nếu đúng mức sẽ mạng lại những lợi ích rất lớn và ngược lại sẽ có tác
hại không nhỏ. Tác động của TNTN đối với sự phát triển bền vững cùng với việc sử
dụng TNTN ở nước ta hiện nay có những ưu điểm và nhược điểm sau:
* Ưu điểm:
- Chống thoái hóa, thực hiện sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.
- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản.
- Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển.

11


- Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.
- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.
- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại.
- Bảo tồn đa dạng sinh học.
- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu,
góp phần phòng, chống thiên tai.
* Nhược điểm:
+ Các vấn đề môi trường như ô nhiễm môi trường đất, nước.
+ Không khí nhiều nơi còn ô nhiểm nặng nề.
+ Suy giảm đa dạng sinh học.
+ Khai thác khoáng sản quá mức và số lượng chất thải rắn đang gia tăng, gây bức xúc

trong nhân dân.
+ Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa đồng bộ.
+ Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường còn
thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.
+ Nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở các cấp, các ngành và
nhân dân còn hạn chế.
+ Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên vẫn đang
diễn ra tương đối phổ biến.
4.4. Sử dụng TNTN trong tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
4.4.1. Hiện trạng TNTN ở Việt Nam hiện nay:
4.4.1.1 Hiện trạng tài nguyên đất ở VN:
4.4.1.1.1. Thực trạng quy hoạch khai thác và sử dụng tài nguyên đất:
Vùng núi nước ta chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ. Sử dụng hợp lý đất đồi núi không chỉ
mang lại lợi ích lâu dài cho phát triển kinh tế xã hội miền núi mà còn tạo ra sự bảo hộ
cho sản xuất và đời sống dân cư vùng đồng bằng.
Đặc trưng cơ bản của vùng núi là địa hình chia cắt mạnh, gây trở ngại lớn cho việc
canh tác, phát triển hạ tầng và tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, tỷ lệ
diện tích đất có thể canh tác không nhiều. Khoảng 50% diện tích có sườn dốc trên 20
độ. Đất bị xói mòn mạnh, ước tính hàng năm khoảng 150 - 350 tấn/ha. Ngoài ra, phần
lớn đất bị phong hóa, nghèo dinh dưỡng đặc biệt là các nguyên tố vi lượng.

12


Qua nghiên cứu trong vòng hai mươi năm qua, có thể nhận thấy tình trạng thoái hóa
đất đồi núi đang diễn ra trên quy mô rộng, bao gồm quá trình xói mòn, rửa trôi và sa
mạc hóa.
Quá trình xói mòn, rửa trôi quan sát được trên cả ba loại đất: Đất canh tác nương rẫy
có độ dốc cao; đất một số hệ luân canh điển hình; lâm nghiệp với các thảm thực bì
khác nhau

4.4.1.1.2. Quá trình sa mạc hóa:
Sự khô hạn diễn ra phổ biến trên đất đồi núi khi mất rừng hoặc canh tác nông nghiệp
quá mức. Kết quả theo dõi chế độ ẩm của đất nương rẫy vùng Tây Bắc trong nhiều
năm qua cho thấy tới độ sâu 50cm, độ ẩm trong đất nhỏ hơn mức độ ẩm cây héo, nghĩa
là đất bị thiếu nước nghiêm trọng.
Do hậu quả của việc chặt phá rừng, đốt rừng bừa bãi, sử dụng đất không bền vững qua
nhiều thế hệ (du canh, du cư, độc canh, quảng canh) nên đất bị khô hạn nghiêm trọng,
nhiều nơi mất khả năng sản xuất. Tại Tây Nguyên, việc mở rộng diện tích nông nghiệp
ồ ạt không có quy hoạch làm đất bị xuống cấp nhanh, xuất hiện hiện tượng chua hóa,
thiếu nước đặc biệt vào mùa khô. Kết quả nghiên cứu cho thấy trồng chè ở vùng đất
bazan đã làm cho đất bị mất khoảng 120 tấn khô/năm, kéo theo sự thất thoát một
lượng lớn các chất dinh dưỡng như nitơ, phốt pho, canxi- magiê và các chất hữu cơ.

13


Để hạn chế tình trạng thoái hóa đất, việc áp dụng cả hai nhóm giải pháp công trình và
phi công trình rất cần thiết, các tài nguyên thiên nhiên khác như: đất, rừng, khoáng sản
trong các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng cao theo hướng bền vững.
4.4.1.2 Hiện trạng tài nguyên nước ở VN:
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam không phải là quốc gia mạnh về tài
nguyên nước bởi hơn 60% lượng nước bề mặt ở Việt Nam có nguồn gốc từ các nước
khác. Dù Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhưng khoảng một nửa dân số Việt
Nam vẫn chưa có đủ nước sinh hoạt. Những vấn đề nảy sinh từ biến đổi khí hậu cũng
tác động đến tài nguyên nước của Việt Nam, làm gia tăng thách thức vốn đã rất
nghiêm trọng…
* Ô nhiễm và suy thoái:
Báo cáo đánh giá ngành nước của Việt Nam cho thấy, tổng lượng nước mặt hằng năm
của nước ta vượt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng không đều giữa các mùa. Mùa khô ở Việt
Nam kéo dài và khắc nghiệt, lượng nước trong thời gian này chỉ bằng khoảng 30%

lượng nước của cả năm. Vào thời điểm này, khoảng một nửa trong số 16 lưu vực sông
chính bị thiếu nước - bất thường hoặc cục bộ.

Về nước ngầm, Việt Nam có nguồn nước chất lượng tốt với trữ lượng lớn nhưng ở
nhiều nơi, nước ngầm bị khai thác tập trung nên đang có mức sụt giảm nghiêm trọng.
Không chỉ suy thoái, tài nguyên nước còn ô nhiễm nghiêm trọng do nhiều nguyên
nhân. Tại Hà Nội, mỗi ngày thành phố thải ra khoảng 300.000 - 400.000 m 3 nước thải.
Tuy nhiên, lượng nước thải này không qua xử lý hoặc chỉ được xử lý sơ bộ trước khi
xả vào tuyến thoát nước chung, do đó nồng độ chất ô nhiễm ở một số điểm xả rất cao.
Ở TP Hồ Chí Minh, riêng lượng nước thải công nghiệp xả ra môi trường mỗi ngày là

14


400.000 m3. Một số ngành công nghiệp hóa chất, phân bón, khai thác khoáng sản có
lượng nước thải lớn, chứa nhiều chất độc hại được thải trực tiếp ra các sông, ao, hồ,
kênh, rạch nên đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Trên thực tế, tính trung bình, mỗi người Việt Nam có thể nhận 9.650 m 3 nước/năm
trong khi mức trung bình thế giới là 7.400 m3. Tuy nhiên, xét về nguồn nước nội địa,
Việt Nam chỉ đạt mức trung bình kém của thế giới với 3.600 m 3/người/năm, ít hơn
mức bình quân toàn cầu (4.000 m 3/người/năm). Nếu tính theo tiêu chí nguồn nước nội
địa, Việt Nam thuộc diện quốc gia thiếu nước. Điều đáng lo là, vì 63% tổng tài nguyên
nước mặt của chúng ta là ngoại lai, cụ thể ở lưu vực sông Hồng, nguồn nước ngoại lai
chiếm 50% tổng khối lượng nước bề mặt, còn ở lưu vực sông Cửu Long, con số này là
90% nên chúng ta không thể chủ động bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn nước, đặc
biệt là khi các quốc gia ở thượng nguồn ngày càng khai thác triệt để nguồn nước này.
Trung Quốc đang xây dựng hàng chục hồ chứa lớn trên sông Mê Kông, Thái Lan đã
xây 10 hồ chứa vừa và lớn, Campuchia dự kiến giữ nước Biển Hồ ở một mực nhất
định để phát triển thủy lợi…
4.4.1.3. Hiện trạng tài nguyên biển ở VN:

Trong bối cảnh thế giới tiến mạnh ra biển ở thế kỷ 21 với các chiến lược biển (và đại
dương) của những quốc gia đầy tham vọng thì quy mô phát triển kinh tế biển nước ta
như hiện nay hoàn toàn chưa tương xứng với tiềm năng và những giá trị mà biển sẽ
đem lại cho dân tộc. Cho nên, muốn tiến ra biển phải chấp nhận đầu tư lớn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phải duy trì được tính bền vững về mặt tài nguyên môi trường.
Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt
khoảng 47 - 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế thuần biển đạt khoảng 20 22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế
diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, thủy sản, hàng hải (vận
tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới
khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy sản,
thông tin liên lạc,.... bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ
chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước). So với các nước, năng lực
khai thác biển của Việt Nam chỉ bằng 1/7 của Hàn Quốc, 1/20 của Trung Quốc, 1/94
của Nhật Bản, 1/260 của thế giới.

15


Gần đây, kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chinh sách di dân và đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo. Tuy vậy, quy mô kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt
khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước đạt 1.300 tỷ
USD, Nhật Bản 468 tỷ USD, Hàn Quốc 33 tỷ USD. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven
biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị
nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng thông
qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực.

Đến nay Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các
thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế biển liên
hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo thì nhỏ bé. Các thành phố, thị trấn, khu
kinh tế, khu công nghiệp ven biển đang trong thời kỳ xây dựng. Hệ thống các cơ sở

nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở
quan trắc, dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn
còn nhỏ bé, trang bị thô sơ.
Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn. Tuy nhiên, ngành du lịch biển vẫn thiếu
những sản phẩm dịch vụ biển - đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và
quốc tế và chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Khai thác hải sản và

16


nuôi trồng thủy sản nước lợ vốn là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển đã đóng góp
khoảng 4,5 tỷ USD trong tổng giá trị thủy sản xuất khẩu (2008); tạo việc làm cho hơn
1 triệu lao động đánh cá trực tiếp, nuôi thủy sản và 50 ngàn lao động dịch vụ liên
quan. Mức khai thác dầu khí năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô và 6,89 tỷ m 3 khí, sản
phẩm dầu thô gần như xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất khẩu dầu đạt 7,44 tỷ USD, là
ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế biển hiện nay.
Đối với lĩnh vực kinh tế biển liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản phẩm dầu
khí, chế biến thủy sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công nghiệp, các
dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin, tim kiếm cứu nạn hàng hải, dịch vụ
viễn thông công cộng biển trong nước và quốc tế, nghiên cứu khoa học - công nghệ
biển, xuất khẩu thuyền viên,...) hiện mới bắt đầu được xây dựng và hình thành, quy mô
còn nhỏ bé. Các nhà chiến lược cho rằng, biển là di sản của nhân loại, là nơi dự trữ
cuối cùng của loài người nói chung và của dân tộc ta nói riêng về lương thực, thực
phẩm và nguyên, nhiên liệu. Vì vậy, phải cân nhắc đến tính bền vững trong phát triển
các kế hoạch và chính sách biển mà nguyên tắc chính là phát triển một nền kinh tế sinh
thái biển. Khai thác biển đảo đã đem lại những lợi ích kinh tế - xã hội bước đầu quan
trọng, nhưng việc sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững. Trình độ
khai thác biển của nước ta đang ở tình trạng lạc hậu nhất trong khu vực. Việt Nam tuy
là một quốc gia biển, song đến nay chúng ta vẫn chưa thực sự dựa vào biển để phát
huy đúng tiềm năng và thế mạnh.

4.4.1.4. Hiện trạng tài nguyên năng lượng ở VN:
Ngành năng lượng Việt Nam hai mươi năm qua đã phát triển mạnh, cơ bản đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tuy vậy, quy mô và hiệu quả của ngành
năng lượng còn thấp. Trạng thái an ninh năng lượng Việt Nam chưa được bảo đảm
(cúp điện xảy ra thường xuyên vào thời kỳ cao điểm; dự trữ dầu quốc gia chưa đủ khả
năng bình ổn giá khi có khủng hoảng giá dầu trên thị trường quốc tế…). Việt Nam sẽ
phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nguồn năng lượng trong giai đoạn từ 2015 - 2020
trở đi. Vấn đề năng lượng của Việt Nam sẽ chuyển từ giới hạn trong phạm vi một quốc
gia thành một phần của thị trường quốc tế và chịu sự tác động thay đổi của nó.

17


Ngành năng lượng Việt Nam hai mươi năm qua đã phát triển mạnh trong tất cả các
khâu thăm dò, khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối và xuất nhập khẩu năng lượng.
Điều đó đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển và đổi mới đất nước.
Đến nay, hệ thống năng lượng Việt Nam luôn dựa trên ba trụ cột chính là dầu khí, than
đá và điện lực. Thủy điện chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu sản xuất điện Việt Nam. Về
hiện trạng tiêu thụ năng lượng, giai đoạn 2000-2009, tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp
của Việt Nam tăng trưởng trung bình 6,54%/năm và đạt 57 triệu TOE vào năm 2009.
Tiêu thụ than tăng trung bình 12,12%/năm, xăng dầu tăng 8,74%/năm, khí tăng
22,53%/năm, điện tăng 14,33%/năm, đạt 74,23 tỷ kWh năm 2009.
Tuy vậy, quy mô và hiệu quả ngành năng lượng còn thấp, biểu hiện ở chỉ tiêu năng
lượng trên đầu người còn thấp xa so với trung bình của thế giới, ngược lại, cường độ
năng lượng cao hơn gần gấp hai lần trung bình thế giới. Trạng thái an ninh năng lượng
Việt Nam chưa được bảo đảm, hiện tượng xa thải phụ tải điện xảy ra thường xuyên
vào kỳ cao điểm. Dự trữ dầu quốc gia chưa đủ khả năng bình ổn giá khi xay ra khủng
hoảng giá dầu trên thị trường quốc tế.
Nghiên cứu của các nhà khoa học Viện Khoa học Năng lượng đã chỉ ra rằng Việt Nam
sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nguồn năng lượng trong tương lai không xa.


18


Chúng ta sẽ trở thành nước nhập khẩu năng lượng trước năm 2020. Nếu không đảm
bảo được kế hoạch khai thác các nguồn năng lượng nội địa hợp lý, tình huống phải
nhập khẩu năng lượng sẽ xuất hiện vào khoảng năm 2015. Điều đó cho thấy vấn đề
năng lượng của Việt Nam sẽ chuyển từ giới hạn trong phạm vi một quốc gia thành một
phần của thị trường quốc tế và chịu sự tác động thay đổi của nó. Việc xem xét phát
triển các nguồn năng lượng khác bên cạnh các nguồn năng lượng cơ bản ngày càng trở
nên quan trọng trong cơ cấu nguồn năng lượng Việt Nam trong tương lai, đặc biệt là
các nguồn năng lượng tái tạo. Theo đánh giá của các nhà khoa học Viện Khoa học
năng lượng, trong các nguồn năng lượng tái tạo, trong tương lai, nguồn địa nhiệt có thể
khai thác tổng cộng khoảng 340 MW; Năng lượng mặt trời, gió, tổng cộng tiềm năng
phát triển cả hai loại hình dự báo có thể đạt tới 800- 1.000 MW vào năm 2025; Tiềm
năng sinh khối được đánh giá vào khoảng 43-46 triệu TOE/năm. Việc phát triển nguồn
năng lượng mới này không chỉ giải quyết vấn đề cân bằng cung cầu năng lượng, an
ninh năng lượng mà còn góp phần quan trọng giảm phát thải khí nhà kính, chống biến
đổi khí hậu toàn cầu.

Trong thời gian tới, các nghiên cứu khoa học về phương pháp luận và xây dựng mô
hình tối ưu phát triển tổ hợp năng lượng nhiên liệu để cung cấp cơ sở khoa học cho
việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển năng lượng bền vững và đảm bảo an
ninh năng lượng quốc gia cần được đẩy mạnh hơn nữa.

19


4.4.1.5 Hiện trạng khoáng sản ở VN hiện nay:
Nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, bao gồm cả kim loại

và phi kim loại như đồng, sắt, thiếc, vàng, than, dầu,v.v... Đến nay công tác điều tra
khảo sát đã phát hiện và ghi nhận trên lãnh thổ nước ta có khoảng trên 5.000 mỏ và
điểm quặng với trên 70 loại khoáng sản khác nhau, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền
núi và vùng cao.
Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam mặc dù còn kém phát triển,
nhưng cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong
hơn một thập kỷ qua, tổng sản lượng khai thác khoáng sản hàng năm của cả nước tăng
trung bình 10%.
Khai thác tài nguyên khoáng sản đem lại lợi ích kinh tế rõ ràng, tuy nhiên phát triển
ngành công nghiệp khai khoáng cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường tự
nhiên và sức khỏe con người.
Chu trình khai thác khoáng sản thường qua 3 bước: mở cửa mỏ, khai thác và đóng cửa
mỏ. Mỗi bước bao gồm nhiều công đoạn khác nhau và có những tác động khác nhau
tới môi trường.

Trong quá trình mở cửa mỏ, vấn đề môi trường nảy sinh khi mở đường vào khu mỏ,
khi dọn mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng, khi mở rộng khai thác và đưa lực lượng
công nhân, cán bộ kỹ thuật vào khu mỏ. Ở vùng trung du hay miền núi do địa hình
hiểm trở, để mở đường phải nổ mìn phá núi gây tiếng ồn, đá văng nguy hiểm tới cư

20


dân và hệ động vật quanh khu mỏ. Ngoài ra, mở đường cũng phát sinh một lượng bụi
lớn, làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, mất đất lâm nghiệp, thay đổi cảnh quan thiên
nhiên hoặc địa hình khu vực khai thác và một số tác động xã hội khác.
Quá trình khai thác khoáng sản cũng phát sinh những tác động bất lợi tới môi trường
đất, nước và không khí như: Làm biến đổi địa hình khu vực; gây trượt lở đất; gây xói
mòn bồi lấp dòng chảy (mỏ mangan Tốc Tác - Cao Bằng); thu hẹp diện tích và làm

suy thoái chất lượng đất canh tác, đất rừng hoặc thậm chí cả đất ở (rừng ở Cẩm Phả đã
suy giảm chỉ còn 1.147 ha chỉ trong 5 năm từ 1985 đến 1990); làm giảm nguồn nước
mặt, nước ngầm và thay đổi chế độ thủy văn, thay đổi chất lượng nước (nước suối ở
mỏ chì- kẽm Lang Hích, nước giếng ở mỏ vàng Hiếu Liêm, các hồ ở khu vực mỏ than
Mạo Khê đều có hàm lượng các chất độc hại như kem, đồng, thủy ngân, asen, v.v...
vượt tiêu chuẩn cho phép); ô nhiếm không khí do bụi, khí thải độc hại (ở các mỏ kín),
tiếng ồn và độ rung lớn (ở các mỏ lộ thiên); ô nhiễm phóng xạ (tại các mỏ titan, đồng
sinh quyển và một số mỏ than); gia tăng các sự cố môi trường như sạt lở gây chết
người ở mỏ mangan Tốc Tác - Cao Bằng, nổ ở mỏ dầu Lan Tây, sập hầm lò ở mỏ than
Mông Dương đầu năm 2006 do hoạt động khai thác than "thổ phỉ", v.v... Có thể nói,
khai thác khoáng sản trái phép không chỉ gây lãng phí tài nguyên mà còn tiềm ẩn
nhiền nguy cơ tai biến và tình trạng ô nhiễm nước thải và chất thải rắn.
Trên thực tế, ngay cả khi đã ngừng khai thác khoáng sản, đóng cửa mỏ thì các tác
động bất lợi tới môi trường vẫn tiếp diễn trong thời gian dài. Tác động dễ thấy nhất là
tình trạng đất hoang hóa hoặc ô nhiễm môi trường (mỏ cromit ở Cổ Định - Thanh Hóa,
mỏ vàng ở Chiêm Hóa).
Hiện nay, trước thách thức lớn giữa nhu cầu khai thác phuc vụ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và đi đôi với nó là nguy cơ ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên
khoáng sản, Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Kế hoạch hành động quốc gia về bảo vệ
môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiều văn bản pháp lý
khác liên quan đến ngành khai thác khoáng sản đã được thông qua.
Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường do khai thác khoáng sản vẫn diễn ra phổ
biến ở nhiều nơi xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
4.4.1.6. Thực trạng bảo vệ rừng và phát triển rừng ở VN:
Theo tài liệu của Maurand thì trước năm 1945, Việt Nam có 14 triệu ha rừng, chiếm
hơn 42% diện tích tự nhiên của cả nước, năm 1990 diện tích rừng chỉ còn 28,4 %,

21



Năm 2000 diện tích tăng lên 33,2 % (11 triệu ha) (Niên giám thống kê, 2000), trong đó
có 8 triệu ha rừng đã được giao cho chủ rừng (Hà Công Tuấn,2001)… Trên thực tế,
rừng vẫn bị xâm hại và chỉ còn khoảng 10 % là rừng nguyên thủy và từ năm 1996 –
2000, mỗi năm vùng Tây Nguyên mất đi 10.000 ha rừng. Trong cả nước thì hiện nay
mỗi năm chúng ta trồng được 200.000 ha rừng nhưng diện tích rừng bị mất khoảng
120.000 – 150.000 ha.

Do nước ta trải dài từ Bắc xuống Nam và địa hình có nhiều cao độ khác nhau so với
mực nước biển nên rừng phân bố trên khắp các dạng địa hình, với nét độc đáo của
vùng nhiệt đới và rất đa dạng: có nhiều rừng xanh quanh năm, rừng già nguyên thủy,
rừng cây lá rộng, rừng cây hỗn giao lá kim và lá rụng, rừng cây bụi và đặc biệt là rừng
ngập mặn...
Rừng Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật rất đa dạng. Có thể nói nước ta là trung
tâm du nhập của các luồng thực vật và động vật từ phía Bắc xuống, phía Tây qua, phía
Nam lên và từ đây phân bố đến các nơi khác trong vùng. Ðồng thời, nước ta có độ cao
ngang từ mực nước biển đến trên 3.000 m nên có nhiều loại rừng với nhiều loại thực
vật và động vật quý hiếm và độc đáo mà các nước ôn đới khó có thể tìm thấy được:
* Về thực vật: Theo số liệu thống kê gần đây thì có khoảng 12.000 loài thực vật,
nhưng chỉ có khoảng 10.500 loài đã được mô tả (Phạm Hoàng Hộ, 1991- 1993), trong
đó có khoảng 10% là loài đặc hữu; 800 loài rêu; 600 loài nấm... Khoảng 2.300 loài cây
có mạch đã được dùng làm lương thực, thực phẩm, làm thức ăn cho gia súc. Về cây
lấy gỗ gồm có 41 loài cho gỗ quí (nhóm 1), 20 loài cho gỗ bền chắc (nhóm 2), 24 loài

22


cho gỗ đồ mộc và xây dựng (nhóm 3)..., loại rừng cho gỗ này chiếm khoảng 6 triệu ha.
Ngoài ra, rừng Việt Nam còn có loại rừng tre, trúc chiếm khoảng 1,5 triệu ha gồm
khoảng 25 loài đã được gây trồng có giá trị kinh tế cao. Ngoài những cây làm lương
thực, thực phẩm và những cây lấy gỗ ra, rừng Việt Nam còn có những cây được sử

dụng làm dược liệu gồm khoảng 1.500 loài trong đó có khoảng 75% là cây hoang dại.
Những cây có chứa hóa chất quý hiếm như cây Tô hạp (Altingia sp.) có nhựa thơm,
được tìm thấy ở vùng núi Tây Bắc và Trung bộ; cây Gió bầu (Aquilaria agalocha) sinh
ra trầm hương, phân bố từ Nghệ Tỉnh đến Thuận Hải; cây dầu rái (Dipterocarpus) cho
gỗ và cho dầu nhựa...
* Về động vật: rất đa dạng, ngoài các loài động vật đặc hữu, Việt Nam còn có những
loài mang tính chất tổng hợp của khu hệ động vật miền Nam Trung Hoa, Ấn Ðộ, Mã
Lai, Miến Ðiện. Hiện tại đã thống kê được khoảng 774 loài chim, 273 loài thú, 180
loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 475 loài cá nước ngọt và 1.650 loài cá ở rừng ngập mặn
và cá biển; chúng phân bố trên những sinh cảnh khác nhau, trong đó có nhiều loài có
giá trị kinh tế cao, có ý nghĩa khoa học. Nhiều loài quý hiếm có tên trong “Sách đỏ của
thế giới”.
4.4.2. Các giải pháp sử dụng TNTN:
4.4.2.1 Một số vấn đề về sử dụng TNTN để phát triển kinh tế:
Phát triển lâm nghiệp bền vững. Quy hoạch và có chính sách phát triển phù hợp các
loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng với chất lượng được nâng cao.
Nhà nước đầu tư và có chính sách đồng bộ để quản lý và phát triển rừng phòng hộ và
rừng đặc dụng, đồng thời bảo đảm cho người nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng có
cuộc sống ổn định. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
đầu tư trồng rừng sản xuất; gắn trồng rừng nguyên liệu với công nghiệp chế biến ngay
từ trong quy hoạch và dự án đầu tư; lấy nguồn thu từ rừng để phát triển rừng và làm
giàu từ rừng.
Khai thác bền vững, có hiệu quả nguồn lợi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ, gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển. Phát triển nuôi trồng thuỷ
sản theo quy hoạch, tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây
dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ vào sản xuất và chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp

23



ứng yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm. Xây dựng ngành thuỷ sản Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực.
Quy hoạch và phát triển có hiệu quả nghề muối, bảo đảm nhu cầu của đất nước và đời
sống diêm dân.
Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi trường với
phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án. Các dự án đầu tư xây dựng mới phải
bảo đảm yêu cầu về môi trường. Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về bảo vệ môi trường; xây dựng chế
tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm. Khắc phục suy thoái, bảo vệ môi
trường và cân bằng sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường. Thực hiện tốt chương
trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng; tăng diện tích các
khu bảo tồn thiên nhiên. Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất,
nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Hạn chế và tiến tới không
xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện
với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng
lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi
trường, phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu và đánh
giá tác động để chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng, chống
thiên tai và Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển
dâng. Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của
cộng đồng quốc tế.
Mặt khác, để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững về mặt môi
trường và xã hội thì cần giải quyết tính hiệu quả, sự bền vững môi trường và sự công
bằng trong tất cả các lĩnh vực tài nguyên như đất, nước, rừng, tài nguyên biển và tài
nguyên khoáng sản.
Hiện nay, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được “nạp” nhiên liệu từ cường độ khai thác

tài nguyên thiên nhiên. Điều này chứng tỏ, tính hiệu quả kinh tế trong quản lý tài
nguyên đang tăng lên nhưng vẫn còn tồn tại những cản trở như thực thi quyền sở hữu,

24


quản lý tài nguyên nước chưa hiệu quả, quy hoạch tổng thể mang tính áp đặt, không
linh hoạt để cân đối các yếu tố và tối đa hóa hiệu quả kinh tế lâu dài.
Để góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, sự bền vững môi trường và công bằng xã hội,
đề xuất ưu tiên ngắn hạn một số chương trình: tăng cường tính công khai, minh bạch
trong các thị trường đất đai; cải tiến việc thu thập dữ liệu về nước; thực thi các tiêu
chuẩn dữ liệu nghiêm ngặt trong ngành lâm nghiệp; nâng cấp cơ sở dữ liệu nhằm xác
định hiện trạng nghề cá và các mức đánh bắt hợp lý; công bố kết quả đánh giá tác động
môi trường từ việc khai thác khoáng sản.
Ngoài ra, các ưu tiên đổi mới khác như hiện đại hóa quản lý địa chính nhằm giảm chi
phí giao dịch, tăng hiệu quả tưới tiêu, tăng năng suất rừng trồng, cải cách cơ chế trợ
cấp cho ngành đánh bắt cá… Bên cạnh đó, các cơ chế chia sẻ lợi ích cộng đồng, đền
bù tài sản bị tổn thất theo giá trị thị trường, tăng cường điều kiện tiếp cận thông tin,
minh bạch trong quản trị và sự tham gia của công chính. Đây là những đổi mới căn
bản để đảm bảo sự công bằng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.
4.4.2.2 Bảo vệ tài nguyên môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững:
Lịch sử kinh tế thế giới cũng như ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cho phép rút ra những bài học đắt giá về chiến lược phát triển kinh tế nặng về khai
thác tài nguyên, coi nhẹ tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh
thái. Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng đã thẳng thắn nêu rõ, môi trường tự
nhiên ở nhiều nơi bị huỷ hoại, ô nhiễm nặng, và đề ra nhiệm vụ phải bảo vệ và sử dụng
có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Vấn đề phát triển kinh tế gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường của nước ta vừa
chịu tác động của những vấn đề mang tính toàn cầu, vừa xuất phát từ thực tiễn chiến
lược phát triển kinh tế của bản thân nước ta. Những vấn đề môi trường toàn cầu như

khí thải gây hiệu ứng nhà kính, thay đổi khí hậu, phá thủng tầng ôzôn, hiệu ứng của El
Nino...là những hiện tượng tự nhiên của thế giới mà không nước nào có thể tránh
được. Công nghệ sản xuất điện, cơ khí luyện kim, chế biến, kể cả sản xuất nông
nghiệp có nhiều chất thải độc hại và phá hoại môi trường của những năm 50 đến 80
của thế kỷ XX trên thế giới cũng được du nhập vào nước ta một cách dễ dàng. Trong
quan hệ thương mại quốc tế, nước ta muốn có ngoại tệ để mua máy móc, trang thiết bị
nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa thì không có con đường nào khác là khai thác tài
nguyên để xuất khẩu. Nước ta tiến hành công nghiệp hóa bắt đầu từ những năm 60 của

25


×